Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phong cách nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 102 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ LAN HƯƠNG

Phong cách nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương


Luận văn Thạc sỹ



Người hướng dẫn khoa học: GS-TS LÊ VĂN LÂN




Hà nội - 2005











1

MỤC LỤC

MỤC LỤC Trang 1
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Nhiệm vụ của luận văn 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Cấu trúc luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG 10
Chƣơng 1:Vũ Hoàng Chƣơng – một cái Tôi cô đơn , buồn nản ,
chán chƣờng nhất trong Thơ mới
1.1.Cái Tôi trữ tình trong thơ và Thơ mới 10
1.1.1.Quan niệm về cái Tôi trữ tình trong thơ 10
1.1.2.Vài nét về cái Tôi trữ tình trong thơ trung đại 11
1.1.3. Cái Tôi trữ tình trong Thơ say và Mây 13
1.2. Nỗi cô đơn, buồn nản, chán chường trong Thơ say và Mây 18
1.2.1. Cô đơn , buồn nản , chán chường bởi cảm giác lạc loài 18
1.2.2 . Cô đơn , buồn nản , chán chường bởi mất mát trong tình yêu 25





2

Chƣơng 2: Con đƣờng thoát ly hiện thực .
2.1.Tìm đến thú say. 34
2.2. Trốn vào tình yêu, tìm thú vui thân xác. 35
2.3. Trở về với quá khứ. 48
Chƣơng 3: Đặc sắc nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chƣơng qua
Thơ say và Mây
3.1. Ngôn ngữ. 62
3.2. Hình ảnh 72
3.3.Thểthơ 80
3.3.1. Các thể thơ 80
3.3.2. Nhịp thơ 81
3.3.3.Vần thơ 85
PHẦNKẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97








3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Phong trào Thơ mới 1932- 1945 là một hiện tượng văn học lớn nhất của
văn học Việt nam nửa đầu thế kỷ XX. Ra đời trong thời điểm xã hội Việt nam

có những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội… trào lưu thơ ca này đã
đem đến cho văn chương nghệ thuật một tiếng nói mới, tạo nên bước ngoặt lịch
sử trong thơ ca, đưa thơ ca từ thời kỳ cận đại bước sang thời kỳ hiện đại.
Đóng góp lớn của Thơ mới cho nền văn học dân tộc trước hết là sự trở về
của cái Tôi- cái Tôi được biểu hiện một cách đầy đủ theo quan niệm cá nhân.
Điều đó đồng nghĩa với việc giải phóng sức sáng tạo của tâm hồn, của thơ văn,
làm nên những bước ngoặt trong thi pháp và tư duy thơ, làm xuất hiện những
phong cách nghệ thuật độc đáo. Ghi nhận sự thành công ấy Hoài Thanh đã
nhận định: “ Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ
rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa
như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên, tha thiết, rạo rực, băn khoăn như
Xuân Diệu”
 
29.,42 tr
.
Chỉ trong vòng mười lăm năm Thơ mới đã đi qua cả một chặng đường dài,
mở ra nhiều hướng, có hướng lãng mạn thoát ly, có hướng chân thật gần gũi,
có hướng kỳ ảo, xa lạ… Sâu xa hơn Thơ mới chứa đựng nhiều nỗi niềm, có
niềm vui gắn bó với sự sống và tạo vật, có niềm vui trong khát khao và bù đắp
của tình yêu đôi lứa. Nhưng nặng nề hơn là nỗi buồn chất chứa trong tháng
năm, từ nỗi buồn về non nước, cuộc đời đến những nỗi buồn riêng thầm kín và
đau khổ. Những nỗi buồn này gắn liền với từng cuộc đời thơ nhưng cũng mang
theo hơi thở chung của thời đại . “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất
bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế
Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn


4
Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,

tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn trở
về với hồn ta cùng Huy Cận”
 
4746.,42 tr
. Đó là toàn bộ tinh thần của Thơ
mới.
Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976) cũng không đứng ngoài vòng tinh thần
ấy. Là thành viên của phong trào Thơ mới nhưng tài năng thi ca của ông được
khẳng định giữa lúc trên bầu trời thơ đã vằng vặc những ngôi sao Lưu Trọng
Lư, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên … Vũ Hoàng Chương xuất
hiện như một ngôi sao lạ, mọc muộn cuối bầu trời thơ, một ngôi sao chao đảo,
mờ ảo và buồn não xung quanh một làn khói hơi men.
Mang hơi thở chung của thời đại, thơ Vũ Hoàng Chương chứa đựng một
tâm trạng cô đơn, buồn nản, chán chường và thoát ly cuộc sống. Tìm hiểu hai
tập thơ Thơ say (1940) và Mây (1943) ta thấy nhà thơ thoát ly cuộc sống bằng
nhiều con đường, trong đó tiêu biểu hơn cả là tìm đến những thú say. Đây là
nét độc đáo mà nhờ đó Vũ Hoàng Chương đã bước ngang hàng cùng với Thế
Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…trên thi đàn Thơ mới .
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau nên thơ Vũ Hoàng Chương cho đến
nay chưa được nhìn nhận và đánh giá một cách đúng mức, thậm chí có khi còn
bị lên án mạnh mẽ, quyết liệt. Chính vì vậy mà chưa thấy được những đóng
góp của ông cho Thơ mới. Để đánh giá và khẳng định tài năng, sức sáng tạo
cũng như đóng góp của nhà thơ trong nền văn học dân tộc chúng ta cần xem
xét dựa vào phong cách nghệ thuật của họ. Phong cách biểu hiện những đặc
điểm cá tính sáng tạo của nhà văn, là nhận thức của nhà văn về cuộc sống. Đó
là cách nhìn và sự cảm thụ thẩm mỹ của nhà văn đối với thế giới, là sự tổng
hợp các đặc điểm của hình thức nghệ thuật trong sự thống nhất nội dung. Tìm
hiểu phong cách nghệ thuật của một nhà văn ta không nên nghiên cứu, tách rời
các vấn đề như cuộc đời, thể loại, ngôn ngữ, các mô típ nghệ thuật, tư duy
nghệ thuật… mà nên xem xét chúng trong sự toàn vẹn của thế giới nghệ thuật.

