Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 136 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN









PHAN HOÀI NAM




Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Khải




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC









HÀ NỘI, 2008



1
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lí do chọn lựa đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc luận văn
Nội dung
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải và quá trình định hình phong cách nghệ
thuật.
1. Khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn
2. Khái niệm truyện ngắn
3. Các giai đoạn sáng tác truyện ngắn Nguyễn Khải
3.1. Tiểu sử - sự nghiệp
3.2. Các giai đoạn sáng tác truyện ngắn Nguyễn Khải
3.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Khải trước Đổi mới
3.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Khải sau Đổi mới
Chương 2: Kiểu nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Nguyễn Khải
1. Kiểu nhân vật xung đột
2. Kiểu nhân vật tâm lí
3. Kiểu nhân vật tự truyện
Chương 3: Kết cấu và tình huống nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
1.Tình huống nghệ thuật
2. Chi tiết nghệ thuật

3. Cách mở đầu và kết thúc
3.1 Cách mở đầu
3.2 Cách kết thúc

2
Chương 4: Phong cách trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
1. Điểm nhìn trần thuật
1.1: Trần thuật hướng ngoại
1.2: Trần thuật hướng nội
2. Ngôn ngữ trần thuật
2.1: Ngôn ngữ người kể chuyện
2.2: Ngôn ngữ nhân vật

Kết luận


















3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Khải là một nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam sau năm 1945. Đi qua hơn nửa thế kỉ lao động bền bỉ, hành trình nghệ
thuật của ông là hành trình tinh thần của “một đời văn gắn bó với dân tộc và thời
đại”. Văn nghiệp của Nguyễn Khải là một tập khảo luận chân thực về những vấn
đề của cuộc sống, của đất nước và con người Việt Nam, những trang văn luôn nóng
hổi tính thời sự, mang tầm khái quát triết lí cao, chắt lọc qua mỗi trang đời của
người cầm bút.
Nguyễn Khải sáng tác bằng nhiều thể loại khác nhau mà ở thể loại nào ông
cũng gặt hái được thành công, từ tiểu thuyết, bút kí, ghi chép đến truyện ngắn, kịch,
tạp văn. Tác phẩm của ông bao giờ cũng khái quát được những mảng hiện thực lớn
gắn liền với từng giai đoạn lịch sử nhất định của đất nước. Mỗi tác phẩm là một
cách lí giải bằng nghệ thuật các vấn đề xã hội, tiếp cận với chân lí đời sống, giúp
người đọc mở “túi khôn” để nhận chân được giá trị cuộc sống xung quanh cũng
như tự nhận thức, khám phá bản thân mình. Đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu
Vương Trí Nhàn trong lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Khải: “Ông đã là một
trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại (…)Với cuộc cách mạng này, những
năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng chứng, một tài
liệu tham khảo thật sự. Và muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay,
cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải
đọc Nguyễn Khải” [47, tr.61].
Hơn nửa thế kỉ hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, những cống hiến, đóng
góp của Nguyễn Khải cho cách mạng, cho văn học nghệ thuật nước nhà đã được
ghi nhận xứng đáng. Ông đã vinh dự nhiều lần có được các giải thưởng lớn: hai lần
nhận Giải thưởng văn xuôi của Hội nhà văn Việt Nam (1982;1998); Giải tác phẩm
xuất sắc của Hội Văn nghệ Việt Nam; Giải ASEAN cho tuyển tập truyện ngắn và


4
giải thưởng Hồ Chí Minh cho cụm tiểu thuyết Xung đột, Cha và con và…, Gặp gỡ
cuối năm vào năm 2004.
Không thể dừng lại quá lâu ở việc “tổng kết đời sống như ông vẫn làm sau
chiến tranh”, Nguyễn Khải quăng quật mình giữa đời để sống và viết. Viết, đối với
ông như là một nhu cầu tự thân, một sự tri ân đối với độc giả hay là một thứ duyên
nợ đối với nghề. Sau những thành công nhất định ở thể loại tiểu thuyết, ở vào độ
tuổi “thất thập cổ lai hy”, có lẽ cái già dặn, sâu sắc của một người từng trải đã biết
tìm đến cái chắt lọc, cô đúc của thể loại truyện ngắn.
Trong suốt mấy thập kỉ cuối của thế kỉ XX, cùng với những cây bút trẻ sung
sức, đầy nhiệt huyết như Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ và cả những lớp nhà văn thế hệ trước từng trải qua chiến
tranh như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng,
Lê Lựu Nguyễn Khải đã đổi mới cách nghĩ, cách viết cũng như góp phần hiện đại
hóa thể loại truyện ngắn trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc.
Kể từ truyện ngắn đầu tiên đăng trên Tạp chí Lúa mới của Chi hội văn nghệ
Liên khu III năm 1951 đến nay, theo thống kê của chúng tôi, Nguyễn Khải đã viết
được hơn 90 truyện ngắn (Xem phụ lục Danh mục Truyện ngắn Nguyễn Khải)
đăng rải rác trong các tập truyện, trên rất nhiều báo, tạp chí như Văn nghệ quân đội,
Công an nhân dân, báo Văn nghệ, Văn học, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh
Truyện ngắn Nguyễn Khải hai mươi năm trở lại đây, nhất là sau thời kì Đổi
mới đã có nhiều biến chuyển. Ngòi bút Nguyễn Khải như bén duyên với cái hôm
nay, với cuộc sống nhỡn tiền ồn ã, náo động xung quanh. Ông miệt mài quăng quật
mình trên cánh đồng chữ để khai vỡ. Cái nhìn về nghệ thuật, về con người của ông
không còn là cái nhìn một chiều, chỉ nhìn thấy “cái nửa mà ai cũng thấy” như
trước nữa mà giờ đây là một ngòi bút đầy trăn trở, suy nghiệm và luôn nhìn mọi
vấn đề trong sự phức tạp, đa dạng, muôn mặt của cuộc sống hiện đại với những
nhận xét vừa tinh quái, vừa sắc sảo. “Ông là một trong những nhà văn hiếm hoi,

