Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.87 KB, 99 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
–––––––––––––––––––






LÊ THỊ PHƯƠNG







SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỦA
ĐẶNG THAI MAI








LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC










Hà Nội - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
––––––––––––––





LÊ THỊ PHƯƠNG





SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỦA
ĐẶNG THAI MAI





CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 32



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN KHÁNH THÀNH





Hà Nội - 2010

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 10
4. Phương pháp nghiên cứu 11
5. Cấu trúc luận văn 12
Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA ĐẶNG THAI MAI VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC 13
1.1. Công trình Văn học khái luận 13
1.2. Những tiểu luận khác 24

1.3. Tiểu kết 28
Chương 2: ĐẶNG THAI MAI VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 29
2.1. Nghiên cứu văn học Trung Quốc 29
2.2. Nghiên cứu văn học phương Tây 44
2.3. Tiểu kết 48
Chương 3: ĐẶNG THAI MAI VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM 50
3.1. Nguồn ảnh hưởng văn học dân gian Việt Nam 50
3.2. Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam 54
3.2.1. Vài nét chung 54
3.2.2. Công trình Giảng văn “Chinh phụ ngâm” 60
3.2.3. Công trình Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX 1900-1925 66
3.2.4. Công trình Văn thơ Phan Bội Châu 72
3.3. Nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam 79
3.3.1. Những tiểu luận đặc sắc về thơ Hồ Chí Minh 79
3.3.2. Những bài viết về thơ Tố Hữu 84
3.3.3. Những nhận định về văn học miền Nam Việt Nam dưới chế độ Mỹ -Diệm 87
3.4 . Tiểu kết 89
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94


Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 0

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo sư Đặng Thai Mai là một trong những người mà tên tuổi đã trở
nên quen thuộc với độc giả và uy tín đã được khẳng định vững chắc trên văn
đàn văn học Việt Nam từ những năm 1940. Ông là một nhà trí thức yêu nước,
nhà văn hoá và là học giả có những cống hiến to lớn cho nền giáo dục và nền

văn hoá nước nhà.
Đặng Thai Mai sinh ngày 25-12-1902 tại làng Lương Điền (nay là xã
Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, mất ngày 25-9-1984 tại
Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học có truyền thống yêu nước
và hiếu học “đi qua tuổi thơ trong sự thiếu vắng cha mẹ và những nơm nớp lo
âu, vì bị chính quyền thực dân Pháp liệt vào hàng “Cừu gia tử đệ”, luôn bị “để
ý theo dõi” [27, tr. 66]. Đặng Thai Mai hoạt động trên nhiều lĩnh vực, từng là
Bộ trưởng Bộ Giáo dục, là Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh Thanh Hoá và đã
từng giữ nhiều trọng trách khác trong chính quyền Cách mạng nhưng dấu ấn
sâu đậm nhất mà Đặng Thai Mai để lại là nhà sư phạm mẫu mực suốt đời say
mê “truyền giáo” và là một nhà nghiên cứu văn học tài hoa uyên bác. Trong
sự nghiệp giáo dục, Giáo sư Đặng Thai Mai là tấm gương sáng về một người
thầy được nhiều thế hệ tôn vinh là “bậc sư biểu quốc gia”. Với 50 năm tận
tâm dạy dỗ, Giáo sư Đặng Thai Mai đã đào tạo được hàng chục thế hệ học trò
góp phần làm nên diện mạo văn hoá nước nhà. Còn trong lĩnh vực nghiên cứu
văn học, ông cũng được tôn vinh “bậc thầy”, là người mở đường, đắp móng
cho nhiều chuyên ngành nghiên cứu văn học như lý luận văn học, nghiên cứu
văn học Trung Quốc hiện đại, lịch sử văn học Việt Nam cận hiện đại. Tình
cảm yêu nước mãnh liệt, phẩm chất nhân văn giàu có, niềm say mê văn học
và tài năng thiên phú đã giúp ông trở thành nhà lý luận, phê bình, nghiên cứu
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 1

văn học có uy tín lớn của thế kỷ XX ở Việt Nam. Cả cuộc đời Đặng Thai Mai
dành trọn cho một mục đích duy nhất: phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Say mê văn chương từ nhỏ nhưng Đặng Thai Mai bước vào con đường
sáng tác và nghiên cứu văn chương hơi muộn. Ngoài 30 tuổi ông mới viết và
cho đăng tải những bài đầu tiên bằng tiếng Pháp với nhiều bút danh khác nhau
như Thanh Tuyền, Thanh Bình… trên các tờ báo của Đảng Cộng sản Đông
Dương như Lao động (Le Travail), Tiến lên (En avant), Tập hợp

(Rassemblement), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix). Những tác phẩm của
ông có ý nghĩa thời sự và giàu tính chiến đấu, thực sự là vũ khí đấu tranh cách
mạng. Ngòi bút của ông giàu lòng nhân ái và tinh thần ngợi ca khi viết về
những tấm gương hy sinh oanh liệt của những người chiến sỹ cách mạng và
những người dân yêu nước, đồng thời rất sắc sảo và thâm thuý khi viết những
tác phẩm đả kích, châm biếm bè lũ tay sai bán nước và thực dân phong kiến.
Với tâm niệm, mục đích tối thượng của văn chương là phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân, bằng tác phong khoa học, bằng nghị lực phi thường,
tinh thần học hỏi và tài năng sẵn có, Đặng Thai Mai đến với công tác nghiên
cứu văn học và thu được rất nhiều thành công.
Về lý luận văn học, Văn học khái luận (1944) - cuốn sách theo quan
điểm mác xít đầu tiên ở Việt Nam - đưa Đặng Thai Mai trở thành một trong
những người đặt nền móng đầu tiên cho nền lý luận mác xít ở nước ta. Bên
cạnh đó, Đặng Thai Mai còn viết nhiều tiểu luận sắc sảo như: Nhân vật và
lịch sử (1944), Vấn đề dân tộc hoá (1946), Chân lý nghệ thuật (1946), Vấn đề
lập trường trong văn nghệ (1946), Kháng chiến và văn hoá (1947), Một vài
vấn đề về lý luận văn nghệ kháng chiến (1948)…
Không chỉ khẳng định vị trí trong lĩnh vực lý luận văn học, Đặng Thai
Mai còn tập trung nghiên cứu văn học nước ngoài và văn học Việt Nam. Ông
khám phá văn học hiện đại Trung Quốc, đặc biệt quan tâm đến Lỗ Tấn, một
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 2

nhà văn vĩ đại xuất hiện trong phong trào Ngũ tứ. Những thành quả của ông
về Lỗ Tấn được công bố tiếp nối trên báo Thanh nghị. Sau này những bài viết
và tác phẩm dịch được tập hợp lại trong cuốn Lỗ Tấn, thân thế, văn nghệ
(1945). Đặng Thai Mai còn nghiên cứu văn học phương Tây, đặc biệt là thời
kỳ Phục hưng. Ông đã cho ra đời những bài viết mang giá trị khoa học cao,
thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá Phục hưng như Chủ nghĩa nhân văn
dưới thời kỳ văn hoá Phục hưng (1949). Ngoài ra, ông còn có những trang

