Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.34 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





ĐỖ THỊ HẢI

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN
TỪ NGUYÊN TĨNH




NGÀNH : VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỎA DIỆU THÚY











Hà Nội - 2010


4


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
PHẦNMỞĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài: 6
2. Lịch sử vấn đề: 6
3. Mục tiêu nghiên cứu: 9
4. Đối tƣợng và phạm vinghiên cứu: 10
5. Phƣơng phánghiên cứu: 10
6. Cấu trúc của luận văn: 11
PHẦN NỘI DUNGChƣơng một: Truyện ngắn từ nguyên tĩnh - Một không gian
xứ Thanh đậm nét……………………………………………………………….12
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh “làng tôi” của tác giả 12
1.1.1. “Làng tôi” với những hiện thực bi hài trong quá khứ 12
1.1.2. “Làng tôi” trong thời mở cửa 18
1.2. Một Xứ Thanh kiên cường bất khuất qua hình ảnhHàm Rồng 25

1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ 25
1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang,bất khuất 27
Chƣơng hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong
phú 34
2.1. Nhân vật tư tưởng 34
2.2. Nhân vật số phận 41
2.3. Nhân vật loại hình 45
2.3.1. Nhân vật người tốt 45
2.3.2. Nhân vậtngười xấu 52
2.4. Nhân vật tính cách 57
2.4.1. Kiểu tính cách “lưỡng hóa” 58
2.4.2. Kiểu tính cách “tự nhiên bản thể” 60
Chƣơng ba: Một số đặc điểm ở phƣơng diện trần thuật
64
3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt 64

5
3.1.1. Điểm nhìn gián tiếp 64
3.1.2. Điểm nhìn trực tiếp 66
3.1.3. Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửagián tiếp 68
3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo để dẫn dắt và kết nối mạch truyện 71
3.2.1. Khai thác đề tài dân gian để tạo dựng cốt truyện kỳ ảo 71
3.2.2. Sử dụng tình tiế, chi tiết hoang đường, kì ảo làm hạt nhân của tứ truyện 72
3.3. Giọng điệu trần thuật đa giọng 74
3.3.1. Giọng nghiêm cẩn, cung kính 74
3.3.2. Giọng ngợi ca 75
3.3.3. Giọng khách quan, lạnh lùng 76
3.3.4. Giọng cảm thông, chia sẻ 78
3.3.5. Giọng hài hước, châm biếm 78
3.3.6. Giọng giễu nhại 79

PHẦN KẾT
LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83


















6


A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:
Luận văn được hình thành từ những lý do sau:
Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn xứ Thanh với đúng nghĩa của cách gọi ấy: ông sinh
ra và lớn lên ở xứ Thanh, vào bộ đội thì trở thành anh lính Hàm Rồng. Trừ mấy năm

được “mài đũng quần” trên ghế của giảng đường khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng
hợp rồi lại trở về với mảnh đất đã sinh thành và chắp cánh cho ông trở thành nhà văn
như bây giờ. Đó là lí do khiến phần lớn sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh đều lấy cảm
hứng từ xứ Thanh, đậm đặc không gian xứ Thanh, thấm đẫm tâm hồn tính cách xứ
Thanh. Ở một mức độ nào đó muốn tìm hiểu về con người và mảnh đất Thanh Hóa
giai đọan hiện đại có thể tìm đến sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh như một địa chỉ đáng
tin cậy.
Từ Nguyên Tĩnh vẫn luôn nhận mình là nhà văn tỉnh lẻ, nhưng “nhà văn tỉnh
lẻ” này trong ngót ba mươi năm cầm bút đã cho ra mắt 6 tập truyện ngắn, 4 tiểu
thuyết, 2 tập thơ và một trường ca. Tuy nhiên, nghệ thuật không quen đo đếm ở số
lượng, tác phẩm của Từ Nguyên Tĩnh cũng đã được nhận nhiều giải thưởng văn
chương.
Truyện ngắn dường như là thể loại gắn bó suốt đời của cây bút này: sáng tác
đầu tay là truyện ngắn, đỉnh cao thành công của sự nghiệp sáng tác là truyện ngắn và
hình như cứ vài năm lại đều đặn cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn. Tập Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh – NXB Công an nhân dân, 2006 cho thấy truyện ngắn là nơi
tập trung “cái hồn, cái tạng của nhà văn”.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, luận văn nhằm
hướng tới tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một tác giả tiêu biểu, có đóng góp cho sự
phát triển của một vùng văn học nói riêng, nền văn học Việt Nam nói chung.
Hiện nay trong chương trình ở các cấp phổ thông và đại học đã đưa nội dung
giới thiệu tác giả và tác phẩm văn học địa phương vào giảng dạy. Luận văn nghiên cứu

7
một tác giả địa phương nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, học tập và góp phần xây
dựng chương trình này.
2. Lịch sử vấn đề:
Từ Nguyên Tĩnh từng đoạt nhiều giải thưởng văn chương, vì vậy, tác phẩm của
ông đã thu hút được sự quan tâm độc giả trong đó có giới phê bình, nghiên cứu. Là
cây bút xông xáo trên nhiều thể loại nên số lượng bài viết về tác phẩm ông cũng không

ít. Theo thống kê của chúng tôi, những bài viết phần lớn tập trung cho mảng truyện
ngắn, với hai hướng nghiên cứu sau:
Hướng nghiên cứu thứ nhất, tập trung vào một truyện hoặc một tập truyện cụ
thể. ở hướng nghiên cứu này, thường là các bài phê bình, cảm nhận về một truyện nào
đó được giải hoặc có sự độc đáo, thú vị, cũng có thể nhân một tuyển tập truyện ngắn
của tác giả ra mắt bạn đọc. Chẳng hạn, bài viết “Từ Nguyên Tĩnh qua truyện ngắn
Người tình của cha” của Nguyễn Minh Khiêm - Báo Văn hóa Thông tin số 31-32(918-
919) ngày21/6/2007. Theo Nguyễn Minh Khiêm, truyện ngắn Người tình của cha: “là
một tác phẩm có sức lôi cuốn và ám ảnh ( ) Cái tầm văn hóa dân tộc, cái đặc trưng
nhất của người Việt được thẩm thấu trọn vẹn qua Người tình của cha ”. Khi tập
truyện ngắn “Mối tình chàng Lung mù” ra mắt đã nhận được sự hưởng ứng của độc
giả.
Đáng chú ý hơn cả là ba bài viết của các tác giả: Bùi Việt Thắng, Văn Đắc và
Nguyễn Văn Lưu. Bùi Việt Thắng trong “Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992” in trên báo Văn nghệ quân đội tháng 12/1993, cảm
nhận rằng trong “Mối tình chàng Lung mù” Từ Nguyên Tĩnh đã “viết bằng cả tấm
lòng, cả bầu tâm sự muốn dốc hết và chia sẻ với mọi người những suy ngẫm của mình
trước con người( ) Truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh cuốn hút người đọc nhờ lối kể
chuyện nửa thực nửa hư, bàng bạc màu sắc huyền thoại cổ tích ”. Văn Đắc trong
“Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992” in trên
báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số 25(1745) thứ 7 ngày 19/6/1993 thì tâm đắc
với cách kể chuyện “ngắn về lời mà thật dài về thân phận, kể, ngẫm mãi không dứt.
Truyện như thế là có dư vị”. Nguyễn Văn Lưu trong “ Nhìn cuộc đời nhân ái - về tập
truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù” in trên báo Nhân Dân thứ 7, ngày 1/8/1993 thì
bị lôi cuốn bởi “cách viết trầm tĩnh và cái nhìn nhân ái về cuộc đời” của tập truyện.

8
Tuy nhiên, như đã nói, những bài viết trên đây mới là những ý kiến nhận xét
bước đầu, những cảm nhận, đánh giá khái quát chứ chưa đi sâu khảo sát, nghiên cứu
phân tích. Song đó cũng là những ý kiến bổ ích cho đề tài của chúng tôi.