Phong cách một mặt do tài năng bẩm sinh của người nghệ sĩ, mặt khác quan


5
trọng là kết quả của sự đào luyện lâu dài, là sự tổng hợp của tâm hồn, trí tuệ,
kiến thức học hỏi và sự làm việc của mỗi cá nhân. Cần xem phong cách là sự
sáng tạo cao nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đồng hoá hiện thực bằng
thẩm mỹ. Nghệ thuật đạt đến đỉnh cao chính là sản phẩm của những nhà văn có
khả năng in dấu ấn riêng của mình vào việc cảm thụ và lý giải những hiện
tượng của đời sống con người.
Vì những lý do nói trên tôi đã chọn Thơ say và Mây của Vũ Hoàng
Chương làm đề tài nghiên cứu với mong muốn được đóng góp tiếng nói của
mình đưa Vũ Hoàng Chương và thơ của ông về đúng vị trí của nó trên thi đàn.
2. Lịch sử vấn đề
Đánh giá về Thơ mới đã có nhiều công trình nổi tiếng. Nhìn chung các nhà
nghiên cứu phê bình đều nhìn nhận Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy
Cận, Chế Lan Viên …là những nhà thơ có cống hiến lớn cho Thơ mới . Còn
với Vũ Hoàng Chương, mặc dù rất nể phục tài năng của ông nhưng ít khi
người ta đề cập đến, thậm chí còn chê bai lên án tới mức trong một quãng thời
gian khá dài thơ Vũ Hoàng Chương chìm trong quên lãng.
Khi tìm hiểu về thơ Vũ Hoàng Chương người ta thường nói tới những thú
say trong thơ của ông. Hoài Thanh là người đầu tiên phát hiện ra cái mới của
Thơ say : “ Vũ Hoàng Chương rất gần Lưu Trọng Lư - Tản Đà: Cả ba đều
say. Nhưng cái say của Vũ Hoàng Chương mới hơn. Cái chán nản cũng thế.
Tuy có chịu ảnh hưởng của thơ Pháp nhưng trước hết là phản ánh cuộc đời
mới. Say mà không điên và cái chán nản dẫu có cái vị Baudelaire, vẫn nhẹ
nhàng khoáng đãng không nặng nề u ám như cái chán nản của Baudelaire”
 
35.,42 tr
. Cụ thể hơn Hoài Thanh chỉ ra: “Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái

nghiệp những thi hào xưa của Đông Á : cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say
rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những
thú say mới nhập cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều
nuôi bằng một say sưa khác : say thơ” .
 
352.,42 tr
.


6
Nói như vậy cái say trong thơ Vũ Hoàng Chương trước hết chịu ảnh
hưởng của các nhà thơ thế hệ trước. Chỉ có điều đến Vũ Hoàng Chương thú
say đó được phát triển phong phú đa dạng nhiều màu sắc hơn. Ông say những
thú say đời thường như say rượư , say đàn , say ca và cả những thú say hiện
đại: say thuốc phiện và nhảy đầm. Say nhiều như thế nhưng không phải là huỷ
hoại tâm hồn, tài năng của mình mà khơi nguồn bồi đắp cho một thú say khác :
say thơ.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan lại cho rằng “ Cái say của thơ ông (Vũ
Hoàng Chương) là cái say phát ra ở điệu thơ, ở nghệ thuật hơn là tính tình ông
thổ lộ”
 
134.,37 tr
. Vũ Hoàng Chương quả là nhà thơ có tài trong việc chọn chữ,
tạo âm điệu. Nhưng không vì thế mà thơ ông mất đi sự rung động thành thực.
Chính sự rung cảm trước cuộc đời là cái gốc phát ra điệu thơ ông. Bí quyết của
Vũ Hoàng Chương nằm ngay trong khối óc và những mất mát thăng trầm trong
cuộc đời nhà thơ. Lời nhận định của nhà phê bình Đỗ Lai Thuý trong cuốn Con
mắt thơ giúp chúng ta hiểu thêm điều đó:
"Cái say đã làm cho thơ Vũ Hoàng Chương chân thực và sâu sắc hơn.
Nhà thơ đã nắm bắt và thể hiện đời sống trong tính toàn vẹn của nó. Cuộc

sống không chỉ có thực tế mà còn có lý tưởng, không chỉ có xác mà còn có hồn,
không chỉ có tỉnh mà còn có mộng … Và chính sự chuyển di liên tục từ thực
sang ảo và ngược lại đã tạo nên vẻ đẹp cho Thơ say" .
Đỗ Lai Thuý đã phát hiện ra trong thơ Vũ Hoàng Chương có sự đi về của
hai thế giới thực và ảo. Đó là cách cảm mới, một cái nhìn thế giới mới của Vũ
Hoàng Chương theo kiểu tư duy đô thị phương Tây: thế giới bị xé lẻ thành
những mảnh riêng biệt , hai nửa hữu hình và vô hình.
Truyền thống thơ ca dân tộc, thơ ca Á Đông cùng tinh hoa nhiều thế kỷ
của thơ ca Pháp cùng một lúc hợp bồi phù sa cho Thơ mới. Vì thế Thơ mới là
sự kết hợp nhịp nhàng các yếu tố Đông - Tây, Kim - Cổ, là sự kết hợp thế giới
âm thanh, mầu sắc, hương thơm, con người, vũ trụ của Đường thi và thơ Pháp.
Điều này ta có thể tìm thấy ở bất kỳ nhà Thơ mới nào. Với Vũ Hoàng Chương


7
, “Thơ ông có ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang của câu thơ Đào Tiềm, Lý
Bạch, Bạch Cư Dị”
 
207.,16 tr
. Chỉ có điều ông chưa tiếp thu được truyền
thống nhân đạo tích cực trong thơ Đường.
Cũng trên tinh thần ấy giáo sư Đỗ Đức Hiểu cho rằng:“ Nhìn từ phương
Đông, cái ảo, hình như cái nền của thơ Vũ Hoàng Chương là một đêm dày
những giấc mơ về quá khứ, những “đêm hoa đăng”, gái Kim Lăng, gái Giang
Nam”. Còn “ nhìn từ phương Tây, cái hiện đại, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ
nhạy bén hoà nhập với tâm linh thơ tượng trưng chủ nghĩa phương
Tây…Trong Thơ mới Vũ Hoàng Chương là nhà thơ đô thị nhất, ông nhập thân
vào cái chán chường, song “ đời tàn trong ngõ hẹp”, những điệu trùng tuyệt
vọng, khủng khiếp diễn đạt cái chán chường kiểu Baudelaire”
 