5

càng già lại càng duyên, đọc mãi không thấy chán”. Chính điều này đã làm nên
một dư vị, một chỗ đứng, một giọng điệu, góp phần hình thành nên gương mặt
riêng của Nguyễn Khải trên văn đàn.
Với khối lượng sáng tác khá đồ sộ, phong phú về thể loại và có dấu ấn riêng,
nhiều công trình nghiên cứu tác giả, tác phẩm Nguyễn Khải đều nhất trí xếp ông
vào vị trí nhà văn tiêu biểu của nền văn học đương đại Việt Nam, song các công
trình chuyên biệt, đi sâu vào thể loại truyện ngắn Nguyễn Khải, đặc biệt làm nổi bật
được giọng điệu riêng của Nguyễn Khải về truyện ngắn vẫn còn ít ỏi. Với lí do đó,
chúng tôi quyết định chọn đề tài: Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Khải cho luận văn của mình, với mong muốn góp tiếng nói khẳng định phong cách
ngòi bút nhà văn trong thể loại truyện ngắn, giúp người đọc có được cái nhìn toàn
diện hơn, sâu sắc hơn về phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn chiến sĩ này
trên văn đàn Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nhìn chung về việc phê bình, nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Khải
Tác phẩm của Nguyễn Khải (tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, kịch ) từ lâu
đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm chú ý của cả người đọc lẫn giới nghiên cứu
phê bình văn học. Bạn đọc chờ đợi ở tác phẩm Nguyễn Khải một thái độ mạnh dạn,
nhìn thẳng vào những vấn đề quan trọng và phức tạp của cuộc sống. Giới nghiên
cứu phê bình nhận thấy ở nhà văn một cách tiếp cận hiện thực độc đáo, một cái
nhìn sắc sảo, tinh tế những khía cạnh cuộc sống và những trạng thái tâm lí phức tạp
của con người.
Tác phẩm Nguyễn Khải là đề tài tranh luận của rất nhiều nhà văn, nhà
nghiên cứu phê bình có uy tín như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vũ Tú Nam, Hồ
Phương, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Nhị Ca, Ngô Thảo,
Chu Nga, Vương Trí Nhàn Bên cạnh những bài viết sắc sảo phân tích về các tác
phẩm văn học cụ thể của ông như Xung đột, Mùa lạc, Cách mạng, Cha và con

6
và Gặp gỡ cuối năm thì đã có rất nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu Nguyễn Khải

dưới góc độ phong cách nhà văn, đặc điểm ngòi bút nghệ thuật hay với tư cách là
một tác gia của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Cho đến nay đã có hơn 100 bài viết được công bố, trong đó hơn 2/3 các công
trình trực tiếp nghiên cứu về tác giả, tác phẩm Nguyễn Khải; số còn lại tuy không
trực tiếp đặt ra vấn đề nghiên cứu nhà văn nhưng đều ít nhiều đề cập đến Nguyễn
Khải ở cấp độ này hay cấp độ khác.
Về phương diện phong cách nghệ thuật, hầu hết các nhà nghiên cứu đều
thống nhất ở đặc điểm ngòi bút hiện thực tỉnh táo của nhà văn, và coi đó như là một
nét phong cách nghệ thuật riêng của ông. GS. Phan Cự Đệ trong Nhà văn Việt
Nam hiện đại đã khẳng định: “Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ”, “một ngòi bút
hiện thực tỉnh táo”. Đó là một phong cách hiện thực sắc sảo luôn gắn liền với
những cảm hứng lãng mạn cách mạng về ngày mai mà theo năm tháng, càng ngày
càng có sự biến chuyển, “ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Nguyễn Khải ngày càng
xúc động hơn, tình cảm hơn, giàu chất trữ tình cách mạng hơn và nói chung, nhân
hậu và tin yêu con người hơn ”
Chu Nga trong “Đặc điểm sáng tác Nguyễn Khải” (Tác gia văn xuôi Việt
Nam hiện đại) và “Đặc điểm ngòi bút hiện thực Nguyễn Khải” (Tạp chí văn học
số 2-1974) trong khi vừa khẳng định tính chiến đấu, ngòi bút sắc sảo của Nguyễn
Khải đồng thời cũng chỉ ra hạn chế trong sự tỉnh táo của ngòi bút nhà văn, khi ông
“hơi quá khách quan, lạnh lùng đối với những gì miêu tả” “ít chú ý đến con người,
hạt nhân của hình tượng nghệ thuật”. Chu Nga đã hơi quá gay gắt khi phê phán sự
“lạnh lùng”, “tàn nhẫn”, “sắc lạnh” của Nguyễn Khải mà không nghĩ đó cũng là
một thủ pháp nghệ thuật của nhà văn (cái lạnh lùng nghệ thuật) mà như ông đã có
lần từng viết trong tác phẩm của mình: “sự say mê, sự đắm đuối ở ông bao giờ
cũng có chừng mực, lại được giấu dưới vẻ ngoài lạnh lẽo”.

7
Nguyễn Văn Hạnh trong “Một vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn Khải” (Tạp
chí văn học, số 9, 1964) lại đi sâu vào nghệ thuật biểu hiện cuộc sống và xây dựng
tính cách nhân vật. Ông cho rằng, Nguyễn Khải đã có được “sự hài hòa giữa việc

miêu tả sự kiện của đời sống bên ngoài và tâm lí nhân vật, giữa tính chính xác của
các chi tiết và hơi chất trữ tình, sự trình bày những sự việc cụ thể trong mọi liên hệ
trực tiếp với lí tưởng” và ông cũng khẳng định “thành công của Nguyễn Khải là
do nhận thức chính trị, tinh thần trách nhiệm và sự hiểu biết khá chu đáo của nhà
văn về phạm vi hiện thực mà mình miêu tả”.
Trong Văn học Việt Nam 1945-1975 (NXB GD 1990), Đoàn Trọng Huy khi
viết về “Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải”, đã khẳng định yếu tố
chính luận và tính thời sự của Nguyễn Khải thông qua cái nhìn hiện thực nghiêm
ngặt; tính chính luận và ngòi bút năng động luôn gắn với tính thời sự của nhà văn.
Tuy nhiên, Đoàn Trọng Huy lại chưa thấy hết được sự hài hòa trong phong cách
chính luận, hiện thực, tỉnh táo với cái nhân hậu, cái lãng mạn cách mạng trong ngòi
bút nhà văn.
Xung quanh cuộc đối thoại giữa hai nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân
và Trần Đình Sử trong Văn học và phê bình ( NXB Tác phẩm mới, H-1984) đã đặt
ra vấn đề vì sao tác phẩm Nguyễn Khải lại gây được sự chú ý? Và hai nhà nghiên
cứu này đã lần lượt thay nhau trả lời luôn câu hỏi ấy. Đó là tính hiện thực của tác
phẩm Nguyễn Khải khi viết về “những con người, những sự việc những vấn đề của
hôm nay”, “đề tài nhằm thẳng vào đời sống hiện tại”; đó là phương diện đạo đức
của vấn đề phản ánh; đó là cảm hứng nghiên cứu và sự phân tích tâm lí, là chất văn
xuôi, là cách kết thúc tác phẩm, là đặc sắc ngôn ngữ Những chủ đề hai nhà nghiên
cứu trao đổi đề cập đến khá nhiều vấn đề thuộc về phong cách nghệ thuật của nhà
văn. Tuy nhiên, với tính chất là một cuộc đối thoại thì cũng còn nhiều ý kiến cần
phải trao đổi, bàn luận thêm.