Hướng nghiên cứu khái quát:
ở hướng nghiên cứu này có hai dạng: thứ nhất, nghiên cứu bao quát toàn bộ tác
phẩm của tác giả, như bài viết: “Cây bút xứ Thanh” của tác giả Bùi Việt Thắng in trên
báo Văn Hóa Thanh Hóa số 383, 7/1998. Trong khuôn khổ của một bài báo mà đưa ra
ý kiến về tất cả các thể loại thì chỉ có thể là những nhận xét bước đầu hoặc những cảm
nhận khái quát, chẳng hạn “Từ Nguyên Tĩnh viết cả ký, tiểu thuyết và truyện ngắn,
nhưng dĩ nhiên người đọc vẫn nhớ anh là một nhà văn viết truyện ngắn rất có duyên
hiện nay góp phần làm khởi sắc thể loại “nhỏ” vốn có truyền thống và thành tựu
trong nền văn học dân tộc, đặc biệt ở thế kỉ XX”.
Tác giả Đỗ Văn Phác trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh (Nhân đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh– NXB Công an nhân dân, năm
2006)” in trên tạp chí Xứ Thanh tháng 8/2007 thì cảm nhận được nội dung cụ thể của
một số truyện ngắn tiêu biểu và phần nào phát hiện ra bút pháp nghệ thuật của nhà
văn.
Đáng kể hơn cả là một số bài viết đã đi sâu nghiên cứu về một phương diện
nào đó của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, như : “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh” in trên tạp chí Xứ Thanh số 323, 5/2008; “Về yếu tố huyền thoại kì
ảo trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh” ” in trên tạp chí Xứ Thanh 8/2008, và “Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh- món nợ làng quê” (Đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, NXB
Công an ND, 2006 ) in trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 148, 5/2007 của
TS Hỏa Diệu Thúy. Theo TS Hỏa Diệu Thúy, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh “đa dạng về tính cách, phức tạp trong tâm hồn”; ấn tượng nhất trong
nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là yếu tố “huyền thoại kì ảo”; cũng theo TS
Hỏa Diệu Thúy, quê hương là nỗi ám ảnh lớn nhất của Từ Nguyên Tĩnh, nỗi ám ảnh
ấy như trở thành “món nợ” trong xúc cảm nghệ thuật của ông.
Tác giả Mạnh Lê trong bài viết “Mấy đặc sắc truyện ngắn Từ NguyênTĩnh”
trên tạp chí Xứ Thanh số 45 cũng đã cảm nhận về truyện ngắn của ông: “ quả là văn
anh có nguồn mạch. Cái mạch nguồn dễ nhận ra trước mắt là sắc thái một vùng quê”.

9

Tác giả cũng nhấn mạnh nét đặc sắc truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là truyện đậm chất
triết lí và “yếu tố huyền ảo”.
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh cũng đã thu hút được sự chú ý của sinh viên đại
học. Chẳng hạn, sinh viên Hứa Linh Phương K44 Báo Chí- Trường Đại học
KHXH&NV Hà Nội có bài viết “Những câu chuyện Hàm Rồng và cái nhìn nhân ái”
(Về tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù – Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992).
Một công trình dài hơi hơn là khóa luận tốt nghiệp của Huỳnh Sơn- sinh viên
Đại học Huế với tên gọi “Bản sắc nghệ thuật Từ Nguyên Tĩnh”. Khóa luận có 3
chương: Chương một: “Từ Nguyên Tĩnh và truyện ngắn”, ở chương này tác giả lí luận
chung về truyện ngắn và giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm; Chương hai “Nội dung
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh”. Như tên chương đã gợi ra, tác giả tìm hiểu nội dung
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh ở các nội dung cụ thể sau: “Mỗi truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh là một tấm lòng, một nỗi niềm tâm sự, một ước vọng và khát khao riêng”, đó là
“sự chiêm nghiệm về số phận của con người” ;và Chương ba “Nghệ thuật truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh”. Về nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, khóa luận đưa ra
nhận xét như sau: Mỗi câu chuyện của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là một sự chiêm
nghiệm về số phận của con người, là sự “liên tưởng, hồi tưởng đan xen qúa khứ, hiện
tại, tương lai”.
Tuy nhiên trong khoá luận, Huỳnh Sơn chủ yếu đi vào lí thuyết chung về thể
loại truyện ngắn và phân tích nội dung một số truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh. Các ý
triển khai có sự lặp lại ở các chương chứ chưa phát hiện ra những ý mới. Nhìn chung,
trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, Huỳnh Sơn chưa đưa ra được những ý
kiến có chiều sâu bàn bạc, nghiên cứu.
Như vậy, nhìn chung, các bài viết, kể cả khóa luận tốt nghiệp của Huỳnh Sơn
cũng mới dừng ở “bước đầu tìm hiểu”, hoặc “nhân đọc” hoặc chỉ đi sâu vào một
phương diện nào đó của tác phẩm chứ chưa nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện
toàn bộ thế giới nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Các bài viết trên tuy đã cho
chúng tôi những gợi ý quý báu song chúng tôi nhận thấy nguồn tư liệu đánh giá về
truyện ngắn của ông là khá phong phú tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về thế giới nghệ thuật truyện ngắn

Từ Nguyên Tĩnh. Chúng tôi coi đó là chỗ còn bỏ ngỏ để đặt vấn đề nghiên cứu.

10
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn hướng tới tìm hiểu, nhận diện thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh, từ đó nhằm tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn đồng thời
chỉ ra nét đặc trưng riêng của một nhà văn gắn bó với địa phương, vì vậy tác phẩm
mang sắc thái địa phương rõ nét.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Quan niệm về đề tài: Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi chủ biên- NXB Giáo dục, năm 2000, “Thế giới nghệ
thuật” là “một thế giới riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng”; Thế giới
nghệ thuật có “không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ
xã hội riêng, quan niệm đạo đức thang bậc giá trị riêng”; Mỗi thế giới nghệ thuật “ứng
với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới”. Thế giới nghệ thuật
giúp ta “hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội
nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của
nghệ sĩ”.
Xét theo quan niệm trên, Từ Nguyên Tĩnh quả đã tạo ra được một thế giới nghệ
thuật riêng trong các sáng truyện ngắn của mình. Thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với
mảnh đất và con người xứ Thanh được lọc qua lăng kính của một người con xứ Thanh.
- Phạm vi và cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Thế giới nghệ thuật”
trong các sáng tác truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống. Nghiên cứu toàn bộ toàn bộ sáng tác truyện ngắn của
một nhà văn rất cần tới những thống kê, phân loại. Phương pháp hệ thống giỳp cho việc
phỏt hiện ra hạt nhõn lụ gớc tạo nờn tớnh khu biệt của loại hỡnh thể loại, từ đó xác định
rõ đối tượng nghiên cứu, khảo sát.
- Phương pháp loại hình. Đề tài tập trung khảo sát nghiên cứu một thể loại là

truyện ngắn vì vậy cần tới những thao tác của phương pháp loại hình.
- Luận văn cũng sẽ sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp phân
tích văn học, phương pháp so sánh văn học hoặc phối hợp một số phương pháp nghiên
cứu liên ngành.

11
- Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn đương đại, cho nên trong khi giải quyết đề tài,
chúng tôi có thể sử dụng phương pháp phỏng vấn để làm sáng rõ đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của luận văn sẽ được kết cấu thành
ba chương:
Chương một: Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, một không gian Xứ Thanh đậm
nét
Chương hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú
Chương ba: Một số đặc điểm ở phương diện trần thuật
























12
NỘI DUNG
Chƣơng một
TRUYỆN NGẮN TỪ NGUYÊN TĨNH, MỘT KHÔNG GIAN
XỨ THANH ĐẬM NÉT
Là một trong những cây bút khi đã thành danh rồi vẫn bám trụ tại mảnh đất quê
nhà, phải chăng đó chính là lí do khiến không gian nghệ thuật chính trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh là không gian xứ Thanh, là con người và cuộc sống của mảnh đất
miền trung nắng gió mặn mòi.
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh “làng tôi” của tác giả
Từ Nguyên Tĩnh sinh ra ở làng Bàn Thạch, xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía tây tính theo đường chim bay.
Đó là một làng thuần nông “ít học, chỉ thích cày ruộng, quanh quẩn với vài sào ruộng
hoặc cày thuê cuốc mướn.”. Một vùng đất bán sơn địa, song có lẽ là mạch đất hưng
vượng nên “sinh ra cả anh hùng và thi sĩ”. Đây là quê hương của hai bậc anh hùng hào
kiệt có công sáng lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc: Lê Hoàn và Lê Lợi;
cũng là nơi phát tích nghề ca công. Mảnh đất giàu trầm tích văn hoá này trở thành
nguồn cảm hứng dồi dào cho các sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh.
1.1.1. “Làng tôi” với những hiện thực bi hài trong quá khứ
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh có một mảng lớn về hiện thực nông thôn và nông
thôn ấy chủ yếu là sự việc và con người của quê hương tác giả. Có nhà nghiên cứu đã
nhận xét rằng Từ Nguyên Tĩnh đã “mượn ô cửa làng mình để nhìn ra thế giới”. Từ

làng Bàn Thạch trong thực tế, vào đến tác phẩm lúc thì vẫn là làng Bàn Thạch, lúc lại
trở thành làng La Đá Hạ. Với không gian làng mình, Từ Nguyên Tĩnh đã tái hiện bức
tranh nông thôn xứ Thanh sống động đủ những cung bậc bi hài.
Hãy bắt đầu bằng truyện ngắn “Kiếp người”. “Kiếp người” lấy cảm hứng từ
hiện thực sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp đến là cuộc cải cách ruộng đất vào
những năm 50, 60 của thế kỉ trước ngay ở chính làng quê của tác giả, “làng tôi”, thậm
chí là câu chuyện của chính gia đình “tôi” – tác giả. Những vui buồn của những năm
tháng ấy dường như không thể nguôi ngoai trong cảm xúc của những người trong
cuộc. Qua câu chuyện của chị Kén- nhân vật trong truyện cũng là “chị ruột” của nhân
vật người kể chuyện, hiện lên cuộc sống và không khí nông thôn xứ Thanh một thời.