130129.,18 tr

Như vậy thơ Vũ Hoàng Chương có sự kết hợp cái hư ảo của phương Đông
với cái thực, cái đời thường, cái hiện đại của phương Tây. Đó chính là cái mới
của thơ Vũ Hoàng Chương.
Với một cái nhìn tổng thể và khách quan hơn, Ngô Văn Phú trong lời giới
thiệu Thơ say - NXB Hội nhà văn 1993 đã nhận định: “ Thơ Vũ Hoàng
Chương lấy cái Tôi làm chủ thể, lấy cảm giác nhập thần vào những phút giây
mình là mình nhất mà viết …Vũ Hoàng Chương dẫn Thơ mới vào cõi sâu xa cá
tính. Thơ Vũ Hoàng Chương không hề bí hiểm nhưng Vũ chẳng giống ai trước
mình và những người sau cũng chẳng ai bắt trước nổi. Vũ tạo nhạc, tạo tranh
trong thơ, Vũ chọn từ cho từng câu đắc ý, Vũ đắm hồn vào những trang thơ mà
Vũ cho đó mới thật đáng gọi là thơ…”. Đó chính là tinh thần thơ Vũ Hoàng
Chương. Đó cũng chính là phong cách thơ Vũ Hoàng Chương.
Nhìn chung hầu hết các ý kiến trên đều đã tương đối thống nhất khi chỉ ra
những đặc điểm cơ bản của hồn thơ Vũ Hoàng Chương: thơ ông mang một nỗi
buồn nản, chán chường. Để giải toả tâm trạng ấy nhà thơ đã tìm đến thú say để
ca ngợi và nâng thú say thành thi hứng. Và sự kết hợp một cách hài hoà giữa
Cổ - Kim, Đông - Tây đã tạo nên trong thơ Vũ Hoàng Chương một nét rất
riêng, rất đặc sắc.


8
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ để hình dung một cách toàn diện
về phong cách nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương. Việc xác định phong cách
của một nhà văn không phải là xem nhà văn ấy có những đặc sắc gì về nội
dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật mà phải phát hiện ra tính chất
độc đáo trong sự kết hợp những nét đặc sắc ấy. Bởi vì phong cách nghệ thuật
trước hết phải là sự thống nhất, toàn vẹn của các yếu tố tạo nên tác phẩm.
Chính vì vậy để hiểu và đánh giá một cách đầy đủ và khách quan về phong

cách nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương qua hai tập Thơ say và Mây cần phải
chỉ ra sự thống nhất trong quan niệm về cuộc đời, thời đại, nội dung cảm xúc
với hình thức nghệ thuật. Đây là vấn đề mà luận văn muốn đề cập đến.
3. Nhiệm vụ của luận văn
3.1. Luận văn không nghiên cứu, khám phá những vấn đề quá phức tạp
mà chủ yếu đi vào phân tích, so sánh để tìm ra nét đặc sắc trong những thú say
của Vũ Hoàng Chương để bước đầu làm sáng tỏ một phong cách nghệ thuật
độc đáo.
3.2. Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống thơ Vũ Hoàng
hương qua hai tập Thơ say và Mây ở hai phương diện nội dung và nghệ thụât.
Từ đó tìm ra sự thống nhất giữa hai mặt đó của thơ ông.
3.3. Với những điều nói trên luận văn cố gắng đưa ra một cái nhìn đúng
đắn về Vũ Hoàng Chương, góp phần xoá bỏ những định kiến, dư luận sai lệch
từ trước đến nay trong xã hội nói chung về thơ Vũ Hoàng Chương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học sau:
4.1 Phương pháp hệ thống, nhằm nghiên cứu thơ Vũ Hoàng Chương theo
một hệ thống, từ quan niệm về con người, cuộc đời đến nghệ thuật.


9
4.2 Phương pháp so sánh, được tiến hành ở hai tập Thơ say và Mây với
tác phẩm của một số các nhà thơ trước và cùng thời với Vũ Hoàng Chương để
tìm ra nét riêng độc đáo ở nhà thơ này.
4.3 Phương pháp phân tích tổng hợp, nhằm tìm hiểu thơ Vũ Hoàng
Chương một cách khái quát từ chi tiết cụ thể đến tổng hợp giúp cho việc
nghiên cứu có sức thuyết phục cao.
Những phương pháp trên được vận dụng hài hoà, khoa học và linh hoạt
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề mà luận văn đề ra.

5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tư liệu tham khảo, phần nội dung gồm ba
chương :
Chương 1:Vũ Hoàng Chương - một cái Tôi cô đơn , buồn nản ,
chán chường nhất trong Thơ mới
Chương 2: Con đường thoát ly hiện thực .
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương qua
Thơ say và Mây














10





PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1

VŨ HOÀNG CHƢƠNG – MỘT CÁI TÔI CÔ ĐƠN
BUỒN NẢN, CHÁN CHƢỜNG NHẤT TRONG THƠ MỚI

1.1. Cái Tôi trữ tình trong thơ và Thơ mới
1.1.1. Quan niệm về cái Tôi trữ tình trong thơ
Trong thực tế khách quan, mỗi con người cá nhân phải tự ý thức
được giá trị của mình. Văn học là một hình thái ý thức xã hội nên cần phải phát
huy ý thức cá nhân ( hay cái Tôi ) để khai thác tiềm năng sáng tạo của con
người. Với thơ, cái Tôi lại cần thiết hơn bao giờ hết. Viên Mai - người đời
Thanh trong Tuỳ viên thi thoại đã viết: “ Làm người thì không nên có cái Tôi,
có cái Tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng, cậy tài…Nhưng làm thơ thì không thể
không có cái Tôi. Không có thì dễ mắc cái tệ cóp nhặt phô diễn”. Cái Tôi
trong thơ chính là cá tính riêng của nhà thơ, là cảm thụ độc đáo, ngôn từ mới
mẻ của nhà thơ đối với đối tượng được miêu tả, là phong cách biểu hiện khác
hẳn người của nhà thơ.
Cái Tôi có vai trò quan trọng trong thơ. Với tư cách là trung tâm để bộc lộ
tất cả những suy nghĩ tình cảm, thái độ bằng một giọng điệu riêng, cái Tôi làm
nên cái độc đáo không lẫn giữa thơ của tác giả này với thơ của tác giả khác.
Thơ là tâm hồn, là tình cảm, là tính tình của mỗi nhà thơ. Mỗi người lại có một
cuộc sống tâm hồn, tình cảm riêng nên mỗi người có thơ riêng. Với sự từng trải