viết về các sáng tác của Xécvăngtét, Sếchxpia như bài viết về Kỷ niệm 350
năm Tập truyện nhà Kỵ sĩ Đông Kisốt (1955-1960), bài viết trong lễ kỷ niệm
400 năm ngày sinh của Sếchxpia (1964)…
Thông kim bác cổ, am hiểu Đông Tây, nhưng mục đích cuối cùng Đặng
Thai Mai hướng tới là nghiên cứu văn học Việt Nam. Những trang viết của
Đặng Thai Mai thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trầm tích văn hoá
quê hương đất nước, đặc biệt là văn hoá - văn học dân gian xứ Nghệ. Mặc dù
không viết một bộ lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại nhưng Đặng Thai
Mai có những bài viết quan trọng, có tính chất gợi mở cho các nhà nghiên cứu
về sau. Nổi bật và có giá trị nhất trong các công trình nghiên cứu văn học
trung đại Việt Nam của Đặng Thai Mai phải kể đến Giảng văn “Chinh phụ
ngâm” - cuốn sách “có một giá trị đặc biệt về kiến thức và phương pháp” [27,
tr. 307], Văn thơ Phan Bội Châu (1958) - công trình “vừa là khoa học vừa là
văn chương” [27, tr. 327] và Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
1900-1925 (1961) - “bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng từ phong trào
Cần vương, Duy tân đến Đông Kinh nghĩa thục” [27, tr. 36].
Ngòi bút tinh tế và sắc sảo của Đặng Thai Mai còn hướng đến văn học
hiện đại Việt Nam. Ông nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh, đăc biệt là khám phá
Tình cảm thiên nhiên trong “Ngục trung nhật ký” (1970), Đọc lại “Ngục
trung nhật ký” (1970), Suy nghĩ về yếu tố tinh thần trong “Ngục trung nhật
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 3

ký” (1975)… Ông còn tìm hiểu thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca cách mạng
Việt Nam với những bài viết đầy nhiệt huyết và say mê: Lời giới thiệu tập thơ
“Từ ấy” (1959), Khi nhà nghệ sỹ “tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất cả
tâm hồn mình (1963)… Đóng góp của Đặng Thai Mai đối với công tác nghiên
cứu văn học nước nhà còn biểu hiện ở việc ông là một trong những người đầu
tiên quan tâm khám phá mảnh đất văn học miền Nam thời kỳ tạm chiếm.
Những nhận định của ông trong các bài viết Văn học miền Nam dưới chế độ

Mỹ - Diệm (1962), Lối thoát của văn học công khai vùng Mỹ kiểm soát ở miền
Nam (1964), Chào mừng đoàn đại biểu Mặt trận giải phóng miền Nam (1969)
đã góp phần mở đường cho các nhà nghiên cứu sau này.
Ngoài những công trình nghiên cứu văn học có giá trị to lớn nói trên,
dấu ấn Đặng Thai Mai để lại trong lòng bạn bè, đồng nghiệp, học trò và độc
giả còn thể hiện qua những trang Hồi ký tuy dang dở nhưng tình cảm chân
thành, giản dị vô cùng. Những trang viết về O tôi (1976), Thương tiếc thầy Lê
Thước (1975), Về một tình bạn từ thời học sinh (1983), Về việc tiếp nhận “Đề
cương văn hoá 1943” (1983), Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi
(1978)… càng khẳng định nhân cách sáng ngời, lòng yêu nghề, yêu cuộc sống
và những nỗ lực không ngừng trên đường học tập và nghiên cứu đầy khó
khăn nhưng vô cùng vinh quang của ông.
Nhìn lại sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai, với hơn
năm mươi năm lao động và sáng tạo, ông đã sống hết mình cho công việc và
nghề nghiệp. Sự nghiệp nghiên cứu văn học phong phú, đa dạng, có giá trị to
lớn của ông là thành quả rực rỡ của sức lao động bền bỉ và giàu sáng tạo. Có
những nền văn học Đặng Thai Mai dành nhiều thời gian nghiên cứu và cũng
có những nền văn học ông chỉ đủ thời gian để điểm qua song những nhận định
của ông ít nhiều đều mới mẻ và mang tính gợi mở. Những danh hiệu cao quý
mà Đảng và Nhà nước dành tặng cho ông là sự bù đắp xứng đáng cho những
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 4

gì ông đã cống hiến: Huân chương Lao động hạng Nhì (1958), Huân chương
Hồ Chí Minh (1982), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, đợt
I (1996).
Có thể nói, Đặng Thai Mai là một hình ảnh rất đẹp của những người trí
thức đi trên con đường lớn cách mạng, bay lên trong gió lớn cách mạng. Bên
cạnh những cây bút nghiên cứu văn học uy tín sắc sảo như Hoài Thanh, Hải
Triều, Vũ Ngọc Phan… Đặng Thai Mai đã tạo được dấu ấn riêng, vững vàng

về quan điểm, tư tưởng, có chiều sâu học thuật, bút pháp diễn tả độc đáo và có
sức “nặng” ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn học Việt Nam. Những công
trình nghiên cứu của ông không chỉ có giá trị thời đại mà còn có giá trị lịch sử
to lớn. Tìm hiểu sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai một lần
nữa chúng tôi muốn ghi nhận và khẳng định hơn nữa vai trò, vị trí của ông đối
với nền văn học nước nhà nói chung và lĩnh vực nghiên cứu văn học nói
riêng, đồng thời khẳng định một phong cách nghiên cứu độc đáo.
2. Lịch sử vấn đề
Các bài viết về Đặng Thai Mai chủ yếu tập trung vào một số tuyển tập
như: Đặng Thai Mai và văn học, Nhà xuất bản Nghệ An, 1994; Nhớ Đặng
Thai Mai, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004, và gần đây nhất là Đặng
Thai Mai về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2007 do
Trần Khánh Thành tuyển chọn và giới thiệu. Trên cơ sở đó, chúng tôi tóm tắt
lại những luận điểm nhận xét về học giả Đặng Thai Mai như sau:
Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp giáo dục:
Những bài viết khẳng định đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp
giáo dục đều xuất hiện sau khi ông mất với nhiều Hồi ức và kỷ niệm của
những đồng nghiệp, những học trò và người thân của ông.
Giáo sư Đặng Thai Mai là thầy dạy của rất nhiều học trò, trong đó có
những trí thức tài năng và tâm huyết như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Xiển,
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 5