13
“Năm 1945 chị Kén tôi mười sáu. Cùng lũ gái làng ra đình Bàn Thạch xem
nghĩa quân cách mạng về cướp chính quyền Nam Triều”. Sau đó là những ngày tháng
sôi nổi của một nông thôn hừng hực khí thế cách mạng. “Chị tôi vào thanh niên cứu
quốc, đi “một hai” tập võ bị. Cha mẹ tôi vui lắm. Chị Kén đã thành cách mạng rồi.”
[33; 135]
“Chị Kén tôi” đẹp nức tiếng trong vùng, “mặt tròn như vành trăng, da trắng, tóc
dài. Trời sao lại cho nhà tôi. Bây giờ những người còn sống cùng tuổi chị vẫn kể lại.
Trầm trồ khen chị đẹp.” Chị đã lọt mắt xanh người cưỡi bạch mã về làng tước ấn tín
của bọn cường hào địa chủ - anh Lượng. “Nhà tôi vinh dự có con rể làm lãnh đạo cách
mạng. Đám cưới của chị Kén và anh câu Lượng nổi tiếng cả một vùng”.
Cải cách đến, bỗng dưng anh câu Lượng bị bắt, bị qui là phản động: “làm người
cách mạng nằm bờ nằm bụi mà dám lấy con nhà bóc lột làng Bàn Thạch, mà tổng
Cương Thạch này ai lạ gì con cháu cố Cửu. Ruộng đất của ông ta bằng cả hồ làng Bàn
Thạch”. Chả là, “ông bà tôi vốn giàu có, cũng từ chuyện chân lấm tay bùn” mà nức
tiếng tốt bụng của làng Bàn Thạch. “Có năm làng mất mùa, đã lấy lúa của nhà giúp
làng nộp thuế”. Song, giàu khi ấy là một “tội”, trở thành mầm họa. Máy bay Đa-cô-ta
của Pháp oanh tạc chợ Rạng, cầu Quần Kênh được nghi là có “chỉ điểm”. Anh Câu
Lượng “bị li khai khỏi tổ chức”, “không hiểu có bị tra tấn không nhưng người anh

còm rom và mắc bệnh ho lao”. “Xưa làng xã tung hô anh bao nhiêu thì thì bây giờ tẩy
chay phỉ nhổ: “Cái quân phản động ấy dây vào làm gì chắc là bị tra tấn trong tù
không chịu nổi khai ra Mà phải lắm đấy Nó lại lấy con cái nhà giàu ”. “Người ta
quên đi công lao thầy mẹ tôi, chị Kén mua vàng , hiến của cho cách mạng. Họ cũng
chẳng cần biết bom đạn và tai biến nhắm vào gia đình tàn tạ ” [33, 139]
Đó là không khí của những năm cải cách ruộng đất với những chính sách bắt
nguồn từ tư duy ấu trĩ, cực đoan mà ngay sau đó Đảng ta đã nhận ra sai lầm. Cái ấu trĩ,
thiển cận của một thời khiến con người ta không quan tâm đến ngọn nguồn của sự việc
để xem xét đánh giá, yêu và ghét một cách hồn nhiên theo cảm tính dẫn đến những
oan sai cho bao số phận. Chị Kén “tôi” từ ngày ấy chìm nổi, ngụp lặn trong cuộc sống
bi đát nhất, bị hạ nhục, bị dày vò, chị trở thành nạn nhân của sự sai lầm trong tư duy
ấu trĩ. Tác giả không giấu nổi sự xót xa cho thân phận người chị khốn khổ chân yếu
tay mềm bị vùi dập tức tưởi: “…bó chị vào manh chiếu rách nát, khênh chị ra Mã

14
Tiền. Chị không tưởng tượng nổi được mình ra đi lại khốn khổ như thế này. Chị từng
đẹp một thời. Ai nhìn đến chị thảy đều giật mình, cùng một kiếp người…Chị ra Mã
Tiền không kèn trống, áo quan. Con Tấn khóc như xé vải: Mẹ ơi! Mẹ ơi”[33, 150].
Qua câu chuyện về người chị gái, câu chuyện về làng Bàn Thạch, Từ Nguyên Tĩnh đã
dựng lại không khí của những năm tháng ấy trên mảnh đất xứ Thanh. Nỗi đau không
hề nhỏ, những mất mát xuất phát từ những sai lầm, song dẫu sao, khí thế cách mạng
đang hừng hực khi đó đã cuốn đi tất cả.
Truyện Gã nhà quê lại là câu chuyện về một kiếp người khác, kiếp của lão Cao,
lão già cô độc chột một mắt để lại cho tác giả nhiều ấn tượng nhất mỗi khi nhớ về làng
mình hay nếu có ai nhắc đến hai chữ “nhà quê”. Chuyện về cuộc đời lão Cao làm nghề
chăn vịt, biết đủ thứ chuyện trên đời. Cuộc đời lão như một pho sử của làng. Câu
chuyện về cuộc đời lão cho ta hình dung về một nông thôn xứ Thanh ở một giai đoạn
lịch sử một đi không trở lại. “Thời ấy dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai lưng ra
làm cho bọn chánh, lý hào mục hưởng”. Câu chuyện của lão Cao với lũ trẻ đưa người
đọc trở về cái “thời ấy”, cái thời nô lệ. Lão Cao tứ cố vô thân không tấc đất cắm dùi,

đổi lại Cao khoẻ mạnh và khá lanh lợi (bằng chứng là anh ta xúi cho cường hào địa
chủ đào ao thả cá và người làng Bàn Thạch đã có một dãy ao tới vài chục mẫu). Cao
phải đi làm thuê cho địa chủ, anh chàng nghèo hèn nhưng khoẻ mạnh đã đem lòng yêu
con gái địa chủ và cũng được yêu lại. Sự việc bị phát giác, Cao bị nhà địa chủ đánh
cho gục đổ như cây chuối, lại bị làm nhục trước mặt người yêu. May nhờ có người đàn
bà tàn tật dìu về thuốc thang mới thoát chết. Nhưng tình yêu của thời trai trẻ còn mạnh
hơn cái chết. Cao rình gặp Liên và lần liều mạng này Cao phải trả giá bằng một con
mắt. Cao bị đuổi ra đám cồn hoang cắm lều chăn vịt.
Rồi những năm cải cách, những người nghèo khổ như lão Cao trở thành “yếu
nhân” trong làng. Lão Cao đã lọt vào tầm ngắm có thể làm chủ tịch xã bởi “cải cách
người ta tìm người khổ nhất làng để làm chủ tịch xã. Trong làng, lão là người “bị ăn
đòn roi của địa chủ nhiều nhất” [33; 27]. Nhưng cuối cùng lão Cao đã không được làm
chủ tịch bởi lão gây ra chuyện động trời là tiếp tế trứng vịt cho địa chủ phản động.
Câu chuyện về cuộc đời lão Cao càng tô đậm thêm bức tranh ảm đạm của
những thân phận tối tăm, bé mọn chịu nhiều áp bức đè nén trong những năm trước
cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, tác giả trở về với việc phản ánh những sai lầm, ấu trĩ

15
của một số chủ trương trong công cuộc cải cách ruộng đất, một hiện thực mà trước đây
những cây bút thường né tránh. Có thể coi đó là một thái độ dũng cảm. Những câu
chuyện của chị Kén, của lão Cao làm hiện lên bóng mây u ám của nông thôn xứ Thanh
một thời.
Truyện Họ hàng nông dân lại là một cách tiếp cận khác, tiếp cận từ cái nhìn bên
trong. Họ Công “toàn nông dân. Điều đó tỏ ra không có gì là thiệt thòi. Bốn đời là
nông dân. Thậm chí cả chục đời là nông dân”. “Điều đó đáng tự hào lắm”. Họ ấy
“đông thật… mạnh thật”. Ngày giỗ họ “các bậc bô lão ngồi ngắm con cháu ăn như dâu
tằm ăn mà không dừng lại được, đưa tay lên vuốt chòm râu”. Đã thế, dòng họ này còn
đã từng “thay nhau làm chánh, phó lý; hết cành trên lại xống cành dưới, hết cha đến
con”. Song, dòng họ này cũng có “khối chuyện buồn” và buồn nhất là “không đào đâu
ra người có chữ nghĩa”. “Mạnh và đông nhưng có nỗi buồn về thất học”. Nếu nói về