11
cuộc sống riêng của mình, với hoài bão, tư tưởng và phương thức biểu hiện
tình cảm riêng nhà thơ đã tạo ra phong cách riêng trong tác phẩm của họ.
Đọc thơ có khi ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một, nhà thơ là nhân
vật, là hình tượng trung tâm. Khi ấy cái Tôi là cái Tôi- nhà thơ. Nhưng cũng có
khi nhân vật trung tâm vẫn là tôi nhưng không phải là nhà thơ. Đó là trường
hợp nhà thơ đồng nhất cảm xúc của mình với đối tượng miêu tả, nhà thơ hoá
thân thành cái Tôi - trữ tình. Cái Tôi - trữ tình chính là cái Tôi - nhà thơ đã

được nghệ thuật hoá. Tuy nhiên trong thơ ta không nên tách rời cái Tôi - nhà
thơ với cái Tôi - trữ tình. Nhà thơ không đồng nhất với cái Tôi - trữ tình
nhưng hoàn toàn thống nhất. Đi vào nghệ thuật, cái Tôi được nâng cao, được
trình bày với những màu sắc phong phú hơn, nhưng cơ bản vẫn là tâm hồn ấy,
con người ấy. Con người ấy, tâm hồn ấy là cơ sở trực tiếp sáng tạo nên thi ca.
Nếu có sự khác biệt ở mức độ này hay mức độ khác giữa cái Tôi - nhà thơ với
cái Tôi - trữ tình thì không có nghĩa là nhà thơ đã giả dối với chính mình và
người đọc. Nhà thơ Chế Lan Viên khi chưa có dịp lên Tây Bắc nhưng lại viết
rất hay về Tây Bắc (bài thơ: Tiếng hát con tàu) ; Minh Huệ chưa một lần được
gặp Bác nhưng lại viết rất hay, rất cảm động về Người ( bài thơ Đêm nay Bác
không ngủ ). Tương tự như vậy bài Con tàu say của Rembô - nhà thơ Pháp
cũng được viết khi tác giả chưa đi biển. Có người viết rất nhiều về tình yêu
nhưng mình lại chưa bao giờ được hạnh phúc. Có người sống giữa mọi người
lại luôn luôn cảm thấy cô đơn sầu tủi… Đó chính là do tâm hồn phong phú,
giàu tưởng tượng, biến hoá đã làm cho thơ lung linh đầy màu sắc. Nhà thơ đã
biến cái Tôi của mình thành cái Tôi nghệ thuật .
1.1.2.Vài nét về cái Tôi trữ tình trong thơ trung đại
Quá trình sáng tác thơ ca về một phương diện nào đó là quá trình chủ quan
hoá, trong đó cái Tôi trữ tình đóng dấu ấn chủ thể vào trong mọi hiện tượng
qua một sự lựa chọn, một cái nhìn, một nội dung cảm nghĩ. Khả năng biến cái
chung thành cái riêng càng lớn thì tiếng nói thơ ca ngày càng phong phú. Tuy
nhiên không phải thơ ca thời đại nào cũng làm được điều đó.


12
Thời trung đại, trong thơ ca nhà nho có “cái Tôi đơn nhất” (Chữ dùng của
Trần Nho Thìn), tức là cái Tôi không xuất hiện trong một mối liên hệ cụ thể,
trực tiếp nào với hoàn cảnh sống hay với môi trường hoạt động. Bên cạnh đó
cũng có cái Tôi đang trầm tư suy nghĩ, cũng có thể là đang hoạt động, đang
thực hiện mối quan hệ giao tiếp với môi trường xung quanh. Nhưng môi

trường ấy lại là môi trường thiên nhiên chứ không phải là môi trường xã hội.
Các nhà nho khi đã hoàn thành xong sứ mệnh “ hành đạo” thì thường lui về ẩn
dật chủ trương sống một cuộc sống trong thiên nhiên để di dưỡng tính tình, bảo
toàn phẩm giá trong sạch của mình. Họ tìm thấy trong thiên nhiên những phẩm
chất đạo đức cao quý của con người theo quan niệm Nho giáo: cây tùng, cây
trúc là hình ảnh người đại trượng phu và người quân tử ; cúc, mai là biểu hiện
của sự trong trắng tinh khiết ; ngư, tiều, canh, mục là những nghề nghiệp trong
sạch ; phong hoa tuyết nguyệt là những thứ thanh tao Nhà nho miêu tả cái
Tôi khi đã gạt bỏ mối quan hệ của nó với môi trường xã hội và chỉ diễn tả mối
quan hệ của cái Tôi với môi trường thiên nhiên. Tuy nhiên những nhà nho,
đồng thời là những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca trung đại như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…là những con người
kiên trì với lý tưởng phong kiến. Ở họ luôn có một nỗi niềm ưu quốc ái dân,
một tư tưởng “Trí quân trạch dân” sâu sắc. Cho nên dù họ có thoát li khỏi cuộc
sống xã hội thì đó chỉ là con đường lánh đục tìm trong, tránh cuộc sống bon
chen nơi triều đình để bảo toàn nhân cách trong sạch. Cái Tôi ấy không phải là
cái Tôi hành động mà là cái Tôi suy tư chiêm nghiệm. Nhà nho không dửng
dưng không bàng quan mà trái lại gắn bó, quan tâm tới cuộc sống xã hội. Chỉ
có điều họ đặt mình cao hơn cuộc sống, cao hơn nhân dân, hướng về thiên
nhiên, vũ trụ để suy tư về cuộc đời, về con người. Họ gạt bỏ những gì liên quan
đến cuộc đời trần tục chỉ cốt giữ lại cái Tôi cao quý trong sạch, không gợn chút
bụi trần .
Như vậy trong thơ ca trung đại cái Tôi chưa có cơ sở xã hội để bộc lộ
những vẻ riêng độc đáo của nó. Trong truyền thống thơ ca dân tộc chúng ta


13
trân trọng những phong cách thơ giàu bản sắc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương… Nhưng họ vẫn chỉ là số ít trong một biển thơ chịu sự quy
định ngặt nghèo của nội dung phi ngã. Trong thơ văn đó cá tính con người

không được bộc lộ, bản lĩnh con người bị bóp nghẹt, “tất cả những gì thuộc về
cá nhân bị bỏ rọ”(Chữ dùng của Huy Cận), bị nhào nặn theo những mô hình,
công thức bất di bất dịch. Văn thơ trung đại với những ràng buộc khắt khe đã
khiến con người không có điều kiện để bộc lộ, giãi bày cảm xúc, tình cảm thực
của mình . Điều đó đã kìm hãm sự sáng tạo của thơ văn, làm cho thơ cũ gần
như khô nhựa trong luồng ngâm vịnh rất sáo mòn cả về nội dung và hình thức.
Giữa lúc đó (đầu thế kỷ XX) Tản Đà xuất hiện với một bản lĩnh độc đáo đã
“dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa”
 