8
Trên Tạp chí văn học, số 7 năm 1998, trong bài viết “Nguyễn Khải và tư
duy tiểu thuyết” Nguyễn Thị Bình đã đi sâu tìm hiểu về hứng thú nghiên cứu thực
tại, về nhân vật yêu thích, về giọng điệu nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, thành công của Nguyễn Khải không phải chỉ là “điều mấu chốt là ở chỗ
ông có một tư duy tiểu thuyết” như lời kết luận, khẳng định của nhà nghiên cứu.

Trong những bài nghiên cứu về Nguyễn Khải, cần phải kể đến những trang
viết của một người bạn, đồng thời là nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn, như:
“Vài nét về sáng tác Nguyễn Khải trong những năm gần đây”, “Nguyễn Khải hay
một cách tồn tại trong văn chương”, “Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học
cách mạng từ sau 1945”. Có thể nói, Vương Trí Nhàn là người rất gần gũi, dày
công nghiên cứu cũng như luôn có những nhận xét sâu sắc về đặc điểm ngòi bút
sáng tạo Nguyễn Khải.
Bên cạnh những ý kiến khen ngợi và đồng tình, nhiều nhà nghiên cứu cũng
đã thẳng thắn chỉ ra nhiều nhược điểm, hạn chế của Nguyễn Khải trong những năm
gần đây: “Ở Nguyễn Khải, có một chút đanh đá, chua ngoa, pha chút ngông
nghênh hiếu thắng, lối nói băm bổ, lối trình bày thẳng tuột những điều người khác
chỉ dám nghĩ” (Vương Trí Nhàn) hay “mấy năm gần đây, Nguyễn Khải hay viết về
bản thân mình, một lối hồi kí, tự truyện. Ở những tác phẩm này, Nguyễn Khải như
cố tình khoe ra với thiên hạ cái hèn, cái kém, cái nhếch nhác đến tội nghiệp của
mình” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Về phương diện nhân vật, trong những năm gần đây, có “Thế giới nhân vật
Nguyễn Khải trong cảm hứng nghiên cứu phân tích” của Đào Thủy Nguyên, đăng
trên Tạp chí văn học, số 11 năm 2001 và “Cảm nhận về con người trong sáng tác
của Nguyễn Khải trong những năm gần đây” của Nguyễn Thị Kim Huệ trên Tạp
chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam tháng 10 năm 1999. Cả hai tác giả này đều đã đi
sâu khám phá và đã chỉ ra được khá sâu sắc nhiều đặc điểm về nghệ thuật xây dựng

9
nhân vật, thế giới nhân vật cũng như cảm nhận về con người trong tác phẩm
Nguyễn Khải.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước nay đều có những ý
kiến, nhận xét khá xác đáng và thống nhất về đặc điểm ngòi bút cũng như phong
cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Khải. Đó cũng là những đặc điểm chung cho
hầu hết những sáng tác của ông từ tiểu thuyết, tạp văn, kịch đến truyện ngắn. Tuy
nhiên, dưới góc độ phê bình, nghiên cứu phong cách nghệ thuật nhà văn, theo

chúng tôi còn có thêm một kênh thông tin hữu ích nữa là dạng phê bình miệng của
bạn bè, đồng nghiệp vừa là những lời động viên khích lệ kịp thời, đôi khi cũng có
những góp ý thẳng thắn để nhà văn suy ngẫm và thay đổi mình.
2.2. Về nghệ thuật truyện ngắn Ngyễn Khải
Truyện ngắn chiếm một số lượng khá lớn trong cuộc đời viết văn của
Nguyễn Khải, thậm chí có những giai đoạn, chính truyện ngắn đã tạo dựng nên
diện mạo văn chương của ông trên văn đàn. Mặc dù vậy, dưới góc độ nghiên cứu,
phê bình, những bài viết mang tính chất tổng kết hay chỉ ra những đặc điểm riêng
về truyện ngắn Nguyễn Khải thì hầu như là chưa có.
Theo khảo sát của chúng tôi, trước nay, ngoài các bài nghiên cứu về đặc
điểm, phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải nói chung (tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch, tạp văn) có ít nhiều đề cập đến thể loại truyện ngắn như một bộ phận cấu
thành, còn lại những nghiên cứu riêng mang tính chất tổng kết, khái quát về truyện
ngắn thì mới chỉ có hai bài viết là: “Đọc truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Khải” của
Nguyễn Hữu Sơn trên báo Nhân dân ngày 27-02-1999 và “Giọng điệu trần thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Khải từ những năm tám mươi đến nay” của tác giả Bích
Thu, đăng trên Tạp chí Văn học số 10 năm 1997. Tuy nhiên, kể cả hai bài viết này
thì cũng chưa chỉ ra được nhiều và thuyết phục về những đặc điểm riêng truyện
ngắn Nguyễn Khải, lại cũng chưa có ai đặt vấn đề truyện ngắn Nguyễn Khải dưới
góc độ thể loại hay dưới góc độ phong cách để giúp người đọc có được cái nhìn

10
toàn diện hơn về đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của ông. Chính vì vậy, việc đi
sâu nghiên cứu phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Khải, là một việc làm
hoàn toàn cần thiết, hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định phong cách, tài năng
của nhà văn.
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của luận văn
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào toàn bộ sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Khải,
những tác phẩm thuộc thể loại khác như tiểu thuyết, kịch, ký sự, tạp văn… không

phải là đối tượng nghiên cứu chính. Tuy nhiên, để đánh giá một cách toàn diện,
trong suốt quá trình làm việc, chúng tôi có khảo sát, đối sánh, phân tích thêm một
số tiểu thuyết và tạp văn của ông cũng như có mối liên hệ, phân tích với một số tác
phẩm của các nhà văn khác cùng thời.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ tiếng nói, gương mặt riêng về truyện ngắn của Nguyễn Khải trên
văn đàn, luận văn đi sâu vào nghiên cứu truyện ngắn dưới góc độ thể loại và đặc
điểm ngòi bút nhà văn theo quan điểm phong cách nghệ thuật cá nhân. Đây không
phải là một hướng đi mới tuy nhiên, rất cơ bản và cần thiết, nhất là đối với các nhà
văn đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học, cách mạng của dân tộc.
Tìm hiểu đặc điểm phong cách truyện ngắn dưới góc độ thể loại, quả thật đã
hấp dẫn người viết bởi lẽ đúng như M.Bakhtin đã từng nói: “Thể loại đúng là nhân
vật trung tâm của văn học”. Nó là một mã nghệ thuật chung, một mô hình tổ chức
văn bản đã quen thuộc, đã trở thành quy ước, thành một thứ siêu ngôn ngữ (ngôn
ngữ ở trong ngôn ngữ) tiềm ẩn ở trong người viết. Ở đó, người viết có thể lựa chọn
mô hình tổ chức văn bản và đặt mình vào trong một hệ thống; còn người nghe có
cơ sở định hướng để tiếp nhận, bình giá và thưởng thức giá trị nghệ thuật của văn
bản.