đức tính thì ông tổ họ này nổi tiếng tằn tiện. Thủa hàn vi “đi chợ tỉnh bán chanh không
dám ăn quà, uống nước sợ tốn tiền. Dọc đường đái cố nhịn bằng được về nhà mới tiểu
kẻo mất của. Còn ba cây số nhịn không nổi phải chọn một cục đất cay của người ta mà
tè, đem về”[1, 8]. Có thể nói đây là chi tiết đắt giá về tính kiệm cần của người nông
dân xứ Thanh. Nó “ngang cơ” với chi tiết ăn “cá gỗ” của người nông dân xứ Nghệ. Xứ
Thanh vốn là mảnh đất thiên nhiên hà khắc, thiên tai địch họa luôn là nỗi lo sợ đối với
người dân, vì vậy để sống được ở đây người dân phải hết sức tằn tiện và chịu khó.
Đời con, đời cháu hình như cũng kế thừa được “đức tính” ấy. Ông Thầu “có tài tần
tiện đến mức lạ lùng. Lò vôi của xã giao cho thằng cháu họ mỗi lần đi qua ông xin một
cục, một năm trời ông đã có hố vôi tôi làm được cái chuồng lợn. Người ta nói, gạch
làm bếp là do ông đi hót phân rơi ở đường nhặt về xây đủ đấy”. Họ này giàu là nhờ
tiết kiệm cùng với tính chịu thương chịu khó, thành có máu mặt ở làng. Qua những
chi tiết độc đáo trên ta thấy nó tiêu biểu cho tâm lý và cách sống tằn tiện chi li đến tội
nghiệp của một bộ phận người nông dân. Giàu do tiết kiệm, do chắt bóp. Đó là cách
vươn lên để tự khẳng định của người nông dân xứ Thanh.
Dòng họ ấy không chỉ nổi tiếng về tính tằn tiện, tiết kiệm mà cũng nổi bật về
tính háo danh. Cả họ Công đều giàu nhưng hầu hết cả họ đều buồn một nỗi là trong họ
không có ai làm quan to và con em “thiếu ăn học”, “Cái buồn làm nẫu ruột bọn choai
choai, cái buồn làm khô héo người già cả”. Con trai chú Thầu “nghe đâu đánh nhau rất

16
máu me ở Hàm Rồng suýt được phong anh hùng” nhưng lại trật lất bởi cái tính huyếnh
hoáng của chú Thầu. Chưa được đưa tin lên đài báo mà mới có anh cán bộ về thẩm tra
đã “loan tin” và “ngã ngay con lợn ra liên hoan”, lại thêm cái tội “lãng phí lương thực
phá hoại sản xuất, chống Mỹ”. Chuyện con trai chú mất anh hùng làm “cả họ tiếc ngẩn
ngơ hàng năm trời”.
Ông Thầu có niềm tha thiết “con cái có danh giá”. Ông muốn “một ngày nào đó,
chi của cành thứ hai này phải nêu danh, là trụ cột của họ này”. Vì vậy khi đứa con trai
học hàm thụ đại học của ông bị “bóng gió” là “đại học giả cày. Đại học “bia –thịt chó”
là chú cứ bực mình. Tư tưởng này lan đến cả ông Tứ thuộc “cành cuối cùng của dòng

họ” cũng muốn “họ mình phải có cán bộ chủ chốt ở xã, ông muốn tiếng nói của mình
phải vang lên trong dòng họ”. Ông Tứ cứ băn khoăn “tại sao họ này lại không có một
người làm tướng là chính ông hay con trai ông chẳng hạn”. Từ ý thức về sự kém cỏi
của họ mình, họ Công quyết định nghĩ đến sự “phương trưởng” của dòng họ để không
thua kém họ khác. Điều đó lại làm họ khác trong làng “giật mình”, họ Công “đông
lắm, không khéo phải mổ trâu bò mới đủ thức ăn. Chắc họ sẽ thuê tiền quảng áo trên ti
vi”. “Nhưng có người lại cười khẩy, họ ấy toàn nông dân cả, trừ vài liệt sĩ có ai rời
làng ra đi đâu mà quảng cáo”. Ông Thầu nghe vậy mà “sốt ruột, tiếc ngẩn ngơ, có phải
thằng cháu của họ này làm chủ tịch xã trị cho bọn nó một trận cho trắng mắt ra, quân
ngụ cư hỗn láo” [33; 15].
Bằng sự thể hiện tâm trạng ông Thầu và ông Tứ, Từ Nguyên Tĩnh đã đi vào mổ
xẻ tâm lí háo danh, thích oai oách của đại đa số người nông dân. Dù không biết chữ
nhưng bao giờ cũng muốn chứng tỏ bản thân. Mỗi dòng họ như một tập đoàn chính trị
nhỏ, luôn tự đấu tranh, họ này nhìn họ kia để giành giật quyền cai trị.
Cho đến khi ông Thầu không đạt được khát vọng, ông quay trở về với tinh thần
cào bằng, tự an ủi với lí lẽ nông dân là tất cả, là gốc rễ để an ủi cho sự thất bại đó .
Ông răn dạy con cháu về sự cố thủ làng quê của họ mình “Họ ta toàn là nông dân Bộ
ai cũng ra thành thị mà sống lắy đâu ra thóc gạo mà nuôi con người” rồi cuối cùng
cũng “cáo chết ba năm quay đầu về núi”, “đằng nào cũng thành nông dân ( ) Họ này
là nông dân, điều đó chỉ đáng tự hào mà thôi”. Ông lại nhấn mạnh “tướng tá gì ở đâu
không biết, hãy cứ về đây họ này sẽ nhuộm thành nông dân cho mà xem”. Cũng từ
cách suy nghĩ ấy, ông Tứ lại có cách cai trị dòng họ hết sức độc đoán, gia trưởng “Tôi

17
cấm ai có ý nghĩ bỏ làng, bỏ họ mà đi. Bắt chước những thằng bỏ làng hay sao? Tôi là
cấm. Họ này cấm đấy”. Đó là cái lối cai trị cực đoan, ích kỉ và gia trưởng rất tiêu biểu
cho tính cách người nông dân ở những vùng quê xa xôi, căn cốt, ít có điều kiện giao
tiếp. Ở đấy, tập tục, lề thói ngự trị hầu nhue theo quy luật “mạnh được yếu thua”.
Truyện Họ hàng nông dân phải chăng là cách Từ Nguyên Tĩnh “luận” về tính
cách người nông dân nói chung, đặc biệt là tính cách con người xứ Thanh qua cách

ông quan sát và đúc kết từ một dòng họ? Tuy nhiên, qua đó cũng cho thấy cách sống,
cách nghĩ của người nông dân xứ Thanh với những nét đặc trưng của xứ này.
Trong truyện Đứa bỏ làng lại là một hiện thực khác, một hiện thực nông thôn
lạc hậu, đời sống dân trí thấp, người dân lẩn quẩn trong đói nghèo, mê tín. Dốt nát đi
liền với nghèo đói, căn bệnh cố hữu của nông thôn Việt Nam một thời, xứ Thanh
không là ngoại lệ. Viết về thực trạng đó, nhà văn muốn gióng lên hồi chuông về vấn
đề phát triển nông thôn trước hết chính là vấn đề nâng cao dân trí: Cả làng Bàn Thạch
“trí thức” chỉ có ba người: “Bác Lung làm thầy bói, ông Lật thầy cúng và chú tôi”.
Tuy chú tôi không biết chữ “nhưng cũng nói được những lời lạ lùng”. Bác Lung thầy
bói “tiếng tăm hàng nửa thế kỉ của bác nổi như cồn. Đâu đâu người ta cũng đến xin ý
kiến bác”, từ chuyện “mất của” đến “tình duyên dang dở”, nhất là những người “mộ
lạc”. Thậm chí ông còn “bói về thời cuộc thua được của ta, ẩu đả của thế giới, luận về
Kiều”. Đã thế lại có lão Lật, “người thấp, đen sắt miệng méo làm nghề thầy cúng ủng
hộ” nên bác Lung rất “mạnh”.
Lão Lật thì lo liệu sức khỏe cho cả làng, “bọn nhóc ốm, hái lá léo không khỏi.
Cúng. Người ốm thập tử nhất sinh lập đàn cầu đảo, khỏi ngay. Động mồ động mả
cúng ăn nên làm ra”. Chính quyền xã là con cháu trong nhà, lại ít chữ thành ra người
“lo cho sinh mệnh của làng tôi là bác Lung và lão Lật thầy cúng”. Còn chú Ngũ tôi
“một chữ cắn đôi cũng không biết”, nhưng có dạo đã “làm tới chân chủ tịch xã” nhưng
“cũng chỉ nhập tâm các cuộc họp. Sau đã có máy đứa đàn em văn hoá lớp hai lớp ba
lên thay” [33; 34].Tri thức khoa học và sự văn minh là một điều xa lạ, lạc lõng ở làng
quê này.
“Trí thức” của làng thì như vậy, cán bộ xã chỉ lo ăn chơi, “ban ngày thì mấy
ông chính quyền xã điều hành- ăn uống lỉnh kỉnh, đêm về thì âm binh”, làng càng
“bại”. Điều hành cả xã không phải là bộ máy chính quyền vững mạnh, liêm khiết mà

18
chính là thầy bói Lung và lão Lật – thầy cúng. Con người làng quê tôi “nhỏ bé như
con chuột”. Chú Ngũ – tuy không biết chữ nhưng cảm nhận được điều ấy mà bất lực,
“không bác lại được những gì đã ăn sâu bén rễ trong tâm thức người dân bao đời”.