12.,42 tr
. Ông là người dọn đường cho Thơ mới ra đời.
1.1.3. Cái Tôi trữ tình trong Thơ mới
Sự ra đời của Thơ mới không phải là ngẫu nhiên mà đó là kết quả của
sự vận động và phát triển của văn hoá dân tộc trải qua bao chặng khai phá và
tìm kiếm. Một thế hệ nghệ sĩ mới xuất hiện mang trong mình cả một hệ thống
quan niệm thẩm mỹ mới với những phạm trù nghệ thuật mới. Từ đó Thơ mới
đã mở ra nhiều chân trời, nhiều tâm trạng, nhiều sắc thái mới, làm thay đổi cả
quan niệm về nhiều điều xưa nay vốn đã được định hình trong đời sống dân
tộc. Trước hết là quan niệm về con người và thế giới. Nhà nghiên cứu Lê Đình
Kỵ đã nhận định: “Cảm hứng sáng tạo gắn liền với cá nhân tự ý thức, tự khẳng
định đưa đến một bước ngoặt quyết định trong lịch sử thơ ca Việt Nam phát
triển theo hướng hiện đại. Thơ mới là thơ của cái Tôi”
 
46.,28 tr
. Hoài Thanh,
Hoài Chân cũng gọi thời đại của Thơ mới là “Thời đại chữ Tôi” “ với cái
nghĩa tuyệt đối của nó”. Trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh, Hoài Chân
viết: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc
gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia
đình, hoà tan trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Điều đó làm cho

thơ ca trung đại nặng tính chất duy lý, giáo huấn. Các nhà thơ cổ “ dẫu táo bạo


14
đến đâu cũng không một lần dám dùng chữ Tôi, để nói với mình, hay - thì cũng
thế - với tất cả mọi người ”. Có nghĩa là họ không dám dùng quan điểm cá
nhân, lập trường cá nhân, cái nhìn cá nhân để nhìn đời và nói chuyện với mọi
người. Nhưng Thơ mới thì khác. Thơ mới đã dám coi cái Tôi cá nhân như một
quan điểm, như một tư cách để nhìn đời và nói với mọi người. Thơ mới đã
thoát khỏi quan điểm duy lý, giáo huấn vốn là sự ràng buộc của cái chung
truyền thống đối với mỗi cá nhân để giãi bày mọi bí mật của cõi lòng riêng tư,
từ nỗi buồn , sự cô đơn đến những phút giây yếu đuối, thất vọng chán
chường… Các nhà Thơ mới đã dám nói yêu cái mình yêu, ghét cái mình ghét.
Họ dám nói nên những nỗi vui - buồn - yêu - ghét - giận - hờn - mộng - thực
một cách độc lập và đầy chủ quan.
Thơ mới lãng mạn đã “Khẳng định cái Tôi như một bản lĩnh tích cực
trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật”
 
80.,18 tr
.
Tuy nhiên Thơ mới là thơ của giai cấp tiểu tư sản, mà giai cấp này không có hệ
tư tưởng độc lập. Tư tưởng tiểu tư sản nằm trong hệ tư tưởng tư sản. Do đó
ngay lập tức các nhà thơ chịu ảnh hưởng của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa cá
nhân - sản phẩm của tình trạng chiếm hữu cá nhân về quyền lợi, đã thâm nhập
vào nếp sống và suy nghĩ không riêng ở giai cấp tiểu tư sản mà ở nhiều tầng
lớp xã hội. Giai cấp tiểu tư sản trở thành kẻ phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp
cho hệ ý thức tư sản. Họ hoặc bị say đắm với cái Tôi cá nhân, hoặc bị đày vào
ốc đảo của sự cô đơn, mất đi mối liên hệ đồng cảm với cuộc sống bên ngoài.
Do đó vô hình chung họ đã tạo ra một vực thẳm không thể vượt qua giữa cá
nhân và xã hội. Cái Tôi trong Thơ mới nói riêng và văn học lãng mạn nói

chung bế tắc trong sự đối lập với thực tại. Các nhà Thơ mới thu mình về trong
vỏ cá nhân với nỗi buồn uỷ mị, chán chường. Mỗi nhà thơ tự xây cho mình
một thế giới riêng biệt, một hòn đảo chơi vơi:
Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
( Xuân Diệu – Hi Mã Lạp Sơn)


15
Một thế giới hoàn toàn tách biệt với đời thường. Mọi sợi dây tình cảm,
mọi liên hệ với những vấn đề trung tâm của cuộc sống đều bị cắt đứt. Đấy là vì
nhà thơ tự ràng buộc, tự ngăn cách mình với cuộc sống chứ đâu phải cuộc đời
phụ bạc với nhà thơ :
Hồn đơn như chiếc đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây.
(Huy Cận).
Xưa các nhà thơ trung đại luôn vươn tới sự hài hoà giữa con người với
thiên nhiên, với cuộc sống. Tuy cái Tôi trung đại chưa có môi trường xã hội để
hoạt động nhưng nó cũng chưa có nhu cầu bức bách để tự bộc lộ mình như một
cá thể tách khỏi xã hội. Nay cái Tôi ấy không còn nữa. Giờ là thời của cái Tôi
cô đơn, buồn nản, chán chường. Và mỗi cái Tôi tự tìm thấy cho mình một lối
thoát, một hoài vọng vào quá khứ, tôn giáo, hay vào những thế giới siêu hình.
Nhưng càng tìm càng lạc lối, càng thất vọng, cái Tôi lại càng cô đơn, bế tắc.
Thế Lữ thoát lên tiên, say sưa du hồn mình và dẫn dắt người đọc vào cảnh tiên
nga, mỹ ngọc vang dội lung linh. Nhưng tất cả chỉ như một làn gió lạnh đưa lại
một ít nguôi quên, làm một thứ giải toả cho tâm hồn giữa vòng vây của biết
bao lệ sầu ngang trái. Tiếng sáo thiên thai dội vào lòng nhà thơ một nỗi buồn
hiu hắt của cái Tôi cô đơn :
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng

Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi ! xa vắng mênh mông là buồn…
(Tiếng sáo thiên thai)
Không chỉ thi sĩ mà chính người tiên cũng buồn, cũng mơ màng ngỡ tiếng
sáo đang chở lòng buồn của mình dìu dặt lên khơi :
Thiên thai thoảng gió mơ màng
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay
(Tiếng sáo thiên thai).