11
Nói cách khác, thể loại là cái mã chung để giao tiếp giữa người viết (kể) và
người đọc (nghe) mà nếu không giải mã được nó thì việc tìm hiểu tác phẩm nghệ
thuật của nhiều nhà văn rốt cùng cũng chỉ như “chim chích lạc vào rừng xanh” hay
“thấy cây mà không thấy rừng”.
3.3. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu Nguyễn Khải dưới góc độ phong cách nghệ thuật nhà văn, luận văn
đi sâu vào việc làm nổi bật được giọng điệu riêng, gương mặt riêng của Nguyễn
Khải trên văn đàn. Ở đây, phong cách là sự thống nhất của tất cả các yếu tố trong
tác phẩm từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng điệu, các chi tiết cụ thể đến
cách đặt câu dùng từ, thậm chí từng từ ngữ yêu thích của nhà văn. Tuy nhiên, việc

nghiên cứu phong cách nghệ thuật nhà văn không nhất thiết phải “dàn hàng ngang”
mà ở mỗi yếu tố có thể thêm, bớt, nhấn lướt một vài đặc điểm mang dấu ấn riêng
của nhà văn đó.
Tìm hiểu phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyên Khải, mục đích của
người viết là thông qua việc phân tích, giải mã, tìm hiểu các cấp độ khác nhau của
truyện ngắn Nguyễn Khải theo lí luận thể loại, từ đó, bước đầu phác họa được
gương mặt, phong cách, những đóng góp cũng như những hạn chế của ngòi bút nhà
văn chiến sĩ này trong việc cách tân thể loại và việc hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Để làm nổi bật được phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Khải, người
viết cố gắng so sánh phong cách truyện ngắn của ông với một số nhà văn cùng thời,
đồng thời so sánh với chính phong cách của ông trong các thể loại khác, đặc biệt là
tiểu thuyết; làm rõ những nét ổn định và biến chuyển trong phong cách truyện ngắn
của ông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận chung, chúng tôi dựa trên cơ sở hệ thống phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu,

12
chúng tôi thường xuyên vận dụng tư duy phân tích, so sánh, tổng hợp, liệt kê, quy
nạp và khái quá hóa để tìm hiểu vấn đề.
Để khắc họa thành công phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Khải,
chúng tôi có áp dụng phương pháp nghiên cứu tác gia văn học, tìm hiểu sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Khải như một quá trình vận động liên tục gắn liền với quá
trình vận động của hoàn cảnh lịch sử và tiến trình văn học Việt Nam sau 1945.
Ngoài ra, với mục đích tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải dưới góc độ thể
loại, chúng tôi đã dựa vào hệ thống phương pháp nghiên cứu của một thể loại lớn
hơn, bao trùm, đó là phương pháp phân tích, giải mã Truyện, dựa trên cơ sở tham
khảo những công trình nghiên cứu truyện dưới góc độ thi pháp của nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới như Hình thái học của M.Propp; Liên ngành nhân văn của
M.Bakhtin; Mĩ học Mac xit; Ngữ văn học của R.Barthes, T.Todorov

Chúng tôi cơ bản nhất trí đi theo hướng phân chia bản thân Truyện thành hai
phần: “Cái được kể” và “Hành động kể”; “Cái phát ngôn” (enonée) và “Sự phát
ngôn” (énonciation). Cái được kể, cái phát ngôn hiểu nôm na là chuyện, là cốt
truyện, là nội dung được kể còn hành động kể, sự phát ngôn là bản thân văn bản
truyện, là cách thức diễn đạt, là cái mã nghệ thuật mà truyện kể đó mượn để chuyển
tải nội dung mà theo như cách phân chia của T,Todorov là “Chuyện” và “Diễn
ngôn”, hay là khái niệm “Chuyện” và “Truyện” như nhiều nhà nghiên cứu lâu nay
đã thống nhất.
Việc phân tách giữa Chuyện và Truyện không phải là hình thức chủ nghĩa mà
đó là bước đầu tiên để khám phá nghệ thuật truyện kể và phong cách truyện kể của
nhà văn. Theo như R.Bathes trong Dẫn luận phân tích các truyện kể thì: “hiểu một
truyện không đơn giản là theo dõi mạch lạc cốt truyện mà chính là nhận biết những
tầng (étages) chiếu những chuỗi bề ngang lên luồng (fil) được kể, lên cái trục dọc
hàm ẩn; đọc (nghe) một truyện không đơn giản lướt từ chữ này sang chữ khác, mà
từ cấp độ này đến cấp độ khác” [3, tr.14-15]

13
Như vậy, trong phương pháp luận của mình, người viết cố gắng đi theo các
hướng phân tích trên, bước đầu cố gắng chỉ ra các cấp độ khác nhau trong nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Khải đồng thời tìm hiểu về phong cách, nghệ thuật
truyện ngắn của nhà văn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được trình bày trong 4 chương.:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải và quá trình định hình phong cách nghệ
thuật.
Chương 2: Kiểu nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
Chương 3: Tình huống và Kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
Chương 4: Phong cách trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải.