“Làng mình đất đẹp đấy cháu ạ Nhưng có con sông án ngữ mất rồi. Đứa nào vượt
qua được sông thì khá”. Ông chú giải thích cho thế hệ sau và cũng là để tự an ủi mình
bằng chính lời của thầy bói. Trong sự u mê và sợ hãi, con sông quê thành con sông
tiền định, nằm án ngữ ngăn cách làng Bàn Thạch với thế giới bền ngoài. Luỹ tre làng
cũng thành vật thiêng, thành thành luỹ vững chắc vừa bảo vệ vừa níu giữ bước chân
những con người nơi đây. “Đứa nào vượt qua được sông thì khá”. Câu nói như một lời
nguyền. Chú Ngữ cũng có khát khao vượt qua được con sông ấy để thay đổi cuộc đời
nhưng cái sợ cố hữu luôn ngăn cản khiến chú luôn bị dày vò thổn thức: “ngay chú hèn
cũng không dám đi”, bởi nếu đi sẽ thành “đứa bỏ làng – cái tiếng ấy ngày xưa là lời
chửi độc, khinh rẻ của dân làng tôi- không được làng chấp nhận, ghét bỏ phải bỏ làng
ra đi - đời chết rấp – bờ bụi ở đâu đâu…mà có khi đói kém không dám mò mặt về
làng”[31;33] . Cũng đã có người bỏ làng ra đi, nhưng phần lớn những kẻ ấy đều ra đi
với đúng nghĩa của từ ấy: “Người đầu tiên là Đỏ Vạc – vào rừng hái củi mà chết đói.
Nghe đâu cha nó cũng dắt chị dâu đi hái củi bị cọp vồ…mấy ông đi lính Pháp, đi Tân
thế giới ở luôn bên đó nên danh nên giá. Mấy chú vào đồn điền cao su. Mấy anh chàng
đi chém thuê vì chẳng có nghề nghiệp và cái lá lót ruột…[33;33]. Bị những tập quán,
phong tục từ nghìn đời trói buộc, lại thiếu kiến thức khoa học, người dân nơi đây lẩn
quẩn trong đói nghèo, trong sợ hãi và bất lực.
Làng Bàn Thạch trong quá khứ qua những trang viết của Từ Nguyên Tĩnh thật u
buồn. Đó cũng là sự u buồn của một thời. Bằng quan điểm đổi mới trong cách nhìn
hiện thực, tác giả đã cho người đọc tiếp cận với “hiện thực mặt trái”, “hiện thực khuất
lấp” của một thời. Dưới cái nhìn ấy, thực tiễn hiện ra với những cung bậc bi hài. Sự
nghèo khổ, bị áp bức dài lâu, lại thêm chiến tranh liên miên, người nông dân trong mỗi
làng quê Việt Nam phải gồng mình để chịu đựng và tồn tại. Có cái gì đó thật xa xót
khi nhìn lại những tháng năm ấy. Chân thực và sống động, Từ Nguyên Tĩnh đã cho
người đọc cảm nhận hình ảnh nông thôn xứ Thanh một thời qua cửa sổ “làng tôi”.
1.1.2. “Làng tôi” trong thời mở cửa

19
Năm 1986, chủ trương thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã đem đếm cho

cả nước một không khí phấn khởi, hồi hởi khiến xã hội thay đổi về mọi mặt, trong đó
sự thay đổi sâu sắc nhất là đổi mới về tư duy. Người Việt Nam nói chung và người
Thanh Hoá nói riêng dần dần thoát khỏi lối tư duy làng xã để đến với văn minh đô thị.
Người dân làng Bàn Thạch của tác giả cũng đã vượt qua được “dòng sông định mệnh”
để vươn ra tự khẳng định mình. Đây cũng là một trong những chủ đề chính trong
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh được ông dành nhiều tâm huyết: “Làng tôi” đã đổi mới.
Như trên đã nói, sự thay đổi lớn nhất của “làng tôi” nói riêng, nông thôn Thanh
Hóa và mở rộng ra trong cả nước thời “mở cửa” chính là đổi mới tư tưởng, đổi mới tư
duy. Truyện “Đứa bỏ làng” cùng một lúc đã đặt ra hiện thực ấy. Chi tiết về cái chết
của chú Ngũ “treo lơ lửng trên chiếc dây thừng. Chú như muốn bay lên trời mà không
bay nổi…” như là kết cục tất yếu của sự tăm tối, bế tắc. Trong số những kẻ lần mò tìm
cách thay đổi ấy chính là “tôi”, có sự ngấm ngầm đồng tình của dòng họ “cả họ góp
cho tôi gạo thóc, tế lễ rồi cũng tốt nghiệp đại học”. Có lẽ nhờ những năm tháng trong
quân ngũ (có đến mười năm rồi lại trở về làng) mà có thêm bản lĩnh và quyết tâm thay
đổi chăng? Và “tôi” chính là đứa “bỏ làng” sớm nhất “Tôi theo vợ nhập cư vào nửa
gian nhà của ủy ban kế hoạch. Ba mươi cây số phải mất bốn chục năm mới rời được
làng đi đến cái thị xã lèo tèo, bề bộn. Tôi bùi ngùi, muốn quên đi cái khổ truyền kiếp”.
Lác đác lại có đứa bỏ làng. “Chiều nay, tôi lại có khách. Thằng cháu họ”. Sau một hồi
tâm sự, nó khóc lên hu hu: “Bác ạ, dù có phải mang tiếng là đứa bỏ làng, cháu cũng ra
đi thôi”. Quyết định “bỏ làng” chính là quyết định về tư tưởng, là sự thay đổi tư tưởng
thâm căn cố đế, đã trở thành máu thịt, tâm hồn, phong tục, lối sống của người nông
dân nơi đây. Sự thay đổi ấy khó khăn và đau đớn đến nỗi, vì nó người ta đánh đổi cả
sinh mạng. Đến đây, khái niệm “bỏ làng” đồng nghĩa với sự đổi thay, kẻ dám bỏ làng
là kẻ dám thay đổi. Và trong số những kẻ dám “bỏ làng” để học hành, để làm ăn xa ấy
đã trở về để thay đổi quê hương.
Truyện ngắn “Đứa bỏ làng” vừa thể hiện cái khó, vừa thể hiện tính tất yếu của
công cuộc đổi mới. Đối với người nông dân xứ Thanh, vùng đất cực khổ đến nghiệt
ngã, nhưng hình như, chính sự nghiệt ngã đó sẽ là tiền đề thôi thúc sự đổi thay.
Sự đổi thay bắt đầu từ những cá nhân, nhưng đổi thay có ý nghĩa nhất là sự đổi
thay của quê hương, làng xã. Từ Nguyên Tĩnh thầm thán phục những cá nhân đã góp