Nguyễn Xuân Yên, Phan Anh, Phan Mỹ, Phan Trinh Cán, Nguyễn Cao
Luyện, Hoàng Minh Tiệp, Trịnh Hồ Thi, Bùi Kỷ… Những người đã được học
với thầy Đặng Thai Mai đều vô cùng trân trọng, khâm phục tài năng, tâm
huyết và đức độ của thầy. Dù mới ngoài ba mươi tuổi nhưng các nữ sinh
Thăng Long thời đó đã trìu mến gọi thầy là “severe papa” (người cha nghiêm
nghị). Trong bài viết Thầy Đặng Thai Mai ở trường tư thục Thăng Long, ông
Đào Thiện Thi, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động, học trò cũ của Trường tư

thục Thăng Long kể lại rằng, thầy Mai “sống giản dị, chan hoà với học sinh
nhưng cũng rất nghiêm khắc trong kỷ luật học tập, và nếu cần thầy vẫn có
những nhận xét nghiêm túc và công khai ngay tại lớp học, đối với cả học sinh
nam và nữ” [27, tr. 486].
Thầy Đặng Thai Mai chuyên dạy về Pháp văn và văn học Pháp. Tình
yêu văn chương đến say đắm, tình yêu con người sâu nặng và lòng yêu nghề
thiết tha của Đặng Thai Mai đã làm cho những giờ dạy của thầy rất hấp dẫn,
sinh động. Nhà văn Vũ Tú Nam - nguyên Tổng thư ký Hội nhà văn, trong bài
viết Thầy Đặng Thai Mai của chúng tôi đã khẳng định: “Từ văn chương trong
sách, thầy đã giúp các trò đồng cảm với thiên nhiên, con người và cuộc sống”
[27, tr. 445]. Rồi ông Hồ Trúc - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục trong bài
viết Thầy Đặng Thai Mai đã ghi lại dấu ấn không phai mờ về “người anh tinh
thần” của cả thế hệ: “Nói đến thầy Mai là nói đến một nhà giáo uyên bác, nói
đến một con người tuyệt vời về phẩm chất đạo đức, nói đến tình thầy trò, sự
giản dị và khiêm tốn của một trí thức gương mẫu, hết lòng vì Tổ quốc, vì con
người” [27, tr. 457].
Tiếp đến hàng chục bài viết của các tác giả như Đặng Thai Mai - người
thầy của thế hệ chúng tôi của Phong Lê, Những dòng tưởng niệm của Bùi
Duy Tân, Một vài kỷ niệm về Giáo sư Đặng Thai Mai của Nguyễn Xuân
Dương, Mấy kỷ niệm về Giáo sư Đặng Thai Mai của Vũ Đức Phúc, Nhớ về
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 6

thầy, một nhà sư phạm, một học giả chân chính của Phan Trọng Luận, Tưởng
nhớ thầy Mai của Nhan Bảo, Thầy Đặng Thai Mai, thầy tôi của Vũ Thuần
Nho, Kỷ niệm về thầy Đặng Thai Mai của Phạm Thuỷ Ba, Mấy kỷ niệm về
thầy Đặng Thai Mai của Minh Hiệu, Nhớ thầy, ơn thầy của Nguyễn Kim
Đính, Người thầy ấy của Vũ Cao, Người thầy nghiêm khắc của tôi của Phạm
Tú Châu, Nhớ về một người thầy yêu kính của Lê Bá Hán… tất cả đều thể
hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc, lòng cảm phục, kính trọng tài năng đức độ của

thầy.
Sự kính trọng hết mực đối với nhân cách thầy Đặng Thai Mai còn bao
hàm cả lòng biết ơn sâu sắc đối với tấm lòng nhân ái của Giáo sư, một người
thầy hết lòng thương yêu học trò, đã giúp đỡ về mặt tài chính khi học trò có
khó khăn dù hoàn cảnh gia đình thầy cũng không khá giả gì. Xúc động biết
bao khi đọc những bài viết Tấm lòng của Giáo sư Đặng Thai Mai đối với học
trò của Nguyễn Tài Cẩn, Thầy Đặng Thai Mai - một tấm lòng nhân ái của
Nguyễn Xuân Ngọc.
Những học trò của thầy Mai, dù người trong nước hay người nước
ngoài đều có chung tình cảm trân trọng kính yêu như thế. Giáo sư, Tiến sĩ N.I.
Niculin, Viện sĩ Viện Văn học thế giới Cộng hoà Liên bang Nga trong bài viết
Đặng Thai Mai: con người, nhà khoa học, người thầy, Giáo sư Sáclơ
Phuốcniô với Tưởng nhớ Giáo sư Đặng Thai Mai, Giáo sư Nhan Bảo, Trường
Đại học Bắc Kinh với Tưởng nhớ thầy Mai, Giáo sư Lý Tu Chương, cán bộ
Viện Nghiên cứu Văn học nước ngoài ở Trung Quốc với Tấm gương một
người thầy đều có chung một cái nhìn đầy thiện cảm, niềm kính trọng Giáo sư
Đặng Thai Mai như đối với một học giả đại diện cho học thuật Việt Nam.
Qua những dòng hồi ức và tưởng niệm của học trò và đồng nghiệp,
Giáo sư Đặng Thai Mai được tôn vinh là một nhà sư phạm mẫu mực, tài năng
đức độ, suốt đời say mê cống hiến cho sự nghiệp trồng người của dân tộc.
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 7

Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với sự nghiệp nghiên
cứu văn học: Vị trí danh dự mà Đặng Thai Mai có được không chỉ trong sự
nghiệp giáo dục. Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, ông cũng được tôn vinh
bậc thầy, là nhà học giả uyên bác, có uy tín lớn ở Việt Nam thế kỷ XX.
Đặng Thai Mai nghiên cứu ba nền văn học chính: văn học hiện đại
Trung Quốc, văn học phương Tây, nhất là thời kỳ Phục hưng và đặc biệt là
văn học Việt Nam. Đối với mỗi nền văn học, Đặng Thai Mai đều đưa ra