14
NỘI DUNG
Chương 1:
Truyện ngắn Nguyễn Khải và quá trình định hình phong cách
nghệ thuật
Trước khi đi vào nghiên cứu về phong cách nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Khải, chúng tôi cho rằng, trước hết cần phải làm rõ được hai khái niệm cơ bản nhất:
phong cách nghệ thuật nhà văn và thể loại truyện ngắn. Theo đó, đối tượng khảo sát
ở đây sẽ được xác định như là đặc điểm phong cách Nguyễn Khải thể hiện ở đặc
trưng cơ bản về mặt thể loại của truyện ngắn hiện đại.
1. Khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn
Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay, phong cách vẫn là một khái
niệm rộng và đa nghĩa. Hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những định nghĩa
khác nhau về phong cách, thậm chí chúng đang “xòe ra” như cái quạt, theo cách nói
của M.B Khrapchenkô.
Trong khoa nghiên cứu văn học, thường thường người ta dùng thuật ngữ
phong cách để xác định đặc trưng phẩm chất của các loại hiện tượng: tác phẩm văn
học, nhà văn, trào lưu hay trường phái văn học. Nhiều nhất là khái niệm phong

cách nghệ thuật nhà văn. Có những nhà nghiên cứu văn học tiếp cận phong cách từ
phía ngôn ngữ học; có người lại đưa vào phong cách cả tư tưởng, đề tài, tính cách
và ngôn ngữ hay có người xem phong cách là sự thống nhất hữu cơ của tất cả các
thành tố tạo nên tác phẩm văn học.
Việc nghiên cứu phong cách nhà văn là một trong những vấn đề lí luận đã và
đang gây nhiều tranh cãi sôi nổi, không chỉ ở Liên Xô cũ mà còn ở nhiều nước
khác trên thế giới. Có thể kể ra một số tên tuổi khá quen thuộc với độc giả Việt
Nam như Khraptrenko M.V; Tritrêrin A.V; Timôphêep L.I; Paxpelôp G.N;
Vinograđốp V.V; Gây N.K; Xôkôlốp A.N…Ở Việt Nam, cũng đã có một số nhà

15
nghiên cứu bàn sâu về vấn đề phong cách như Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Đình Kỵ,
Phan Cự Đệ, Phan Ngọc…với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Ngược dòng lịch sử, khái niệm mang tính chất ngôn ngữ về phong cách được
hình thành sớm nhất ở cổ Hy Lạp, về sau được lan truyền tới La Mã cổ đại, nơi mà
Stylus được coi như một thuật ngữ ngôn ngữ học. Trải qua một thời kì lịch sử dài từ
Trung cổ tới Phục hưng, ở nhiều nước trên thế giới như Hy Lạp, Ấn Độ…trong các
công trình của Arixtôt, Gôraxia, Xixêron, Xkaligher…khái niệm phong cách nói
chung vẫn duy trì ý nghĩa truyền thống của nó.
Sang đến thời kì cận đại, phong cách không chỉ được hiểu như hệ thống thể
hiện của lời nói mà khái niệm đó được mở rộng hơn. Phong cách lúc này được coi
là đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật “là một phương hướng riêng biệt trong nghệ
thuật hình thành ở thời đại nào đó và là một hệ thống xác định các dấu hiệu nghệ
thuật tư tưởng” (I. Vinkenman- Lịch sử nghệ thuật cổ đại).
Bước sang thời kì hiện đại, dưới quan điểm của các nhà nghiên cứu văn học,
phong cách được xem như một phạm trù thẫm mĩ, một hiện tượng văn học nghệ
thuật, bao gồm trong nó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong cách giờ đây
được nghiên cứu trong mối quan hệ với tư tưởng. với nhà văn, với thời đại hay
“giữa quá trình phong cách và truyền thống phong cách”, giữa “phong cách,
phương pháp, cuộc sống” hay giữa “cốt truyện và phong cách”… Phổ biến nhất,

phong cách được hiểu theo 2 cách: thứ nhất, phong cách là tính cá thể hoặc tính độc
đáo; thứ hai, phong cách là một hệ thống các phương tiện biểu đạt, là hình thức
nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Qua các tài
liệu bàn về lí thuyết phong cách, chúng tôi nhận thấy nổi bật lên ba vấn đề cơ bản
sau đây:
1.1. Phong cách nghệ thuật nhà văn là sự thống nhất các đặc tính vốn có của
tất cả các tác phẩm của nhà văn đó. Thực tế cho thấy, phong cách vừa có mặt thống
nhất vừa có mặt đa dạng. Phong cách là một cái gì rất chung mà không trừu tượng,

16
có thể thâu tóm tất cả nhưng lại là hình ảnh sinh động của nhà văn, là thần thái, là
linh hồn của mỗi tác phẩm nhưng cũng là tâm trạng, cách nhìn, giọng điệu, nụ cười
quen thuộc của người nghệ sĩ. Cho nên, xác định phong cách nếu chỉ sa vào phân
tích những chi tiết, những yếu tố riêng rẽ thì không hình dung được phong cách.
Ngược lại, nếu miêu tả phong cách mà chỉ rút vào một vài nét thống nhất nào đó thì
cuối cùng cũng không nói được một điều gì rõ rệt về phong cách.
Vì vậy, nói đến phong cách trước hết phải nói đến tính thống nhất của nó
như một chỉnh thể nghệ thuật. Ở một nhà văn lớn, sự thống nhất về phong cách
được thấy rõ ở hàng loạt tác phẩm. Ta thường đoán được một tác phẩm này hay
một tác phẩm khác do một nhà văn nào đó viết, mặc dù ta chưa biết người viết tác
phẩm ấy. Điều này có nghĩa là, chúng ta có thể nhận ra phong cách của nhà văn khi
đã biết từ trước qua tác phẩm khác của ông ta. Phong cách là sự thống nhất cuối
cùng của tất cả các yếu tố trong tác phẩm từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng,
giọng điệu, các chi tiết cụ thể đến cách đặt câu dùng từ, thậm chí từng từ ngữ ưa
thích của nhà văn.
1.2. Phong cách là khái niệm bao gồm cả nội dung và hình thức nghệ thuật
(tuy thể hiện cụ thể và rõ rệt hơn ở hình thức). Nói phong cách là nói phẩm chất
thẫm mĩ của tác phẩm văn học, nói tới những sáng tạo độc đáo của nhà văn theo
quy luật của cái đẹp trong đó có mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Bởi vậy,
phong cách trước hết thể hiện ở hình thức nghệ thuật. Nhưng nếu như không nắm

được tính độc đáo của nhà văn và tác phẩm - ở đây là tư tưởng - nghệ thuật thì cũng
khó mà quan niệm được phong cách một cách sâu sắc. Nói như nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Mạnh thì "Không tìm ra cơ sở tư tưởng của phong cách thì không
phát hiện ra được quy luật nghệ thuật và tính thống nhất bên trong của phong
cách". [47, tr.76].
Phong cách có thể nổi rõ hơn ở nội dung tư tưởng hoặc đậm nét hơn ở hình
thức nghệ thuật. Tuy nhiên, trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình

17
thức, một phong cách thiên về nội dung vẫn có liên quan đến hình thức nghệ thuật
và một phong cách thiên về hình thức nghệ thuật vẫn có gốc rễ ở nội dung. Do đó,
khó có thể và cũng không thật cần thiết đòi hỏi phong cách phải được miêu tả một
cách bình quân, máy móc hai mặt nội dung và hình thức. Tuy nhiên, nói đến phong
cách là nói đến sự thống nhất nội dung và hình thức, tư tưởng và nghệ thuật.
“Phong cách liên hệ hình thức với nội dung, cái biểu đạt với cái được biểu đạt.
Phong cách là chất liệu nghệ thuật trong đó được thể hiện tư tưởng của người nghệ
sĩ. Chính ở đây bộc lộ sự phụ thuộc của phong cách vào tư duy hình tượng, thế giới
quan” (Xôkôlôv A.N). Như vậy, phong cách nghệ thuật thể hiện trong cả nội dung
và hình thức, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và bền vững, thể hiện được cá tính
sáng tạo của nhà văn.
1.3 Phong cách thể hiện tập trung trong những đặc điểm mang giá trị phẩm
chất nghệ thuật cao, được kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn. Nói đến phong
cách là nói đến tính độc đáo của phẩm chất thẫm mĩ - nghĩa là phải đem lại cho
người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào khiến họ tìm thấy sự khác biệt giữa tài
năng này với tài năng khác. Đó là một sự khó khăn đối với quá trình sáng tạo của
một nhà văn. Chính vì thế, không phải nhà văn nào cũng có phong cách, mặc dù xét
cho cùng, nhà văn nào cũng có đặc điểm riêng. Đặc điểm mờ nhạt thì chưa có ý
nghĩa gì đối với nghệ thuật, phải là chỗ độc đáo không thể thay thế được mới làm
nên phong cách nhà văn. Chỉ cần có sự lặp đi lặp lại trong sáng tác nghệ thuật đã
được gọi là đặc điểm, nhưng phong cách phải là một sự lặp đi lặp lại một cách đổi

mới, phải là những sáng tạo có giá trị bền vững, không chóng phai mờ.
Nhìn chung mỗi nhà văn ít nhiều đều có những đặc điểm riêng trong sáng
tác, nhưng những đặc điểm riêng ấy phải phát triển đến một trình độ nghệ thuật
nào đó và phải hợp thành một chỉnh thể thống nhất, độc đáo và tương đối kiên định
thì mới trở thành phong cách. Cho nên, quá trình khẳng định phong cách của một
nhà văn là quá trình tu dưỡng nghệ thuật, quá trình nhà văn tự tìm hiểu chỗ mạnh,

18
chỗ yếu và bản sắc của mình. Có thể nói, phong cách là dấu hiệu trưởng thành của
một nhà văn, hơn thế nữa, khi nó phát triển nở rộ thì đó chính là bằng chứng của
một nền văn học đã trưởng thành.
Phong cách nghệ thuật độc đáo giúp cho sáng tác nghệ thuật của người nghệ
sĩ có được bản sắc riêng không bị lẫn lộn giữa đại dương văn học mênh mông.
Chính cái mới lạ, độc đáo trong phong cách nghệ thuật giúp cho tác phẩm văn
chương lay động được lòng người, tạo cho bạn đọc có được hứng thú khi đọc tác
phẩm. Phong cách nghệ thuật riêng độc đáo cũng là yếu tố mới lạ kích thích bạn
đọc, như cái duyên để họ bị cuốn hút bởi một giọng văn, một bút pháp, bị ám ảnh
bởi một hình tượng nghệ thuật nào đó, để rồi cái giọng văn đó, cái hình tượng nghệ
thuật đó sống mãi trong tâm hồn người đọc.
Tóm lại, xung quanh khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn, có nhiều vấn
đề phức tạp phải bàn luận. Tuy nhiên, để có một khái niệm thích đáng cần thiết cho
quá trình giải quyết đề tài luận văn, chúng tôi xác định nội hàm khái niệm phong
cách nghệ thuật như sau:
- Nói đến phong cách nghệ thuật của nhà văn, trước hết phải nói đến tính
thống nhất của nó được bộc lộ rõ ở hàng loạt tác phẩm và thể hiện ở mọi bình diện
từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng điệu, ngôn ngữ và mọi chi tiết khác của
tác phẩm.
- Nói phong cách là nói phẩm chất thẫm mĩ của tác phẩm văn học, nói những
sáng tạo độc đáo của nhà văn theo quy luật của cái đẹp, điều đó được lặp đi lặp lại
một cách có hệ thống, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và bền vững, thể hiện

được cá tính sáng tạo của nhà văn.
- Phong cách trước hết thể hiện ở hình thức nghệ thuật các tác phẩm nhưng
nếu không nắm được tính độc đáo của tư tưởng nhà văn và tác phẩm, ở đây là tư
tưởng - nghệ thuật thì cũng không quan niệm phong cách được một cách sâu sắc.

19
Như vậy, phong cách là khái niệm bao gồm cả nội dung lẫn hình thức, tuy nhiên,
phong cách thể hiện một cách cụ thể nhất, rõ rệt nhất ở hình thức nghệ thuật.
2. Về khái niệm truyện ngắn
Với khái niệm Truyện ngắn, việc xác lập một định nghĩa cũng khó khăn
không kém. “Thật ra thì cho đến tận bây giờ cũng chưa có ai tìm ra được một định
nghĩa thật chuẩn về tiểu thuyết hay truyện ngắn” [72, tr.20], bởi “truyện ngắn cũng
như tiểu thuyết là một thể loại luôn luôn biến chuyển” [1, tr. ]
Truyện ngắn có nguồn gốc tiếng Italia, novella có nghĩa đầu tiên là “cái tin”,
“một chuyện mới”.(tiếng Pháp: Nouvelle, tiếng Anh: short story, tiếng Trung Quốc:
Đoản thiên tiểu thuyết). Trước nay, đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thể loại
truyện ngắn từ khắp các châu lục. Nhà thơ Đức, Gớt (J.Goethe, 1749-1832) xác
định Novella là “ một câu chuyện lạ đang xảy ra làm ta kinh ngạc”. Nhà văn K.
Pauxtôpxki (Nga) cho rằng: “Thực chất truyện ngắn là gì? Tôi ghĩ truyện ngắn là
một truyện ngắn gọn trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó
bình thường, và cái bình thường hiện ra như một cái gì đó không bình thường” [59,
tr. ]. D. Grônôpxki trong sách Đọc truyện ngắn viết: “Truyện ngắn là một thể loại
muôn hình, muôn vẻ, biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hóa như quả chanh
của Lọ Lem. Biến hóa về kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kì ảo, hướng về biến cố
thật hay tưởng tượng, hiện thực hoặc phóng túng. Biến hóa về nội dung: thay đổi
vô cùng vô tận…Trong thế giới của truyện ngắn, cái gì cũng thành biến cố, thậm
chí sự thiếu vắng tình tiết, diễn biến cũng gây hiệu quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị
hẫng hụt” [59, tr. ]
Nói chung, qua các tài liệu hiện hành và qua tham khảo ý kiến của nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình và các nhà văn….chúng tôi thấy truyện ngắn là một khái

niệm rất khó xác định cả về phương diện nội dung và hình thức. Lí luận về truyện
ngắn trở nên phong phú hơn nhờ ý kiến, kinh nghiệm của các nhà sáng tác từ
những Sêkhốp, Môom Môham, E.Hêminuê, An-tô-nốp vv ở nước ngoài, đến