20
phần đổi thay quê hương. Cũng ngay trên chính làng quê của mình đã cho ông hình
mẫu để ông sáng tạo nên hình tượng con người không chỉ biết đổi mới tư duy mà còn
mang tư duy mới ấy làm thay đổi cuộc sống của bà con nơi đây: cô kỹ sư Hương Mơ.
Cô gái ấy, ngay từ những ngày đất nước còn giặc giã, ngay khi những con người của
làng Bàn Thạch còn âm u trong lũy tre làng đã dám khuyên người yêu: “Anh giỏi bắn
súng nhưng còn phải biết cầm bút, sau này đất nước cần có trí thức, không phải lúc
nào cũng đi theo con trâu và cái cày”. Biết người yêu còn nặng nợ với làng quê, cô
ngấm ngầm ghi tên cho anh đi học, buộc anh phải đi học, phải “vượt sông” rời làng.
Bản thân cô, sau khi tốt nghiệp kỹ sư, cô trở về làng và băt đầu những ngày “trả
nghĩa” cho quê hương và cũng là để thực hiện ước mơ đổi mới quê hương của mình:
“Mơ mạnh dạn đưa giống mới vào ruộng đồng quê nhà. Bao ngày trần lưng với ruộng
thí nghiệm…Không biết nàng nghe ai xui dại mà muốn giao đất cho từng hộ quản lý.
Nàng thuyết trình với Ban chủ nhiệm để từng hộ lo thì công chăm bón đỡ đi rất
nhiều. Họ có thể tranh thủ ra thăm ruộng mà không cần đến sự đốc thúc của đội sản
xuất…”. Sự đổi mới nào phải chả phải trả giá bằng mồ hôi và nước mắt. Cái bảo thủ,
khi cần sẽ cấu kết với tiêu cực để chống lại cái mới. Con đường và ước mơ đổi mới
quê hương của Hương Mơ cũng đầy chông gai. Khó khăn đến mức đôi lúc tưởng như
phải đầu hàng, ngay đến người yêu của cô, đã từng trải qua binh nghiệp vì lo lắng cho
cô cũng phải lên tiếng can ngăn, bàn lùi, chấp nhận thỏa hiệp. Nhưng Mơ thì không,
cô tin vào những điều mình làm, cô tin vào bà con, cô tin vào chân lý. Đám cưới của
cô với chính người mà trước đây đã “đổ toàn bộ lỗi lầm giống má của mấy vụ cấy chui
cấy lủi” lên đầu Hương Mơ cho thấy niềm tin của cô thật trong sáng: “Anh đừng nói
thế…Cái sai của sự ấu trĩ một thời…có thế, bây giờ anh ấy mới thương em gấp nghìn
lần…”[33; 47]. Đám cưới của cô ồn ào trong sự đông vui, cởi mở. Dân làng thể hiện
tình cảm yêu quý, kính trọng và biết ơn cô kỹ sư đã mang sức sống mới cho làng. Cô
trở thành người anh hùng của làng quê trong sự ngưỡng mộ, tự hào: “Mới đây tôi về
huyện nhà viết báo. Viết về những người anh hùng của làng quê. Chủ tịch huyện niềm
nở mới: - Anh Bùi nên viết về người làm ruộng ở Bàn Thạch. – Ai vậy? – Chị Hương

Mơ anh biết chứ ?”. Cuối truyện, ta biết thêm một nét đẹp nữa ở con người này: “Mơ
không đồng ý cho tôi viết. Nàng nói, cái chuyện làm ruộng ai chả biết”.

21
Nếu Nợ làng quê là câu chuyện về “người anh hùng làm ruộng” của làng Bàn
Thạch thì Thằng K-X lại là viết về “người anh hùng V.A.C”. Đến truyện ngắn này, sự
thay đổi của làng “tôi” đã rõ nét hơn. “Quê tôi vốn là vùng tự do( ) chuyện học hành
lại ít ai nghĩ đến” chỉ “giỏi cày bừa cấy gặt”. Vì vậy việc chú Bân có “bằng cử nhân sử
học, lại được phân công về dạy ngay ở trường cấp III huyện nhà” là một niềm vinh dự
cho cả “họ tôi” thậm chí “cả hàng xã” bởi “người có học đỗ đạt ở quê tôi thật hiếm
hoi”. Tuy nhiên bấy giờ, khó khăn là tình trạng chung của xã hội và ông giáo trường
làng uyên thâm đến đâu cũng không ngoại lệ. “Gian nhà của trường giành cho chú tím
thật chật hẹp. Ngoài giường chiếu từ thời chú thím lấy nhau đóng bằng gỗ xoan ra,
chẳng có gì đáng kể. Chỉ có giá sách là đồ sộ”. Cái tâm lí của ông giáo với một kho
kiến thức như vậy luôn háo hức được truyền thụ cho những học trò nghèo quê hương.
Vừa dạy học vừa viết báo, chú Bân rất có uy tín trong làng và được bạn văn kính nể.
Nhưng cuộc sống khốn khó của những năm bao cấp khiến chú khó chú tâm vào công
việc dạy học. Tiền nhuận bút chỉ “một vài đồng bạc”, còn thím phải “nấu rượu rải cho
các quán và nuôi lợn nái”. Cái “vất vả của cuộc đời đã làm thím không còn bóng dáng
của cô gái Hà Nội năm nào”. Là người có trình độ và niềm tin vững chắc ông giáo đi
đến quyết định táo bạo “sang năm chú về hưu non. Không thể để cho thím và các em
khổ mãi được” và dũng cảm “bán một cặp lợn tạ để mua ba-bet-ta làm nghề V.A.C.
Chú tự đi lấy phân ở các cơ quan về chăm cho cá của mình. Chú thường đi rất sớm và
về khi chưa có người đi làm”. Bằng sự cần cù dám nghĩ, dám làm mà năm ấy trời
thương “đổ của cho nhà chú. Lợn nhiều lấy phân cho cá ăn nên bán cá có bạc triệu”
[33; 413] gia đình chú thực sự đổi đời. Chú “xây nhà hai tầng ngay đầu phố huyện”,
thím thì “béo ra, trẻ lại ( ) Mái tóc uốn kiểu làn sóng càng tôn thêm vẻ đẹp duyên
dáng” còn chú “mang cặp kính trắng nom trí thức hơn thời kì chú dạy học”. Hai đứa
con gái “mặc minidíp, không cần thoa phấn mà vẫn hồng hào ”. Đặc biệt là trong nhà
của chú “điệu nhạc Lăm-ba-đa từ chiếc viđiô chảy tràn ra phố” gợi nên không khí

cuộc sống văn minh, hiện đại. Mô hình kinh tế của chú được các nhà báo muốn đến
“lấy tài liệu” để viết bài.
Có lẽ để có được một quyết định táo bạo như vậy hẳn chú Bân phải trăn trở, suy
nghĩ nhiều lắm. Nghề giáo vốn coi trọng chữ nghĩa, đề cao danh dự, vì vậy từ một ông
giáo uyên thâm đến một “thằng kà xia” suốt ngày bận rộn tính toán là cả một bước

22
chuyển quan trọng mang cả sự đau đớn, chua xót lẫn quyết tâm lớn lao. Dù xã hội vẫn
công việc của chú độc nhất vô nhị và thuộc loại “hạ đẳng”, dù người ta toàn gọi chú là
“thằng Kà- xia” và ngay cả “mẹ tôi”- người chị dâu của chú khi nói về chú cũng “quay
đi che dấu nụ cười” nhưng trong con người ấy vẫn giữ một bản lĩnh vững vàng và
niềm tin sắt đá về con đường mình đã chọn.
Thực tế của cuộc sống đòi hỏi người ta phải lựa chọn, trăn trở, suy nghĩ thiết
thực hơn, đối đầu với thực tế để thoát ra khỏi định kiến xã hội để làm mới cuộc sống.
Chú Bân đã biết tận dụng những gì của quê hương mình để làm giàu nhanh chóng và
giúp đỡ nhiều người có công ăn việc làm. Điều quan trọng không phải là làm việc gì
mà cái chính là con người biết lợi ích và ý nghĩa của công việc. Hình ảnh của chú Bân
cũng là của nhiều người dân Việt Nam thời bấy giờ. Đất nước đã qua thời kì bao cấp
mà bước sang thời kì kinh tế thị trường nhưng vẫn còn khó khăn về mọi mặt. Chất
lượng cuộc sống của nhân dân đang còn thấp, cán bộ công chức chưa thể dựa vào
đồng lương của mình để sống. Nhu cầu sinh tồn buộc nhiều người phải đưa ra những
quyết định quan trọng như chú Bân để giải phóng mình. Quan niệm “làm ruộng theo
làng” dần dần mai một. Họ giám từ bỏ những vỏ bọc cố hữu của mình để tự tin hơn,
bản lĩnh hơn, tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Họ giám thay đổi mình và sẵn
sàng chịu trách nhiệm với những thay đổi đó. Làm giàu cho mình cũng là làm giàu cho
đất nước thì những quyết định đó dù thế nào thì vẫn là một quyết định đúng đắn.
Viết về mảng đề tài này, truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh không chỉ đi sâu vào sự
tiến bộ về lĩnh vực kinh tế ở “làng tôi” mà còn thấy được sự đổi mới trong chính cuộc
sống sinh hoạt hằng ngày ở, trong quan niệm về hạnh phúc. Mùa yêu đương là một
truyện ngắn như vậy.