những nhận xét chính xác, tinh tế, có giá trị khoa học cao.
Đóng góp của Đặng Thai Mai đối với văn học Trung Quốc được
Trương Chính đánh giá trong bài viết Đặng Thai Mai và văn học Trung Quốc
là một việc làm có “tính chất mở đường” và những tác phẩm dịch của Đặng
Thai Mai đã tạo được những “tiếng vang mạnh mẽ hơn nhiều” so với những
tác phẩm dịch thuật của Nhượng Tống, Tản Đà, Ngô Tất Tố. Gần đây nhân
dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đặng Thai Mai (1902-2002), Lê Huy Tiêu
đưa ra những nhận định về vai trò của Đặng Thai Mai đối với việc nghiên
cứu, tìm hiểu, dịch thuật và đưa những sáng tác của Lỗ Tấn vào Việt Nam. Lê
Huy Tiêu cho rằng: “Bài giới thiệu AQ chính truyện tuy còn sơ sài, chưa
phong phú nhưng đã nói được một số ý sâu sắc”, “về cơ bản, Đặng Thai Mai
đã tạo dựng được diện mạo văn hào Lỗ Tấn cùng sáng tác của ông” [27, tr.
235].
Đánh giá đóng góp của Đặng Thai Mai đối với văn học phương Tây, có
bài Đặng Thai Mai với văn học phương Tây của Nguyễn Kim Đính, Đặng
Thai Mai và văn học Pháp của Trần Hinh, Đặng Thai Mai với nền văn học
Đức của Trần Đương. Trong các bài viết, các tác giả đều cho rằng, tuy Đặng
Thai Mai không dành nhiều thời gian nghiên cứu văn học phương Tây, nhưng
ông có một vốn hiểu biết tương đối phong phú và toàn diện về nền văn học
này. Từ những hiểu biết đó, Đặng Thai Mai đưa ra những định hướng rất cần
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 8

thiết nhằm giúp đỡ những người nghiên cứu văn học phương Tây phát triển
ngành khoa học này.
Văn học Việt Nam là đối tượng chính trong nghiên cứu của Đặng Thai
Mai. Chính vì thế, những thành tựu nghiên cứu của Đặng Thai Mai đạt được
trong lĩnh vực này là nổi bật và có giá trị nhất. Nhận xét về vốn hiểu biết của
Đặng Thai Mai về văn học dân gian Việt Nam, Đỗ Bình Trị cho rằng Đặng
Thai Mai là người “đồng sáng tạo” với tác giả dân gian trong những tác phẩm

mà ông sử dụng, đồng thời cũng khẳng định vốn hiểu biết về văn học dân gian
của Đặng Thai Mai là toàn diện, phong phú. Đặc biệt về văn học trung đại và
cận đại, Đặng Thai Mai có những đóng góp quan trọng và đã được nhiều nhà
nghiên cứu khẳng định. Bùi Duy Tân trong bài Đặng Thai Mai với nền văn
học trung đại Việt Nam, Nguyễn Đình Chú trong bài Thế bút Đặng Thai Mai
đối với văn học trung đại Việt Nam, Chương Thâu trong bài Đặng Thai Mai
với việc nghiên cứu Phan Bội Châu đều nhất trí khẳng định những đóng góp
của Đặng Thai Mai.
Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Thai Mai là một công trình
được đánh giá cao và được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo chọn làm mẫu
mực. Các bài viết Nghĩ về Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đỗ Hữu Châu,
Một số vấn đề lý thuyết giảng văn và thi pháp văn học cổ trong “Giảng văn
Chinh phụ ngâm” của Trần Đình Sử, Đọc lại Giảng văn “Chinh phụ ngâm”
của Hoàng Tuệ đã ghi nhận điều này.
Ngoài ra, Đặng Thai Mai còn có những công trình nghiên cứu văn học
hiện đại Việt Nam. Tác giả Trương Chính với bài viết Đặng Thai Mai và đổi
mới văn học đã ghi nhận đóng góp của ông với nền văn học hiện đại.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu văn học, các công trình về lý
luận văn học của Đặng Thai Mai cũng được nhiều nhà khoa học đánh giá cao.
Hà Minh Đức đã đưa ra nhận xét sau về Văn học khái luận của Đặng Thai
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 9

Mai: “cuốn sách đi vào những vấn đề bản chất nhất, bức thiết nhất của cơ sở
lý luận văn học” [27, tr. 348]. Trần Đình Sử cũng khẳng định Văn học khái
luận là “công trình lý luận văn học đầu tiên” của Việt Nam [27, tr. 343]. Cùng
sự đánh giá tương tự có các bài viết của Phan Cự Đệ: Đặng Thai Mai nhà
nghiên cứu văn học uyên bác, Hà Minh Đức: Phong cách và bút pháp văn
chương Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Khánh: Đôi điều về phong cách một nhà
văn, Đặng Tiến: Phong cách Đặng Thai Mai… Các tác giả đều ghi nhận tài

năng và đóng góp của Đặng Thai Mai đối với nền văn học nước nhà và sự
nghiệp nghiên cứu văn học ở Việt Nam, nhất là hai lĩnh vực lý luận và nghiên
cứu văn học. Đặc biệt những bài viết này không chỉ ghi nhận những thành tựu
mà còn chỉ ra phong cách, phương pháp khoa học của học giả Đặng Thai Mai.
Gần đây, công trình Đặng Thai Mai về tác gia và tác phẩm của Trần
Khánh Thành tập hợp những bài nghiên cứu, phê bình, hồi ký của các nhà
văn, các nhà nghiên cứu, của thân nhân, thân hữu đã được công bố trên các
sách báo hoặc đã được trình bày ở các hội thảo khoa học về Đặng Thai Mai.
Công trình đã góp phần giúp học sinh, sinh viên và đông đảo bạn đọc hiểu
hơn về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Đặng Thai Mai.
Trên cơ sở các công trình tìm hiểu và ghi nhận những đóng góp to lớn
của nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, với luận văn này chúng tôi xác
định đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu sự nghiệp nghiên cứu văn
học của Đặng Thai Mai theo hướng toàn diện, chuyên sâu và có hệ thống.
Qua đó, nhằm mục đích ghi nhận, tôn vinh những đóng góp lớn lao của ông -
nhà trí thức yêu nước, nhà văn hoá và nhà học giả có những cống hiến to lớn
cho nền giáo dục và nền văn hoá nước nhà.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Có thể nói, số lượng các công trình nghiên cứu văn học của Đặng Thai
Mai tương đối nhiều, lại rất đa dạng với nhiều hướng tiếp cận. Trong giới hạn
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 10

của một luận văn, chúng tôi không có tham vọng có thể trình bày hết mọi vấn
đề về Đặng Thai Mai từ con người, quá trình phát triển tài năng, tư tưởng
cũng như tất cả các sáng tác và công trình nghiên cứu của ông. Đối tượng
khảo sát của luận văn này là sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai
Mai, bao gồm những đóng góp về lý luận văn học, về nghiên cứu văn học
nước ngoài và văn học Việt Nam của ông.
Tìm hiểu sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai, chúng tôi

dựa vào cuốn Đặng Thai Mai toàn tập, gồm hai tập, in tại Nhà xuất bản Văn
học, 2004.
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai là một đề tài mới
mẻ và mang tính gợi mở. Hơn nữa, tài năng và nhân cách Đặng Thai Mai
được nhiều người khẳng định, trân trọng và cảm phục. Đặng Thai Mai lại là
người luôn luôn muốn được tìm hiểu thế giới, tìm hiểu văn chương ở khắp
các lĩnh vực. Do khuôn khổ đề tài và thời gian có hạn, chúng tôi mới chỉ
bước đầu đưa ra những nhận định riêng, tập trung đi vào những tác phẩm
tiêu biểu, chọn lựa những luận điểm tổng quát để khảo sát và phân tích.
Trong quá trình phát triển luận văn chắc hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô cũng như sự chia sẻ
của bạn bè để luận văn thực sự hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất của đề tài, trong luận văn này chúng tôi kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tổng hợp và đánh giá

Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 11

5. Cấu trúc luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 chương:
 Chương 1. Đóng góp của Đặng Thai Mai về lý luận văn học
 Chương 2. Đặng Thai Mai với nghiên cứu văn học nước ngoài
 Chương 3. Đặng Thai Mai với nghiên cứu văn học Việt Nam























Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 12

Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA ĐẶNG THAI MAI VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC
Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học, Đặng Thai Mai đã có nhiều cống
hiến xuất sắc với vai trò là người khám phá, mở đường cho nhiều chuyên
ngành văn học, trong đó có lý luận văn học. Những công trình về lý luận văn
học đã giúp ông trở thành một trong những người đặt nền móng đầu tiên cho
lý luận văn học mác xít ở nước ta. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đánh giá:
“Nếu như Hải Triều là người lính xung kích trẻ tuổi đã dũng cảm cắm ngọn

cờ duy vật trên thành luỹ của vị tướng già duy tâm Phan Khôi và giành ưu thế
cho quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh
thì Đặng Thai Mai là người tổng kết lại những luận điểm của Hải Triều bằng
cái học thuật uyên bác của mình” [27, tr. 146]. Trong số các tác phẩm về lý
luận văn học của Đặng Thai Mai, Văn học khái luận được đánh giá cao nhất,
góp phần đặt nền móng cho lý luận văn học Việt Nam.
1.1. Công trình Văn học khái luận
Văn học khái luận là công trình lý luận lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp
chí Văn mới số 36 và 37 ra tháng 6 năm 1944, sau đó mấy tháng được in
thành sách do Hàn Thuyên xuất bản. Đây là tập sách được đánh giá thành
công nhất về lý luận văn học của Đặng Thai Mai, là “cuốn sách lý luận văn
học hiện đại theo quan điểm mác xít đầu tiên ở Việt Nam” [27, tr. 30], đặt nền
móng cho rất nhiều tác phẩm lý luận sau này, đồng thời là cơ sở lý thuyết cho
những công trình nghiên cứu văn học.
Nghiên cứu văn học đặt ra cho lý luận văn học những yêu cầu rất khắt
khe, lý luận phải có chuẩn mực, đúng đắn với hiện tại và phù hợp với tương
lai, đồng thời có giá trị sáng tạo lâu bền. Văn học khái luận đã đáp ứng được
những tiêu chuẩn ấy, và do đó “đã nửa thế kỷ qua, từ khi các tác phẩm ra đời,
Văn học khái luận vẫn là cuốn sách hàng đầu của tác giả và là công trình có
giá trị tư tưởng và học thuật” [27, tr. 348].
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 13

Trước khi cuốn sách xuất hiện, trên diễn đàn văn học công khai đã nảy
sinh cuộc tranh luận nghệ thuật rất sôi nổi giữa hai phái “Nghệ thuật vị nghệ
thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh” kéo dài từ năm 1935 đến năm 1939. Từ
cuộc tranh luận này, nhiều vấn đề lý luận nghệ thuật được đặt ra như mối
quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống xã hội, thiên chức cao quý và sứ mệnh
thiêng liêng của văn chương, phương hướng xây dựng nền văn học mới… Khi
viết Văn học khái luận, cuộc bút chiến khá ồn ào hơn năm năm về trước đã

thành câu chuyện cũ, nhưng Đặng Thai Mai đã rất khéo léo trình bày những
luận điểm đầy sức thuyết phục để tiếp tục bảo vệ và phát triển quan điểm của
phái “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Và một điều đáng trân trọng là tinh thần của
Đề cương văn hoá (1943) với phương châm dân tộc - khoa học - đại chúng
được Đặng Thai Mai tiếp nhận và trình bày sâu sắc trong công trình này.
Văn học khái luận không chuyên sâu vào một vấn đề lý luận, một trào
lưu, hoặc một thể loại văn học. Cuốn sách gồm 7 chương, với độ dày gần 140
trang sách trình bày 7 vấn đề “bản chất nhất, bức thiết nhất của cơ sở lý luận
văn học” [27, tr. 348]: Định nghĩa hai chữ văn học, vấn đề nguyên tắc, vấn đề
sáng tác, nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, vấn đề tự do trong văn
nghệ, tinh thần quốc gia và văn học. Để triển khai những vấn đề lý luận trên,
với ngòi bút sắc sảo kết tinh trí tuệ uyên thâm, sâu rộng trên cơ sở tiếp nhận
từ cả hai nguồn văn hoá phương Đông và phương Tây, Đặng Thai Mai đã đưa
ra những lập luận chặt chẽ, vận dụng sáng tạo những nguyên tắc lý luận vào
thực tiễn văn học góp phần giải quyết nhiều vấn đề cụ thể. Chuyên luận trình
bày khá rành mạch và uyển chuyển các vấn đề lý luận văn học theo quan điểm
mác xít đương thời, đã vận dụng các ý kiến của các tác giả nổi tiếng như
Taine, Plêkhanôp, Mao Thuẫn, Chu Dương và nhiều nhà văn hoá khác. Đặng
Thai Mai đã tranh biện với ý kiến của Tônxtôi, Baldensperger, Lưu Trọng Lư,
Lan Khai, Hồ Phong, Hồ Hoài Thẩm. Đến nay, đã hơn sáu mươi năm trôi qua
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 14

nhưng nhiều vấn đề lý luận trong Văn học khái luận vẫn còn nguyên giá trị,
vẫn phù hợp với bản chất và quy luật vận động của văn học. Những đóng góp
của Đặng Thai Mai trong Văn học khái luận đã được nhiều người khẳng định,
đặc biệt là các ý kiến của Hà Minh Đức và của Trần Đình Sử. Ở đây chúng tôi
xin nhấn mạnh lại một số vấn đề quan trọng mà nhà lý luận hôm nay vẫn cần
phải quan tâm.
Vấn đề thứ nhất là mối quan hệ giữa lý trí và tình cảm trong sáng tạo