16
Ở cõi trần Thế Lữ lại càng buồn. Nỗi lòng của Thế Lữ là nỗi Nhớ rừng của
con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú :
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
… Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu
Lưu Trọng Lư thì ngoảnh mặt lại với mọi sự đau khổ, hướng cái nhìn vào
một thế giới mơ màng. Cái Tôi trong thơ Lưu Trọng Lư hầu như rất ít mối
quan hệ với thực tại, mất khả năng nhận thức cuộc sống mà luôn luôn chìm
đắm trong thế giới mộng tưởng. Trong thơ Lưu Trọng Lư tất cả các yếu tố màu
sắc, đường nét, bóng dáng con người cho đến không gian, thời gian đều không
được xác định mà bảng lảng trong màn sương của những giấc mộng. Bởi vậy
cái nhìn mênh mang xa vắng của Thế Lữ đến Lưu Trọng Lư đã thấm thía ngọt
ngào và có sức lan toả lớn :
Mưa chi mưa mãi!
Buồn hết nửa đời xuân!
Mộng vàng không kịp hái
Mưa mãi mưa hoài

(Mưa… mưa mãi)
Lưu Trọng Lư đi giữa cuộc đời và trong mơ mộng như “Con nai vàng
ngơ ngác”. Nhưng cuộc đời với những sự thật phũ phàng khiến ông nhiều lúc
“Giật mình ta thấy mồ hôi lạnh / Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi”. Giật mình -
tỉnh mộng nhưng vẫn không tìm được hướng đi để rồi sau phút giật mình ấy
nhà thơ lại chìm vào nỗi sầu trong mộng tưởng .
Xuân Diệu được coi là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tư tưởng cá nhân
của phong trào Thơ mới. Đọc thơ ông ta thấy một cái Tôi trữ tình nặng trĩu nỗi
buồn cho dù ông là con người khát khao sự sống nhất trong các nhà Thơ mới.
Xuân Diệu buồn khi nhìn ra rặng liễu đứng đìu hiu, buồn khi chiều buông lưới,


17
buồn khi thu đến, xuân về…Ta bắt gặp trong thơ ông nỗi buồn chung của cả
một thế hệ về nhân tình thế thái cùng những cám cảnh thương tâm của những
phận thi sĩ nghèo và bức tranh toàn cảnh ngột ngạt tù đọng không lối thoát của
xã hội đương thời :
Chúng ta nay trong cuộc sống ao tù
Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá khứ
(Mơ xưa)
Thi sĩ khư khư ôm trong mình nỗi “ sầu đơn vạn kiếp”, thu mình lại trong
thế giới “ riêng tây”. Nhiều lúc nhà thơ tự gọi mình là “chàng sầu”, có lúc ông
lại hoá thân vào con nai, con chim không tổ, núi non, hoặc người kỹ nữ. Cùng
ngơ ngơ ngác ngác giữa đời nhưng “con nai vàng” của Lưu Trọng Lư còn
bước đi để lại tiếng xào xạc còn “con nai chiều” của Xuân Diệu không thể cất
nổi bước vì bị bủa vây trong “lưới chiều” :
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
( Khi chiều giăng lưới)
Cùng ra đời với Thơ mới trong cảnh nước mất nhà tan, trong một xã hội

có nhiều chuyện đau buồn nhưng cái Tôi trong thơ ca cách mạng là cái Tôi hoà
hợp với cái Ta của quần chúng lao khổ. Nói như Tố Hữu :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
(Từ ấy)
Còn cái Tôi Thơ mới lại rơi vào tình trạng cô đơn, lạc lõng “hồn đơn chiếc
như đảo rời dặm biển” ( Huy Cận ) hay”không có chi bè bạn nổi cùng ta” (
Xuân Diệu ). Thực ra không phải đến Thơ mới lãng mạn mới buồn mà cái buồn
đã triền miên day dứt trở đi, trở lại trong nhiều thế hệ thi ca. Các nhà nho như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Lê Hữu Trác, Nguyễn Công


18
Trứ, Nguyễn Khuyến đều không tránh được tâm trạng đau buồn và cô đơn. Chỉ
có điều tuy đau buồn cô độc nhưng họ không bao giờ dao động, hoang mang.
Còn với Thơ mới đau buồn cô độc là tâm trạng của cái Tôi nhỏ bé, bơ vơ lạc
lõng giữa cuộc đời. Tâm trạng ấy đã thấm sâu vào quan điểm thẩm mỹ của các
nhà thơ. Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn”( Kinh cầu tự ).
Chế Lan Viên thì hết lời ca ngợi cái đẹp của hạt lệ: “Hạt lệ ! Những ngôi tinh
lạc rơi từ một vòm trời luôn luôn khuya khoắt là bầu mắt thẳm xuống trần gian
mãi mãi gió sương, là lòng đau bát ngát của con người” ( Lời tựa chung cho
Vàng sao và Gai lửa). Đau buồn và cô đơn đã trở thành thứ tâm bệnh chung
của chủ nghĩa lãng mạn và là tình trạng phổ biến của cả một thế hệ thi nhân
trong phong trào Thơ mới. Từ Thế Lữ đến Huy Cận, từ Xuân Diệu đến Vũ
Hoàng Chương, từ Nguyễn Bính đến Hàn Mặc Tử… đã tích tụ tất cả những nỗi
đau nhân tình thế thái để viết nên bản đại hoà tấu mà tất cả các cung bậc đều
ngậm ngùi đau xót, ảo não, tái tê.
1.2. Nỗi cô đơn, buồn nản chán chƣờng trong Thơ say và Mây

Vũ Hoàng Chương xuất hiện với một cái Tôi lồ lộ trong không gian
bao la của bầu trời Thơ mới. Thơ say và Mây của ông chất chứa cả một khối
sầu bởi nó xuất phát từ những nét thăng trầm, những mất mát trong chính cuộc
đời của nhà thơ. Bởi thế cái buồn trong thơ ông mang một âm hưởng rất riêng,
rất Vũ Hoàng Chương. Đó là nỗi buồn của một trái tim đa sầu đa cảm và tràn
ngập yêu thương. Nỗi sầu ấy xuất phát từ những nguyên nhân sau.
1.2.1. Cô đơn , buồn nản, chán chƣờng bởi cảm giác lạc loài
Như trên đã nói, cái Tôi Thơ mới ngay từ khi mới ra đời đã rơi vào
tình trạng bơ vơ, lạc lõng không lối thoát. Mặc cảm lạc loài đã khiến các nhà
thơ lo sợ, hốt hoảng trốn tránh cuộc đời, nhưng càng lẩn tránh càng tuyệt vọng,
càng bế tắc. Bao trùm lên thơ Vũ Hoàng Chương là một khối sầu cao ngất. Và
gắn liền với khối sầu ấy là cảm hứng cô đơn lạc loài của một cá nhân luôn
muốn tự khẳng định mình. Sống giữa cuộc đời mà thi sĩ luôn cảm thấy vô
nghĩa tầm thường, con người không thể hoà đồng với hiện tại. Thi sĩ đã tự biến