Làng Bàn Thạch đã thực sự thay đổi với nếp sống mới. Xưa kia người dân vốn
“đi ngủ kịp cùng gà vịt” nhưng nay điện đã về làng thì “hôm nào có bóng đá quốc tế là
tụ tập ngồi xem thấu sáng rồi ra đồng luôn”. Người nông thôn giờ đây không chỉ lo
cơm ăn áo mặc mà đã biết chú ý đến nâng cao đời sống tinh thần. Cái vất vả của nhà
nông không còn là gánh nặng số mệnh mà đã có cách nhìn lạc quan hơn “dễ dàng chấp
nhận mất mát, lo âu, thanh thản” của mùa cấy cày, coi “niềm vui và mệt mỏi” của đời
người nông dân là một phần của cuộc sống. Cái mới ở làng Bàn Thạch còn thể hiện
ngay trong việc cưới xin của người dân. Đám cưới giờ đây được phục vụ bởi “mấy gã

23
dịch vụ đám cưới” với tiếng “loa đài” rộn ràng vui vẻ. Cái bầu không khí vốn thanh
bình, yên tĩnh của làng quê nay đã nhộn lên bởi những giai điệu sôi nổi, hiện đại của
cuộc sống mới. Chỉ có những con người yêu quê, có tâm hồn nhạy cảm như Từ
Nguyên Tĩnh mới lắng nghe được âm thanh diệu kì của cuộc sống nơi đây.
Đặc biệt làm chủ làng xã bây giờ không còn là những con người như ông Thầu,
chú Ngữ nữa mà là một thế hệ mới với cách sống và tư duy hết sức mới mẻ - anh
chàng Thốn. Thốn vốn là anh chàng sinh ra và lớn lên ở làng Bàn Thạch nhưng đã có
cơ hội để “đi ra” trong mấy năm thực hiện chính sách nghĩa vụ. Rời quân ngũ anh lại
trở về làng quê làm một người nông dân với bao điều mới mẻ. Có thể nói, Thốn là
mẫu người nông dân mới ở làng quê: tự tin, cởi mở, nồng nhiệt và cả pha chút ngang
tàng. Chàng nông dân Thốn tự tin trước hết ở quyết định không cưới vợ trong làng mà
ở rất xa, xa lắc xa lơ, mãi tận trong Nam, mà cưới một cách nhẹ nhàng “đành cưới
thôi, người ta giàu cưới xin linh đình, còn mình nghèo cưới xin cũng cỗ bàn”. Mặt
khác người xưa vốn quan niệm “trâu ta ăn cỏ đồng ta” khi chọn vợ thì chàng nông dân
đặc sệt ấy lại mò vào tận Quảng Nam rước người đẹp về làm vợ. Thốn nói với người
chú ruột “cháu hồn nhiên chơi chơi lại vớ được con vợ như tiên”. Đấy là một sự dũng
cảm, liều lĩnh và cũng là cách Thốn đang cố gắng cởi trói, phá bỏ những trật tự quan
niệm cũ.
Quyết định của Thốn khiến người chú phăi băn khoăn “chết thiệt con gái nhà ai
đẹp mà lại lấy cháu tôi. Làm sao dám chui đầu vào cảnh thiếu thốn này ( ) rồi ra ai

cày cuốc mà nuôi vợ ngồi soi gương chải tóc”. Thốn lí sự lại “ Chú ơi, cháu mài cái
đẹp ra ăn đấy, chú cứ nghĩ quẩn, vợ cháu làm gì chả được, bộ nhà mình quanh đi quẩn
lại chỉ toàn bộ mặt khảo cổ thôi làm sao chịu nổi” [33; 375]. Quan niệm vợ chồng
trong tư duy của Thốn không còn là hình ảnh “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”,
người vợ bây giờ không cần đầu tắt mặt tối, lam lũ bươn chải như thân cò nơi đồng
ruộng mà có thể ở nhà để chăm lo gia đình. Đó mới chính là thiên chức lớn nhất của
người phụ nữ. Người chồng hiện đại là người có những suy nghĩ bình đẳng, dân chủ
hơn với vợ và một người đã từng đi ra, lại có lối suy nghĩ linh động như Thốn chắc
chắn sẽ là người biết tìm ra cách làm giàu để nuôi vợ con. Với Thốn cày ruộng để cho
vợ soi gương chải tóc cũng là một hạnh phúc. Thốn sẽ là một trong những người tiên
phong trong việc xây dựng một gia đình kiểu mới.

24
Mặt khác, qua chi tiết ấy đã thể hiện một quan niệm mới mẻ của người nông
dân về cái đẹp. Giờ đây họ đã biết chú ý đến cái đẹp hình thức của vợ, thay vào cái vẻ
khoẻ mạnh, cục mịch, chắc lẳn của các cô thôn nữ xưa kia thì cái đẹp bây giờ phải
mảnh mai, mềm mại thậm chí có thể hơi “tiểu thư khuê các”, người chồng bây giờ đã
biết làm tất cả để giữ gìn cái đẹp ấy.
Đổi mới về tư duy còn thể hiện ngay trong ngôn ngữ của Thốn. Trong lời nói
của Thốn không còn cái rụt rè nhút nhát thuần tuý của người dân chân lấm tay bùn,
Thốn đối đáp với chú của mình rất hồn nhiên, bỗ bã, cà chớn “Chú mới lạc hậu làm
sao đời sống mới có nghĩa là mời các cụ mặc áo lương, các cô bận áo dài đến động
viên họ hút thuốc lào và ngồi nhìn mình mà đánh chẩu hả chú!”, “Cũng phải có gì cho
các cụ nhắm chứ, chú bảo từ khi đẻ ra mình các cụ đã ngồi chờ rồi mà!” [29;366] .
Cũng có lúc ngôn ngữ của Thốn lại “lếu láo”, “ngạo nghễ‟: “ chú biết không nhà gái
ở tận miền Nam chứ không thì bỏ mẹ” hay “Em thấy không, thằng Cui lừa lúc nhà
mình có việc chuồn đi theo gái rõ thật là ”.
Rồi từ trong cách nói chuyện với Diệu Linh- vợ sắp cưới của mình Thốn rất tự
nhiên, lém lỉnh “Em đã thấy tình yêu của gã thợ cày chưa!”, “Anh gặp em cái dạo đi
lính ở trong đó là biết mình sẽ lấy em làm vợ mà!”. Anh chàng nông dân ấy cũng âu

yếm vợ mình một cách “sắc bẻm”: “Diệu Linh nàng ơi!”, “Đừng cưng”.v.v. Đó là
ngôn ngữ của một anh chàng nông dân vừa mới “đi ra” mang chút “bụi bặm”, mới mẻ
của thành thị nhưng vẫn chưa thoát khỏi chất mộc mạc, chân chất thôn quê. Ngôn ngữ
của Thốn bớt rườm rà mà ngắn gọn tự nhiên, khách quan hơn, phù hợp với nhịp sống
mới chứ không phải là sự pha trộn từ ngữ nước ngoài tạo ra một giọng điệu lai căng,
kệch cỡm.
Tuy nhiên trong những cái mới ở làng quê ấy còn có những cái tiêu cực, cái tiêu
cực thể hiện ở dấu hiệu học đòi, hãnh tiến; ở lối sống hưởng thụ, ăn chơi đàng điếm.
Đó là những “tay bợm đánh tiết canh lòng lợn nhìn đã tưng bừng no nê, đó là lối ăn
mặc không còn “hương đồng gió nội” của hai cô con gái chú Bân với chiếc “minidíp”
cũn cỡn và cách nhảy “Lăm-ba-đa” của những anh chàng nông dân - dấu hiệu manh
nha của những trò Karaôke trá hình (Thằng K-X). Đặc biệt cái tiêu cực rõ nét nhất
“làng tôi” là có nguy cơ bị “bỏ không” bởi sự mưu sinh làm giàu của con người. Làng

25
đã có tới “hàng trăm đứa bỏ làng ra đi”, “trút lại cái đói”, cái khổ cho người già. Văn
Từ Nguyên Tĩnh rõ ràng có tính dự báo nhiều hơn là miêu tả.
Như vậy, qua những trang văn của Từ Nguyên Tĩnh, qua hình ảnh “Làng tôi”,
người đọc đã thấy được sự am hiểu và tình yêu của ông đối với làng quê xứ Thanh. ở
làng quê ấy mọi cung bậc tình cảm, mọi số phận con người vui và buồn, may mắn và
bất hạnh đều “châu tuần” về đây tạo nên một nông thôn xứ Thanh thu nhỏ với đầy sự
ngổn ngang, bộn bề, phức tạp. Độc giả cũng nhận ra làng Bàn Thạch nói riêng hay xứ
Thanh nói chung đang có những bước chuyển mình, làng quê thuần nông ấy đã và
đang du nhập những ảnh hưởng của văn minh đô thị hay có, dở có. Sự chuyển mình
lột xác tuy còn có những vật vã, đau đớn song đó là hệ quả tất yếu của lịch sử. Đó
chính là xu thế chung của dân tộc, thời đại.
1.2. Một xứ Thanh kiên cƣờng, bất khuất qua hình ảnh Hàm Rồng
Những năm tháng mảnh đất Xứ Thanh trở thành mục tiêu hủy diệt nằm cắt đứt
con đường giao thông huyết mạch tiếp viện cho chiến trường miền Nam của đế quốc
Mỹ cũng là những năm tháng Từ Nguyên Tĩnh trở thành lính pháo thủ Hàm Rồng. Đó