văn học. Trong phần bàn về khái niệm văn học, Đặng Thai Mai “không chỉ
giải thích nguồn gốc khái niệm mà điều quan trọng hơn là chỉ ra bản chất của
loại hình nghệ thuật này” [27, tr. 31]. Tác giả Văn học khái luận cho rằng văn
học là “một khoa học nghiên cứu về các tác phẩm thuộc lĩnh vực “văn” và
cũng có ý nghĩa là toàn thể những tác phẩm đó” [1, tr. 53]. Ông đã phê phán
khá triệt để quan điểm của Hồ Hoài Thẩm và Lép Tônxtôi khi họ quá nhấn
mạnh tình cảm trong sáng tạo văn học. Hồ Hoài Thẩm cho rằng: “Thực chất
văn học là tình cảm. Những tình cảm chứa chất lại trong lòng người, sau lúc
đã theo phương pháp mô hình hoá, hay là phương pháp tự nhiên hoá, mà biểu
hiện ra, tức là văn học” [1, tr. 55]; và Lép Tônxtôi khẳng định: “Nghệ thuật là
phương tiện giao tiếp của loài người”, “Nghệ thuật là để biểu hiện tình cảm”
[1, tr. 57]. Đặng Thai Mai thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những quan
điểm trên của các tác giả: “chỉ vì không chọn được một quan điểm xác thực
cho nên các nhà lý luận văn học về phái quan niệm luận không thể giải thích
văn học cho minh bạch” [1, tr. 58]. Trong lịch sử sáng tạo nghệ thuật có rất
nhiều người coi trọng nội dung tình cảm, thu hẹp tiếng nói nghệ thuật trong
thế giới cảm xúc, cảm giác chủ quan của nghệ sỹ. Đây là cách nhìn thiên lệch
và dễ rơi vào duy tâm: “Hoàn toàn ỷ thị vào trực cảm, vào bản năng là một
thái độ kiêu căng điên rồ và nguy hiểm” [1, tr. 58]. Là người rất hăng hái
trong mặt trận văn hoá, Đặng Thai Mai coi trọng nội dung tư tưởng của văn
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 15

học. Ông nhấn mạnh thiên chức của nhà văn chân chính là dùng văn học để
tác động, thức tỉnh nhân dân, cải thiện xã hội. Nhưng ông không phiến diện,
không coi trọng tư tưởng mà xem nhẹ tình cảm. Ông đã lý giải khách quan
bản chất của văn học và con đường tác động của nó đối với con người: “Văn
học có lực lượng để kích động tình cảm của buồng tim, để thoả mãn yêu cầu
mở mang của tư tưởng và đồng thời lại có một hệ thống lý tính thanh sơ dẫn
đạo lương tri và trí tuệ của giống người nữa” [1, tr. 59]. Văn học là tiếng nói

tư tưởng và tình cảm của con người, là lương tri, lương tâm của con người gửi
gắm vào nghệ thuật. Văn học không phải “chỉ là một thủ đoạn để đạo đạt tình
cảm mà thôi, văn học cũng có mục đích đi tìm chân lý và truyền bá tư tưởng”
[1, tr. 58]. Dù ở thời đại nào cũng không nên xem nhẹ một trong những mặt
đó, sự hài hoà giữa lý trí và tình cảm tạo nên vẻ đẹp hài hoà của con người và
cuộc sống.
Vấn đề thứ hai mà Đặng Thai Mai đặc biệt quan tâm là vai trò quan
trọng của chủ thể sáng tạo trong hoạt động nghệ thuật. Trong chuyên luận,
Đặng Thai Mai khẳng định mối quan hệ không thể tách rời của văn học và đời
sống hiện thực. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng ngay từ thời kỳ sơ
sinh của nó đã tồn tại và phát triển trong sự gắn bó mật thiết với đời sống lao
động. Đặng Thai Mai đi sâu vào những luận điểm của Plêkhanôp trong Nghệ
thuật và sinh hoạt xã hội, một cuốn sách đặt những luận điểm cơ sở theo quan
điểm của Mác về mối quan hệ giữa văn nghệ và đời sống xã hội. Ông thấy
rằng: “Những thời kỳ mà xã hội trải qua một cuộc thay đổi lớn đều là những
thời kỳ văn học nảy nở một cách nhanh chóng và tiến triển đến một trình độ
cao” [1, tr. 74]. Tác giả Văn học khái luận đã đưa ra những luận điểm và dẫn
chứng thích hợp tạo nên sức thuyết phục để chứng minh rằng: “Mỗi một chủ
nghĩa văn học đều có căn bản ở sự sinh hoạt xã hội” [1, tr. 67]. Muốn văn học
phát triển, chúng ta chỉ có thể xây dựng nền lý luận văn học quốc gia đó trên
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 16

cơ sở phát triển của nền kinh tế đất nước vì “trong một xã hội lạc hậu từ kinh
tế đến tri thức, thì lẽ cố nhiên vấn đề ấy (lý luận văn học - chú thích của người
viết) chỉ là một xa xỉ phẩm của tri thức ít ai quan tâm đến. Như vậy, văn nghệ
cũng phải cần đến nguyên tắc và luôn luôn tiến triển theo lịch sử sinh hoạt của
xã hội” [1, tr. 69]. Sự sống của văn học không thể tách rời đời sống xã hội,
văn học là tấm gương phản chiếu xã hội. Đồng thời, đời sống xã hội là mảnh
đất phù sa màu mỡ cung cấp chất liệu, khơi nguồn cảm hứng để văn học phát

triển tươi tốt. Thoát ly khỏi đời sống xã hội, văn học sẽ thiếu một nền tảng
vững chắc và sẽ không còn là văn học chân chính nữa. Từ đó, Đặng Thai Mai
kết luận: “Văn học chỉ là một lối biểu hiện trong các hình thái của ý thức xã
hội. Văn học cũng như pháp luật, chính trị, đều xây dựng ở trên nền tảng sinh
hoạt của xã hội và vấn đề tiến triển, biến hoá luôn luôn, theo khuynh hướng
sinh hoạt chung trên cơ sở thực tại của đời sống phong kiến tư bản và xã hội”
[1, tr. 69]. Kết luận ấy thể hiện một cái nhìn thấu đáo, không máy móc, giáo
điều.
Tác giả Đặng Thai Mai khi nói về mối quan hệ giữa văn nghệ và xã hội
đã chú ý đến sự biến động của xã hội tạo nên những đổi thay trong nghệ thuật.
Không thể thổi phồng cái gọi là “vấn đề trường cửu”, “chủ đề vĩnh viễn” như
ái tình, thiên nhiên, vấn đề quan niệm về sống và chết. Đặng Thai Mai đưa ra
những so sánh thú vị về sự đổi thay trong quan niệm tình ái qua Truyện Kiều
và một số tác phẩm bằng tiếng quốc ngữ như Tố Tâm, Đoạn tuyệt. Với Truyện
Kiều, dù Thuý Kiều “có những nỗi đau đớn của sự hy sinh, vẫn tin rằng chữ
hiếu bao giờ cũng phải được trọng hơn chữ tình”, nhưng hơn một trăm năm
sau, thì “đối với quan điểm đặt đâu ngồi đấy, quả tim một cô Tố Tâm đã bập
bồng đánh những nhịp khác rồi”. Và mười năm sau Tố Tâm, đến cô Loan
trong Đoạn tuyệt, đã công nhiên tuyên bố những lời phản đối kịch liệt tình
cảnh hôn nhân cưỡng bức, để tự giải phóng mình, giạn bước ra đi, và “cô sẽ đi
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 17