20
những Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn
Kiên v…v ở nước ta.
Tuy vậy, qua các tài liệu viết về truyện ngắn mà chúng tôi tiếp cận được,
chúng tôi nhận thấy ý kiến của các nhà lí luận và nhất là ý kiến của các nhà sáng
tác quả là có nhiều điểm không thống nhất, đặc biệt khi so sánh truyện ngắn và tiểu
thuyết về tính chất (chứ không phải là về độ dài ngắn) - một vấn đề then chốt để
xác định thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn, nhiều ý kiến cho rằng, so với tiểu thuyết,
truyện ngắn thường đề cập những đề tài có tính thời sự nóng hổi và thuộc về cuộc
sống hàng ngày của con người, nội dung truyện ngắn đơn giản hơn, thường chỉ có
một chủ đề, ít nhân vật hơn, cốt truyện ít phức tạp và thường chỉ là một mặt cắt
hay một khúc, một khoảnh khắc nào đó của cuộc đời nhân vật
Dẫu chưa đi đến được một sự thống nhất về định nghĩa nhưng phần lớn các
nhà văn và các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng, truyện ngắn là một hình thức tự sự
cỡ nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một vài biến cố trong đời sống nhân
vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, một khía cạnh nào đó của vấn
đề xã hội. Truyện ngắn có tính “quy định” về dung lượng, cốt truyện, nghệ thuật
xây dựng và khắc họa tính cách nhân vật cũng như nhiều đặc điểm khác về thời
gian, không gian, biến cố, chi tiết nghệ thuật.
Trong phạm vi luận văn này, người viết không có ý định đi tìm kiếm hay
khẳng định một định nghĩa “chuẩn” về thể loại truyện ngắn cũng như không có
tham vọng xây dựng khung đặc điểm về thể loại văn học này. Để khảo sát phong
cách truyện ngắn không nhất thiết phải có sự nhất trí về một định nghĩa truyện ngắn
ứng cho mọi trường hợp trong thực tế văn học. Điều quan trọng là xác định đâu là
những bình diện quan trọng nhất xét về mặt thể loại của truyện ngắn mà các phong
cách truyện ngắn khác nhau đều bộc lộ những đặc trưng cơ bản. Những bình diện

này, một mặt phải là chung cho các loại truyện ngắn- nói như Vương Mông (Trung

21
Quốc) là những "linh kiện" không thể thiếu của cơ chế truyện ngắn, đồng thời là
nơi các phong cách truyện ngắn khác nhau thể hiện những sáng tạo độc đáo nhất.
Do vậy, xuất phát từ việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn dưới góc
độ thể loại nên theo người viết, luận văn tập trung vào những bình diện cơ bản sau
của truyện ngắn để khảo sát phong cách nghệ thuật nhà văn:
- Khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật: cảm quan về thế giới và con người
- Sự sáng tạo tình huống truyện:
- Kết cấu truyện, cách mở đầu, kết thúc
- Nhân vật truyện
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ.
Một mặt, người viết cho rằng, 6 bình diện trên tuy chưa bao quát được đầy
đủ các vấn đề của phong cách truyện ngắn nhưng đó là 6 bình diện cơ bản nhất, mà
trong khuôn khổ của 1 luận văn, cần phải xác định một giới hạn tương đối. Với lại,
không phải ở một phong cách nhà văn nào cũng có những sáng tạo độc đáo và bình
quân ở cả 6 bình diện trên. Chính vì vậy, luận văn này sẽ đi theo hướng phân tích
bám vào các bình diện của phong cách nghệ thuật truyện ngắn nhưng có sự nhấn,
lướt tùy theo đặc điểm mỗi tác phẩm, mỗi giai đoạn sáng tác.

3. Các giai đoạn sáng tác truyện ngắn Nguyễn Khải
3.1. Tiểu sử - sự nghiệp
Nguyễn Khải sinh ngày 3 tháng 12 năm 1930 trong một gia đình quan lại
nghèo, đã sa sút ở Hà Nội. Trong gia đình, thân phận của mẹ con ông là thân phận
của vợ lẽ – con thêm. Tuổi thơ Nguyễn Khải trải qua nhiều phen khốn nhục, sống
trong sự ghẻ lạnh, khinh bỉ của gia đình, họ hàng, thậm chí của cả người cha đẻ ra
mình. Từ lúc bé đến 15 tuổi, Nguyễn Khải chưa một lần dám nhìn thẳng vào mặt
cha mà lúc nào cũng khúm núm, len lén, sợ hãi như một kẻ có tội.


22
Nguồn gốc nhà quan, nhưng chỉ là một ông quan tri huyện đã hết thời nên
chẳng thể cứu giúp được gì cho cuộc sống khốn quẫn của ba mẹ con ông thoát khỏi
cảnh đói nghèo. Nguyễn Khải sớm phải lăn lộn, quăng quật giữa đời để kiếm sống,
nuôi mẹ và nuôi em. Có thể nói, chính những trải nghiệm cay đắng thời niên thiếu
đầy éo le, tủi nhục khiến cho cuộc đời cũng như văn chương của ông từ sớm đã có
những đặc điểm riêng. Đó là sự già dặn, hiểu người, hiểu đời; là sự khôn ngoan, sắc
cạnh, tỉnh táo; là sự nhẫn nhịn, là yêu ghét, khinh trọng, thậm chí có cả sự kiêu
ngạo, tự phụ ở trong đấy. Và cũng từ sớm, ông đã có được một giọng văn trải đời…
Năm 17 tuổi, Nguyễn Khải cùng mẹ và em về thị xã Hưng Yên sống với gia
đình một người họ hàng bên ngoại. Ở đây, ông đã tham gia đội dân quân Hưng
Yên. Năm 1949, nhờ có bài viết cho tờ báo Dân quân Hưng Yên mà ông đã được
điều lên làm phóng viên cho tờ báo này. Đến năm 1956, ông chuyển hẳn về công
tác tại Sinh hoạt văn nghệ của Tổng cục chính trị (từ năm 1957 là Tạp chí Văn nghệ
Quân đội). Cuộc đời viết báo, viết văn của Nguyễn Khải bắt đầu từ đó.
Khác với nhiều cây bút trẻ hiện nay bước vào làng văn một cách khá ồn ào
với nhiều thành công ngay từ lúc đầu làm xôn xao dư luận nhưng rồi sau đó chìm
dần và mờ đi, có khi mất hút trước con mắt dõi theo và trông chờ của công chúng,
Nguyễn Khải bắt đầu con đường nghệ thuật của mình tương đối lặng lẽ mà hầu như
không có gì đặc sắc. Tuy nhiên, ngòi bút của nhà văn chiến sĩ này càng viết càng
càng tỏ ra sắc sảo, càng viết càng tỏ ra say mê.
Bắt đầu từ Xung đột (1957), tác phẩm gây được sự chú ý đầu tiên, ông liên
tiếp cho ra đời nhiều tác phẩm khác, đủ để khẳng định vị trí của mình trong nền văn
học đương đại Việt Nam trước con mắt ngạc nhiên của bao nhiêu bạn bè và đồng
nghiệp: Mùa lạc (1960), Xung đột phần II (1962), Một chặng đường (1962), Hãy đi
xa hơn nữa (1963), Người trở về (1964), Họ sống và chiến đấu (1966), Hoà Vang
(1967), Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chủ tịch Huyện (1972), Chiến sĩ
(1973), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976), Cách mạng (1978), Cha và con