19
mình thành kẻ cô đơn xa lạ với hiện thực, đứng ngoài cuộc sống. Tâm trạng cô
đơn của Vũ Hoàng Chương phản ánh sự thiếu vắng một ý thức cộng đồng, xa
lạ và chủ quan trong nhận thức xã hội và thời đại :
Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ
Đời kiêu bạt không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin nghé bến hoang sơ
( Phương xa )
Cô đơn, lạc loài khiến cho nhà thơ cảm thấy xa lạ với đời, với chính mình,
với cả quê hương giống nòi. Mặc cảm “bị quê hương ruồng bỏ giống nòi
khinh” đã khiến nhà thơ nghi ngờ vào chính sự xuất thân của mình : “Lũ
chúng ta lạc loài dăm bảy đứa”, “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”. Không
biết bấu víu vào đâu , như chiếc thuyền giữa biển khơi mịt mùng, thi sĩ chỉ còn

biết buông xuôi phó mặc cuộc đời cho số phận. Nhà thơ đã tự tách mình ra
khỏi cuộc đời, chạy trốn khỏi cộng đồng, tìm đến một phương xa vô định :
Nhổ neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng
Xô về đông hay dạt tới phương đoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng hoạ dần vơi
( Phương xa )
Đó là sự bất lực, buông xuôi hay là sự nổi loạn để khẳng định cái Tôi - cá
nhân Vũ Hoàng Chương ? Ta thấy rằng Vũ Hoàng Chương là thi sĩ đầy tài
năng và tâm huyết. Nhưng tài năng và tâm huyết của ông đã bị làn gió vô tình
của cuộc đời cuốn mất khiến ông lâm vào tình trạng thất vọng, chán chường.
Nhưng đó cũng là lúc khát vọng sống hoà nhập lại trỗi dậy hơn lúc nào hết.
Nhà thơ đau đớn thốt lên :
Ta đã làm chi đời ta xưa?
Ta đã dùng chi đời ta chưa?
( Đời tàn ngõ hẹp )


20
Trước Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Công Trứ , Cao Bá Quát cũng là
những nhà nho có tài. Thời thanh niên có những hoài bão lớn lao, Nguyễn
Công Trứ tự tin ở tài năng của mình đồng thời có ý thức về sự tồn tại, về địa vị,
về sứ mệnh của cá nhân mình ở trời đất. Cao Bá Quát cũng ôm ấp hoài bão
muốn đem tài kinh bang tế thế ra phò vua giúp nước. Nhưng tất cả đều vỡ
mộng dẫn đến u uất, bế tắc lâm vào con đường hoặc ngông cuồng, phá phách,
hoặc đề cao triết lý hưởng lạc thậm chí tới mức cực đoan “Nhân sinh bất hành
lạc, thiên tuế diệc vi thương” ( Nguyễn Công Trứ ) hay “Nhân sinh quí thích”
(Cao Bá Quát ). Không ngông cuồng, phá phách như Nguyễn Công Trứ và Cao
Bá Quát, Vũ Hoàng Chương mang đến cho thơ mình một lời tự bạch, ẩn chứa
bên trong là nỗi đau của một cá nhân có tài nhưng không được đem cái tài đó

ra thi thố với đời. Ta bắt gặp trong thơ ông cái Tôi nơi Nguyễn Công Trứ hay
Cao Bá Quát. Nhưng cái Tôi của Vũ Hoàng Chương lạc lõng hơn, bơ vơ hơn,
vì thế khối sầu của ông u uất, chồng chất và sừng sững hơn giữa cuộc đời :
Cánh rượu thu gần vạn dậm khơi
Nẻo say hư thực bóng muôn đời
Ai đem xáo trộn sầu kim cổ?
Trăng nước Đà Giang mộng Liêu Trai
( Đà Giang )
Cùng với thơ của Thế Lữ, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc
Tử, Vũ Hoàng Chương đóng góp những vần thơ thấm đẫm những giọt nước
mắt cô đơn, sầu tủi :
Cha mẹ mất đi lạnh hương khói,
Một chị một em sầu má hồng,
Khuya sớm cô đơn giọt lệ tủi,
Ấu thơ đã trêu gì hoá công?
( Đời còn chi )
Như chú chim non lạc mẹ Vũ Hoàng Chương kêu gào, cầu cứu trong sự
tuyệt vọng. Nhưng không gian thì rộng quá, lòng người thì thờ ơ, lạnh nhạt biết


21
tìm đâu chốn dung thân, nhà thơ chỉ biết nương tựa vào chính mình. Nương tựa
vào mình ư ? Điều đó là không thể bởi Vũ Hoàng Chương đang nghi ngờ về sự
xuất thân, về sự tồn tại của mình thì làm sao mà vượt qua được. Sự giằng co
giữa một bên là sự cô đơn lạc lõng, một bên là ước muốn hoà nhập với cuộc
đời đã đẩy thi sĩ vào tâm trạng bế tắc không lối thoát. Tâm trạng này được thể
hiện rõ nét trong Đời tàn ngõ hẹp và Tuý hậu cuồng ngâm.
Mở đầu bài thơ Đời tàn ngõ hẹp là nỗi buồn nản chán chường của nhân
vật trữ tình sau một giấc mộng dài tỉnh dậy bỗng chợt nhận ra ngày đã ngả
sang chiều và cuộc đời cũng theo đó mà khép lại:

Gối vải mộng phong hầu
Vàng son mờ gác xép
Bửng tỉnh mưa càng mau
Chiều tàn trong ngõ hẹp
Đời hiu hiu xế tà
Sự kết hợp hai mô típ quen thuộc “ bầu trời mưa”, “chiều hiu hiu” đã tạo
một không gian tĩnh lặng, thời gian như đang ngừng trôi, đang vơi dần lắng
nghe tiếng thở dài não ruột của thi sĩ. Mưa trong Đời tàn ngõ hẹp khiến ta nhớ
đến bầu trời sũng nước làm não nề cả cõi lòng cô đơn trong khúc Ariét của
Veclen : “Mưa rơi trong tim tôi, mưa rơi trên thành phố”. Mưa như nguồn ám
chỉ cuộc đời đầy những giăng mắc, tù túng lạnh lẽo và cô đơn. Ta cũng gặp
mưa như thế trong thơ của Huy Cận :
Đêm mưa nằm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi lòng bao la…
(Buồn đêm mưa)
Nguyễn Bính nghe mưa rơi mà khơi sâu nỗi sầu buồn cô quạnh :
Mưa mãi, mưa hoài, mưa bứt rứt
Đêm dài dằng dặc, đêm bao la …
( Mưa trên đất khách )
Còn Vũ Hoàng Chương nghe mưa rơi mà buồn cả cuộc đời :