tới đâu. Không ai biết… nhưng ta có cái cảm giác chắc chắn là cô Loan sẽ
không bao giờ đi giật lùi, trở về lối cũ” [1, tr. 69].
Đặng Thai Mai nhấn mạnh: nhà văn, người hoạt động tinh thần nhạy
cảm phải “ý thức rõ rệt về tính cách biến thiên của xã hội là một nguyên lý
sáng tác của văn nghệ” [1, tr. 74]. Nếu nhà văn “không cảm thấy những nỗi
đau đớn, thiếu thốn của kiếp người, những điều mong mỏi thiết tha của thời
đại, nếu không lĩnh hội được tính cách luôn luôn biến thiên của thế giới, của

nhân sinh, nếu như đối với hiện tại, với tương lai không có một yêu cầu, một
hy vọng, tin tưởng gì, thì (…) chỉ là một lối văn chơi mà thôi, chả có ý nghĩa
gì là văn học” [1, tr. 76]. Để viết được một tác phẩm văn chương đích thực, có
sức lay động lòng người, có ý nghĩa đối với đời sống nhân sinh thì nhà văn
phải là người thư ký trung thành của thời đại, phải hoà mình vào cuộc sống,
phải ngụp lặn với đời sống nhân dân, thấu hiểu và cảm thông những tâm tư
tình cảm của họ. Và một điều hết sức quan trọng là khi nhận thức được chân
lý, nhìn thấy được sự thực ở đời, nhà văn phải nhận rõ sứ mạng lịch sử của
nghệ thuật, nhận rõ thiên chức của hàng ngũ nhà văn trong xã hội, để có dũng
khí bản lĩnh, ý chí bền vững, kiên định công khai bảo vệ chân lý, bênh vực lẽ
phải, lên án cái xấu, cái ác, “lấy chân lý làm mục đích, không dối mình,
không dối người, không ngã lòng với trở lực, không đem nghệ thuật đi phục
dịch một bọn “ông chủ”, phụng sự tư lợi, quyết tâm góp một phần tâm huyết,
trí tuệ vào công cuộc cải tạo xã hội, ấy là điều kiện tâm lý của những công
cuộc sáng tác” [1, tr. 78]. Thiếu một lập trường kiên định, một tư tưởng vững
vàng, thì dù có tiến sát chân lý đời sống, nhà văn ấy cũng không thể thành
thực, trung thành khẳng định chân lý đời sống ấy. Lập trường và tư tưởng
kiên định kết tinh lại thành nhân cách của nhà văn. Đặng Thai Mai đã chỉ ra
điều đáng sợ là: “Nhà văn không có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp
của mình”, những nghệ sĩ “bò sát” chỉ ton hót một hạng thống trị hoặc a dua
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 18

theo thời thượng” [1, tr. 89]. Những kẻ sẵn sàng hy sinh bản ngã để nhận về
mình những danh giá lợi lộc nhất thì dù ở bất cứ thời nào cũng có và họ
không thể viết được những tác phẩm văn chương có giá trị phụng sự xã hội,
phụng sự nhân sinh. Như vậy, Đặng Thai Mai đã nhìn thấu đáo vấn đề trên
hai bình diện khách quan và chủ thể, đặc biệt là nhấn mạnh tầm quan trọng
của chủ thể sáng tạo. Sự am hiểu sâu sắc đời sống xã hội, mong ước và khát
vọng biến cải xã hội trở thành máu thịt của người cầm bút. Từ đó ông nói đến

sứ mệnh dự báo, tiên đoán của văn học: “Một nhà văn cũng phải là nhà tiên
tri, văn sĩ phải là đạo quân tiền tuyến của thời đại và nếu một lối văn học
không nhận lấy cái trách nhiệm tiên phong thì lối văn học ấy quyết sẽ không
có giá trị” [1, tr. 77]. Đó là quan điểm cách mạng trong văn nghệ. Điều này
thật có ý nghĩa trong tình hình văn nghệ đang bị khuấy đục bởi nhiều luồng tư
tưởng phản dân tộc, phản khoa học lúc bấy giờ. Văn chương là máu thịt, là
tâm huyết mà nhà văn thai nghén, ấp ủ, là tiếng nói xuất phát từ lương tri, từ
trái tim của nhà văn, do đó nhà văn chân chính đồng thời là nhà nhân văn chủ
nghĩa, là chiến sĩ đấu tranh cho tự do và chân lý. Văn chương chân chính
không thể đồng hành cùng cái xấu, cái ác.
Thêm một vấn đề quan trọng mà các nhà lý luận văn học hiện nay vẫn
phải quan tâm là quan hệ giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Vấn đề này được
Đặng Thai Mai giải quyết khá trọn vẹn trong chương VII - chương cuối của
chuyên luận bàn về Tinh thần quốc gia và văn học. Mấy chữ “Tinh thần quốc
gia” sau này được ông sửa lại là “Tinh thần dân tộc”. Đặng Thai Mai đã “lý
giải một cách khoa học khách quan quy luật tiếp biến văn học trong quá trình
giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nhằm tránh quan điểm dân tộc hẹp hòi, bảo
thủ khi tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại” [27, tr. 33]. Ông thẳng thắn trình
bày ý kiến trên cơ sở thực hiện thao tác cơ bản trong nghiên cứu khoa học, đó
là định danh khái niệm “Tinh thần dân tộc”. Đặng Thai Mai không đồng ý với
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 19

cách giải thích của Lan Khai trong phần đầu bài viết Tính cách Việt Nam
trong văn chương đã dùng chữ “dân tộc” mà đến đoạn kết luận lại nói đến
“nòi giống” và “chủng tộc”. Đặng Thai Mai cho rằng, Lan Khai đã không
“biện biệt” rõ ràng nội dung ý nghĩa của hai từ này và đã dùng sai nội dung
khái niệm - một điều tối kỵ trong nghiên cứu văn chương. Ông cũng phủ nhận
cái mà Lan Khai định nghĩa, giải thích chữ “tinh thần dân tộc” là “kết quả của
sự gom góp tất cả những nét hay mà dân tộc ấy sẵn có” [1, tr. 124]. Ông đánh