23
và…(1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời gian của người (1985), Điều tra về một
cái chết (1986), Vòng sóng đến vô cùng (1987), Một cõi nhân gian bé tí (1989),
Một người Hà Nội (1990), Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (1993), Một thời
gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995-2001), Chuyện nghề (1999), Sống ở đời
(2002), Thượng đế thì cười(2003)…
Về quan điểm nghệ thuật, là một nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Khải có được một
quan niệm hết sức đúng đắn về vai trò, sứ mệnh của văn học nghệ thuật. Ông là
người rất có ý thức trong việc dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu, phục vụ sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và góp phần xây dựng cuộc sống mới. Điều đó trước
hết thể hiện ở việc, ông luôn là người đi tiên phong, tìm đến những vùng đất nóng
bỏng, hiện thực đầy sôi động của đất nước, những miền đất tự bản thân nó đã là
một hoàn cảnh điển hình, có sức khái quát hoá cao. Trong giới văn nghệ sĩ, ông nổi
tiếng là một người chịu khó đi thực tế. Một vùng nông thôn công giáo toàn tòng,
một nông trường Điện Biên ở miền Tây Bắc xa xôi, một hợp tác xã tiên tiến, một
hòn đảo anh hùng, kiên cường trong chiến tranh phá hoại…miệt mài đi và miệt mài
viết. Nhờ thế, lúc nào Nguyễn Khải cũng như đang sống giữa dòng thác cuộc đời
và ngòi bút của ông trở nên thiết thực và đầy tinh thần trách nhiệm với cuộc sống.
Tác phẩm đầu tiên báo hiệu sự xuất hiện của “một phong cách văn xuôi hiện
thực tỉnh táo” [10, tr.483]. của Nguyễn Khải chính là tác phẩm Xung đột. Đó là kết
quả của một chuyến đi xâm nhập thực tế của nhà văn về vùng đạo gốc thuộc huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Với một nhãn quan chính trị nhạy bén, nhà văn đã ghi lại
cuộc đấu tranh quyết liệt của cán bộ, bộ đội và nhân dân ta chống lại bọn phản
động, đội lốt tôn giáo nổi lên chống phá cách mạng ở một xóm đạo. Có thể xem,
Xung đột là bước khởi đầu thành công và “mãi mãi là một đỉnh cao trong sáng tác
của Nguyễn Khải, mà mỗi khi nhớ tới, người ta phải kính trọng” [42, tr.105]. Tiếp
theo Xung đột là hàng loạt thành công khác của Nguyễn Khải viết về những vấn đề
thời sự của cuộc đấu tranh giữa hai con đường để tiến lên CNXH ở miền Bắc như

24

Mùa lạc, Đứa con nuôi, Người trở về, Tầm nhìn xa, Chuyện người tổ trưởng máy
kéo, Anh đội phó và người thợ mộc, Hãy đi xa hơn nữa…
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá Miền Bắc, Nguyễn Khải đã có mặt ở
những nơi nóng bỏng của cuộc chiến đấu. Đến với các chiến sĩ ở đảo Cồn Cỏ – vị
trí đầu sóng ngọn gió, Nguyễn Khải cho ra đời thiên kí sự Họ sống và chiến đấu.
Nhà văn đi sâu miêu tả những chiến công và hành động dũng cảm của một đội ngũ
đông đảo những con người đẹp và anh hùng đến kì diệu. Đến với những chiến sĩ
công binh ở Trường Sơn, ông viết Đường trong mây - phát hiện ra sức mạnh thần
kì của con người trong khó khăn “Tình cảm con người ta ghê gớm thật, nó nghiêng
về phía nào, toàn bộ tình cảm trút về phía ấy” (lời của Thịnh); vào đất lửa Vĩnh
Linh, ông viết Ra đảo; đi chiến dịch đường 9 Nam Lào ông viết Chiến sĩ; tham gia
chiến dịch giải phóng miền Nam, viết Tháng ba ở Tây Nguyên. Có thể nói, hiện
thực của cuộc chiến tranh đầy sôi động, căng thẳng, quyết liệt mà “Tự nó đã là một
thiên anh hùng ca cảm động nhất, giàu màu sắc lãng mạn nhất” (Nguyễn Khải) đã
là đôi cánh để nâng những tác phẩm thời kì này của Nguyễn Khải lên tầm vóc lớn
lao của cả dân tộc và lịch sử.
Hòa mình trong cái âm hưởng hào hùng của cả dân tộc, hòa mình trong cái
khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân ta, những sáng tác của Nguyễn Khải là
những thiên anh hùng ca ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi những
con người sống có lí tưởng vì độc lập và chủ nghĩa xã hội. Những năm tháng này,
Nguyễn Khải – nhà văn - đã sống như một chiến sĩ chân chính trước sứ mệnh cao
cả vì độc lập tự do của dân tộc, đã đem toàn bộ tâm lực và ngòi bút của mình phục
vụ cho nhiệm vụ cách mạng gian khổ mà thiêng liêng.
Từ sau chiến thắng 1975, đất nước thống nhất, Nguyễn Khải lại tìm đến một
hiện thực hoàn toàn mới mẻ – hiện thực cuộc sống miền Nam sau giải phóng. Các
tác phẩm: Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người giúp ông khám phá

×