22
Chiều mưa rồi đêm mưa ;
Đời tàn trong ngõ hẹp .
Những buổi chiều buồn là mô típ rất quen thuộc trong thơ ca truyền
thống. Ta đã gặp một chiều tê tái trong ca dao :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
hay một chiều buồn man mác trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan :

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Các thi sĩ Thơ mới cũng viết nhiều về mô típ này. Đó là một chiều “ hiu
hiu khẽ buồn” của Xuân Diệu hay một chiều cô tịch của Huy Cận :
Chiều lại xuống ở trên lầu cô tịch
Chờ thi nhân đã chết tự ngàn xưa
Còn chiều trong Đời tàn ngõ hẹp là chiều tàn tạ bức bối trong một không
gian chật hẹp bỗng chốc bị nứt vỡ trong tiếng than khắc khoải, chua chát, xót
xa :
Ôi ! ta đã làm chi đời ta?
Ai đã làm chi lòng ta
Cho đời tàn tạ lòng băng giá
Sương mong manh quạnh chớm thu già
Đây không phải là buổi chiều buồn duy nhất trong Thơ say và Mây mà
những chiều như thế cứ trở đi trở lại trong ông như một nỗi ám ảnh :
Nhìn quanh : chiều xám với tha ma!
Vắng tanh! Ôi chiều, nơi tha ma !
Nhưng đâu đây ai khóc gần hay xa
Mà thảm thiết ? Hay thu vừa nức nở ?
( Bạc tình )


23
Trong cái không khí đang sợ ấy thi sĩ đã tạo nên một khúc nhạc buồn tê tái
đáng thương:
Chập chờn kim ốc giai nhân…
Gió lạnh đưa vèo
Khoa danh trên gối rụng tàn theo !

Nao nao đàn sáo phai dần
Hạnh phúc tàn theo
Nửa gối thê nhi lá rụng vèo !
Cùng với Đời tàn ngõ hẹp, Tuý hậu cuồng ngâm cũng nói về tâm trạng cô
đơn lạc lõng, bế tắc của cái Tôi - cá nhân Vũ Hoàng Chương. Nhưng nếu Đời
tàn ngõ hẹp là tâm trạng về số phận một cá nhân thì ở Tuý hậu cuồng ngâm
tâm trạng ấy đã được nâng lên thành cảm xúc về con người nói chung. Thi sĩ
đã đặt con người ở hai thế giới hư vô và thực tại để giải đáp cuộc đời:
Nhớ thủa xưa chưa có ta hề đường đi thênh thênh
Kịp tới khi có ta hề chông gai mông mênh.
Cuồng vọng cả mà thôi, bốn phương hề vướng mắc.
Ba mươi năm trên vai hề trống không bình sinh.
Thi sĩ muốn đi trên một con đường mà mộng và thực cùng chung một lối.
Nhưng một phút tỉnh thi sĩ thấy đó là cuồng vọng. Hai con đường là hai thế
giới khác biệt. Đường xưa “thênh thang” nay “ chông gai mông mênh”. Xưa
nay mộng – thực có bao giờ chung một con đường. Mộng và thực luôn là nỗi
dày vò suy tư, là nỗi chán chường cũng là niềm khao khát của Vũ Hoàng
Chương. Thi sĩ muốn có sự hợp nhất giữa mộng và thực, muốn giải phóng,
muốn tự do như những đám mây, những cánh chim trên bầu trời cao rộng
nhưng đó chỉ là cuồng vọng bởi :
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi?
Há vì cơm áo chẳng no lành?
Há vì đời không ai mắt xanh?


24
Sự khốn khó về vật chất, ngột ngạt về tinh thần đã làm cho con người trở
nên đáng thương hơn và nhu cầu về sự chia sẻ cảm thông cũng theo đó mà lớn
dần lên. Vũ Hoàng Chương là người từng nếm trải nỗi cơ cực vì thiếu thốn,
túng quẫn nên ông cảm nhận rất sâu sắc về vấn đề này:

Lều nát hề chơ vơ, ngõ mưa lầm lội
Trăng lạnh đèn mờ, hồn đơn hề le lói;
Đọc truyện cổ nhân hề lòng ta quặn đau.
Gió bụi xôn xao hề thương vay người sau
Có biết bao nhà văn, nhà thơ đã đề cập đến vấn đề cơm áo nhưng chỉ đến
Vũ Hoàng Chương vấn đề ấy mới được nâng lên thành nỗi niềm suy tư, trăn
trở về thân phận con người. Vì thế những vần thơ của ông mới não nuột u uất
cấu xé tâm can người đọc.
Suy tư trăn trở nhiều lắm nhưng thi sĩ đành bất lực bó tay trước thời cuộc
và không thể làm gì hơn thế bởi nhân tình thế thái trớ trêu đã kìm hãm tài năng
của những kẻ có tài. Buông xuôi thi sĩ cầu cứu “ai mách giùm ta với!”. Nhưng
càng kêu cứu thì nỗi đau càng cồn cào da diết như con nước lãng mạng đang lê
mình trong dòng khô cạn, như con thuyền lênh đênh giữa sóng cao gió cả, như
chiếc lá úa sắp sửa rời cành, như đám mây tím chiều tà còn thoi thóp trong
bóng hoàng hôn :
Ôi đường gai góc là bao hề sóng cồn mặt bể!
Thương cho tay lái non hề con thuyền lao đao,
Tiếc cho cơ hội muộn hề chặt gai được sao!
Lá úa cành khô, thu đông hề nối gót,
Chếnh choáng giang san hề còn say hát ngao
Mây hồng tím phương tây hề tà huy thoi thóp
Đời sắp tàn trăng hề bấc lu dầu hao?
Đây không phải là sự nổi loạn của cái Tôi trong nỗi bất lực, buông xuôi
phó mặc cho số phận như ở bài Phương xa mà ở đây con người cá thể đã dám
tự khẳng định mình. Chỉ tiếc rằng cái Tôi ấy không thể hoà đồng vào cuộc

×