là nguyên nhân có một xứ Thanh kiên cường, bất khuất qua hình ảnh không gian
Hàm Rồng.
Bị thất bại ở chiến trường miền Nam Việt Nam, cuối năm 1964 đầu năm 1965
đế quốc Mỹ vạch kế hoạch ném bom miềm Bắc nhằm cắt đứt sự chi viện vào miền
Nam. Là tỉnh trọng điểm về kinh tế của khu vực bắc miền Trung với nhiều khu công
nghiệp, dân số của tỉnh lại đông thứ hai cả nước nên Thanh Hóa là nơi cung cấp nhiều
sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Mặt khác Thanh Hoá còn nằm trên con
đường huyết mạch Bắc Nam, là nơi trung chuyển, tiếp viện cho chiến trường với nhiều
cầu giao thông lớn như cầu Lèn, cầu Tào, cầu Hàm Rồng và cầu Ghép. Phá được một
trong những chiếc cầu lớn ấy coi như cắt đứt tuyến đường chi viện cho miền Nam, đè
bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của quân dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy tỉnh Thanh Hoá đã nằm trong tầm ngắm của máy bay Mỹ và đã chịu sự tàn phá
nặng nề của bom đạn.
Trước khi trở thành nhà văn, Từ Nguyên Tĩnh là chàng pháo thủ thực thụ, tham
gia chiến đấu bảo vệ cây cầu Hàm Rồng huyền thoại. Bắt đầu là những mẩu tin, những
bài phóng sự rồi đến truyện ngắn Chùm truyện ngắn viết về Hàm Rồng, về xứ Thanh

26
trong những năm tháng đánh Mỹ của Từ Nguyên Tĩnh giống như những phóng sự tái
hiện hình ảnh một Hàm Rồng trọng điểm huỷ diệt và một Hàm Rồng hiên ngang bất
khuất.
1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ
“Chờ B52” là một trong những truyện ngắn đặc sắc về hình ảnh con người và
vùng đất Hàm Rồng hồi âý. B52, loại máy bày chiến đấu mới nhất, sức mạnh của nó
được phía bên kia rêu rao là “bất khả chiến bại”. Với độ cao, bay trên mười nghìn mét,
hiện chưa có thứ vũ khí nào chạm tới. Sức rải thảm của B52 thật đáng sợ. Nó có thể
rải bom một vùng rộng lớn khoảng 2,5 kilômét vuông. Khi Oasinhtơn dọa sẽ mang
con ngáo ộp B52 ra huỷ diệt miền Bắc “đưa Hà Nội trở về thời kì đồ đá”, tổng thống
Mỹ Níchxơn tưởng khuất phục được quân dân miền Bắc bởi sức huỷ diệt khủng khiếp
của nó. Hãy nghe Từ Nguyên Tĩnh miêu tả một trong những trận huỷ diệt ấy: Vùng

Hàm Rồng chỉ với diện tích chưa đầy một kilômet vuông nhưng biến thành một túi
bom “ Một vùng đỏ lòm từ chân cầu tới Nam Ngạn. Từ Nam Ngạn đến nhà máy điện,
đồi Cô Tiên Đâu đâu cũng có hố bom, chết chóc”. Những chiếc B52 “vào ném bom
rồi lao ra biến mất” như tia chớp đầy sự ma quái và bí hiểm, nếu những người lính
không tinh nhanh thì thị xã Thanh Hoá có thể bị san phẳng trong chốc lát. Đêm máy
bay B52 rải thảm, cả một vùng náo động bởi “tiếng nổ rền rền kéo dài tưởng là vô
tận” và “khoảng cách các hố bom cách nhau rất đều”. Chi tiết này cho thấy để huỷ diệt
Hàm Rồng, đế quốc Mỹ đã lên kế hoạch ném bom một cách chính xác, chi li đến từng
centimet, một con kiến cũng khó sống sót huống hồ là con người. Chỉ cần một sự bất
cẩn của những người lính cao xạ thì B52 sẽ “xoá sổ toàn bộ các đơn vị”. Sự ác liệt thể
hiện ở những tổn thất mà quân và dân Hàm Rồng phải gánh chịu: “Tuy những người
pháo thủ vẫn kịp bắn chặn máy bay cường kích và bắn phá Hàm Rồng” nhưng bộ đội
vẫn hy sinh nhiều. Chùa Nam Ngạn nằm sát trận địa Hàm Rồng phải mở cửa để đón
bộ đội vào cấp cứu và dưỡng thương. Sư Đàm, trụ trì chùa Nam Ngạn thường phải “bí
mật cầu siêu cho hương hồn người lính” siêu thoát trở về đất Mẹ.
Cùng bị bắn phá với cầu Hàm Rồng là cây cầu Đò Lèn (Cô gái Đò Lèn). Ở đây,
“bom dội như rây bột”, đoạn đường từ cầu Lèn về đến Hàm Rồng có xa xôi gì cho
cam nhưng mất hai ngày xe chi viện và chàng pháo thủ San vẫn chưa đến được.
Những trạm gác phòng không được dựng lên liên tiếp, các cô thanh niên xung phong

27
trở thành cọc tiêu sống đứng canh chừng bom nổ chậm, chỉ đường, dẫn đường cho xe.
Ngày “Mỹ trở mặt đánh lại Miền Bắc. Lèn và Hàm Rồng chúng đánh ác liệt hơn”.
Chúng “cho thí nghiệm tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất và cũng man rợ nhất: bom
laze, bom tinh khôn khiến bộ đội, dân quân và thanh niên xung phong hy sinh nhiều”.
Hàm Rồng càng chịu nhiều trận mưa bom của máy bay B52. “Hố bom, san sát là hố
bom. Mấy toa xe lửa hất lên nằm chỏng chơ đổ nát, vắng bóng người”. Cảnh vật đầy
chết chóc, hoang liêu. Con mương nép mình vào sườn đồi nhuốm “một màu đỏ quạch”
như máu của những con người đã ngã xuống, bờ sông Lèn “khô kiệt, bờ bị vỡ nát”.
Với sức tàn phá như vậy, sự sống tưởng như không còn có thể hiện diện ở đây.

Cái ác liệt của chiến tranh thể hiện rõ hơn và đau đớn hơn là những di chứng để
lại trên gương mặt con người. Tuyết Mai vốn là cô thanh niên xung phong trẻ trung ở
trạm gác Đò Lèn, “nắng gió bom đạn không làm mất vẻ duyên dáng thiếu nữ. Khoé
miệng cười phô ra chiếc răng khểnh ánh lên vẻ dìu dịu”. Nhưng chỉ mấy năm sau,
gương mặt người nữ anh hùng gác cầu năm nào đã bị bom na pan làm cho “rỗ chằng
rỗ chịt”. Cô thiếu nữ nổi tiếng hoa khôi một thời ở tổ đội thanh niên xung phong gác
cầu đã phải chạy trốn quá khứ, chạy trốn đồng đội. San, người yêu của cô đã mất bao
nhiêu thời gian để đi tìm cô. Nhiều năm mày mò anh đã tìm đến địa chỉ nhưng chính
anh cũng không ngờ, người phụ nữ - chị cấp dưỡng ở một địa chỉ mà anh vẫn hằng
qua lại chính là Tuyết Mai. Giờ, cô đã đổi tên, người đàn bà cô đơn, không chồng con,
có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt chính là Tuyết Mai duyên dáng và xinh tươi năm nào,
nữ anh hùng của gác cầu Đò Lèn năm xưa. Cô lại tránh anh, “cô không muốn cho
người quen cũ nhận ra bộ mặt bị bom na pan của mình”. Có biết bao nhiêu những
người như Tuyết Mai đã hi sinh tuổi thanh xuân và hạnh phúc của mình vì sự bất tử
của những cây cầu ấy và bao nhiêu người đã ngã xuống.
Bức tranh Hàm Rồng – xứ Thanh trong những năm tháng ác liệt tô đậm thêm
bức tranh về những năm tháng máu lửa mà kẻ thù đã gây ra cho đất nước này.
1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang bất khuất:
Song trong khói lửa đạn bom huỷ diệt, Hàm Rồng – xứ Thanh vẫn hiên ngang
bất khuất. Là người trong cuộc, Từ Nguyên Tĩnh tự hào ngợi ca tinh thần kiên cường,
dũng cảm, ý chí bất khuất của đồng chí, đồng đội, những người con của quê hương
Thanh Hóa anh hùng. Những chàng lái xe, những pháo thủ, những thiếu nữ, những cô

×