giá: “Một ý tưởng không có tính cách cụ tượng, không “positif” như vậy
không thể đem ra làm tài liệu nghiên cứu văn học” [1, tr. 124].
Từ sự nhầm lẫn của Lan Khai, Đặng Thai Mai nhìn tính dân tộc một
cách toàn diện và biện chứng hơn. Ông xác định trong văn chương, điều cần
nghiên cứu không phải là đặc trưng chủng tộc mà là tính dân tộc. Khi xác
định phạm vi tính dân tộc trong văn chương, Đặng Thai Mai phê phán các nhà
nghệ sỹ giấu đi cái xấu và phô bày hết mọi vẻ đẹp. Theo quan niệm của ông,
“tinh thần dân tộc” luôn vận động và bao gồm cái hay cái dở, cái tốt và cả cái
xấu: “Một nền nghệ thuật chỉ biểu hiện cái hay của dân tộc và quên bẵng cái
dở đi, vị tất đã có những hiệu quả tốt” [1, tr. 127]; “Không phải là vì nhà nghệ
sĩ im lỉm đi mà nết xấu, nết dở tự nhiên nó tiêu tan! Tôi lại e rằng nếu không
có thể nhận thấy nết xấu trong dân tộc thì cũng không thể biểu hiện được cái
hay của nó” [1, tr. 127]. Nhà văn phản ánh “tinh thần dân tộc” trên cơ sở đời
sống của dân tộc chứ không phải minh hoạ theo một vài khái quát trừu tượng.
“Một dân tộc cần có những người nhắc nhở cho nó đừng quên cái nết hay của
nó… Nhưng lại cần có kẻ luôn luôn tố cáo cho biết những nết xấu nết dở của
nó bởi “sự thực là sự thực” [1, tr. 127]. Văn học nghệ thuật của chúng ta cần
giáo dục tinh thần tự phê một cách nghiêm khắc. Những lời ca tụng giả dối
chẳng ích lợi gì cho sự phát triển văn hoá, văn minh của dân tộc. Trong quá
trình gìn giữ bản sắc văn hoá cần phải hiểu rõ cái hay cái dở của dân tộc
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 20

mình, kế thừa và phát huy những nét đẹp văn hoá tiến bộ, đồng thời loại bỏ
dần những biểu hiện văn hoá lạc hậu, lỗi thời để phù hợp với thời đại mới. Đó
là một quan điểm đúng đắn, khoa học, là một bài học mà Đặng Thai Mai rút
ra từ rất sớm.
Nói đến tinh thần quốc gia, đến dân tộc tính, Đặng Thai Mai khẳng
định nó luôn nằm trong xu thế tiếp xúc với những nền văn hóa khác, dân tộc
khác. Một nền văn hoá phù hợp với thời đại là nền văn hoá tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc trên cơ sở kế thừa và kết tinh những tinh hoa văn hoá nhân
loại, bên cạnh những sáng tạo tự nhiên của dân tộc đó còn có cả những yếu tố
văn hoá ngoại lai. Với suy nghĩ ấy, Đặng Thai Mai đã không đồng ý với ý
kiến của nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ
một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa. Rồi xưa kia chúng ta là những
người Tàu, gần đây chúng ta là người Tây và chưa có lúc nào chúng ta là
người Việt Nam cả” [1, tr. 122]. Trong quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hoá
giữa các dân tộc, ông đánh giá cao vai trò của việc học hỏi, vay mượn các nét
đẹp văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc để xây dựng nền văn hoá tiến bộ của
nhân loại: “Bắt chước mà có thể sáng tác được những áng văn hay thì ta cũng
không nên quá nghiêm khắc, nhất là trong lúc văn học nước ta mới bắt đầu
gây dựng được một cơ sở mới” [1, tr. 129].
Văn học khái luận ra đời vào hoàn cảnh công cuộc hiện đại hoá văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX đang được tiến hành một cách toàn diện: từ sáng tác
thơ văn cho đến phê bình, lý luận. Trong quá trình đó, bên cạnh những bài
viết có tính chất bút chiến, một số sách về thể loại văn học, thì cuốn Văn học
khái luận của Đặng Thai Mai xuất hiện như một sự tổng kết, một sự tiếp tục
luận chiến toàn diện trên nhiều vấn đề, và đã có những đóng góp quan trọng
cho nền lý luận văn học mác xít Việt Nam. Tuy nhiên, những quan điểm lý
luận của Đặng Thai Mai thuộc dạng lý luận của một thời, khi lý luận mác xít
Sự nghiệp nghiên cứu văn học của Đặng Thai Mai
Lê Thị Phương 21

đang bước đầu xây dựng. Vì thế, quan điểm lý luận của ông không thể tránh
khỏi những nhược điểm, phiến diện. Trong khi nhấn mạnh “sứ mệnh phục vụ
giai tầng” của nhà văn và văn nghệ, tác giả Văn học khái luận đã không thấy
tính nhân dân của văn nghệ - một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá phẩm
chất tư tưởng và nghệ thuật của văn học, “chỉ mối liên hệ sâu xa và lâu bền
giữa những sáng tác văn học nghệ thuật ưu tú với tình cảm, tư tưởng, lợi ích,
nhu cầu thẩm mĩ của nhân dân” [13, tr. 355]. Để xây dựng tính nhân dân trong

văn nghệ, nhà văn phải luôn luôn hướng ngòi bút của mình về phía đông đảo
nhân dân và tiến bộ xã hội. Đồng thời khi nhấn mạnh tính chất ý thức hệ,
Đặng Thai Mai không thấy nội dung đặc thù của văn học. Là một hình thái ý
thức xã hội đặc thù thuộc thượng tầng kiến trúc, liên hệ mật thiết với các hình
thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, đạo đức, tôn giáo… nhưng nghệ
thuật nói chung và văn học nói riêng có những đặc trưng độc đáo của bộ môn
nghệ thuật. Văn học là sự phản ảnh của đời sống xã hội thể hiện sự nhận thức
và sáng tạo của con người, lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm
với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời
sống phong phú và phức tạp của nó, trên phương diện thẩm mĩ. Tuy nhiên,
Đặng Thai Mai lại cho rằng: “Văn học có khác triết học và khoa học thì cũng
không phải là từ trong nội dung; chỗ phân biệt chỉ ở trong hình thức và lĩnh
vực mỗi bộ môn khoa học mà thôi” [1, tr. 58]. Từ chỗ quan niệm văn học của
ông rất rộng, ngoài thơ ca, văn học còn gồm cả văn hùng biện, văn học chính
trị, triết học và văn khoa học, Đặng Thai Mai cũng xem nhẹ vai trò sáng tạo
và hình thức của văn học. Ông viết: “Trong công cuộc tu dưỡng về văn học,
sống, quan sát, lĩnh hội là bước đầu, là vấn đề chính của văn nghệ; kỹ xảo là
vấn đề phụ” [1, tr. 95]. Đặng Thai Mai luôn luôn đề cao tư tưởng: “Căn bản
vẫn là vấn đề lập trường”, “Cần phải tu dưỡng văn học về phần chính trị”. Tư
tưởng phiến diện và giáo điều này có cội nguồn từ các nhà lý luận mác xít

×