Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trước Cách mạng Tháng Tám 1945.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 95 trang )




MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI 3
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 6
3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 11
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 11
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 11
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 11
B. PHẦN NỘI DUNG 13
Chương 1. HÀNH TRÌNH NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VỀ CON NGƯỜI CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG 13
1.1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN HỒNG 13
1.1.1. Vài nét về Nguyên Hồng và hành trình sáng tác của nhà văn 13
1.1.2. Truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 16
1.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI 19
1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng 19
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời 24
Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945. 31
2.1. NHÂN VẬT CAM CHỊU 34
2.1.1. Những phu phen thợ thuyền cam chịu 34
2.1.2.Những ngƣời phụ nữ cam chịu 36
2.1.3.Những trẻ em nghèo 39
2.2. NHÂN VẬT VƢỢT LÊN HOÀN CẢNH 42
2.2.1. Những ngƣời lao động nghèo 43
2.2.2. Những tri thức tiểu tƣ sản nghèo 45
2.3. NHÂN VẬT VỊ THA, GIÀU ĐỨC HY SINH 47


2.4. NHÂN VẬT THA HÓA 51
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
58
3.1. XÂY DỰNG NHÂN VẬT QUA TÌNH HUỐNG TRUYỆN 59
3.2. MIÊU TẢ NHÂN VẬT QUA NGOẠI HÌNH VÀ HÀNH ĐỘNG 64
3.2.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình. 64
3.2.2.Miêu tả nhân vật qua hành động. 67
3.3. MIÊU TẢ NHÂN VẬT QUA NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU 70
3.3.1. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm 70
3.3.1.1. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại nội tâm phản ánh bản
chất xã hội và tính cách của nhân vật………………………………… 71
3.3.1.2. Cách sử dụng từ ngữ độc đáo……………………………….74
3.3.1.3. Lời văn chồng chất các điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt
kê……………………………………………………………………… 76
3.3.2. Giọng điệu trần thuật sôi nổi, thiết tha 77
3.3.2.1. Giọng điệu thƣơng cảm thống thiết………………………….79
3.3.2.2. Giọng điệu lạc quan sôi nổi………………………………….81
3.2.2.3. Giọng điệu trữ tình sâu lắng…………………………………83
C.PHẦN KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… ….92
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Nguyên Hồng là một trong những đại diện tiêu biểu của nền văn học hiện
thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Cùng với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô
Hoài, Nguyên Hồng đã trở thành một trong những nhà văn tiên phong góp phần
xây dựng nền văn học mới, nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với
gần nửa thế kỉ cần cù và say mê sáng tạo nghệ thuật, nhà văn đã để lại cho chúng ta
một gia tài văn học đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị. Ông đã đặt "cả
cuộc đời, trái tim và tâm hồn, nhường tất cả hơi sức, hi vọng và lòng tin" trên mỗi

trang viết để viết về những con người cùng khổ và dựng nên một bức tranh hiện
thực về sự nghiệp cách mạng trọng đại của dân tộc.Ngòi bút của Nguyên Hồng
cũng góp phần vào không khí sôi động và sự phát triển liên tục của hành trình văn
học Việt Nam trong thế kỉ XX.Với ý nghĩa đó, sự nghiệp văn học của nhà văn
xứng đáng được chúng ta giữ gìn, ngợi ca và trân trọng.
Nguyên Hồng, ngay từ những trang viết đầu tay, ông đã tự vạch cho mình
một con đường nghệ thuật riêng: nhà văn của những người cùng khổ. Cả cuộc đời
cầm bút, ông gắn bó sâu sắc, máu thịt với những con người nhỏ bé, những lớp
người dưới đáy của xã hội thành thị. Sự nghiệp văn học của Nguyên Hồng có nét
gần gũi với nhà văn Nga Mácxim Gorki – trong mỗi trang viết của ông nồng nàn
hơi thở của đời sống cần lao. Nguyên Hồng luôn khả năng nhìn thấy một vẻ đẹp
đầy chất thơ trong đời sống cần lao, trong những cái bình thường, thậm chí tầm
thường, xô bồ, bề bộn của cuộc sống, trong cảnh lầm than, lam lũ, khốn khổ, cơ
cực của con người . Và ông đã say sưa miêu tả những sâu kín, thánh thiện ấy với
một thái độ đầy nâng niu, trân trọng, và với một niềm tin mãnh liệt. Không ít nhà
văn hiện thực cùng thời với ông nhìn cuộc sống một cách bi quan. Không có thái
độ bi quan về con người và xã hội đương thời như Nguyễn Công Hoan hay Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng, dù cả cuộc đời sống trong cơ cực lao khổ, vẫn luôn
nhìn cuộc đời bằng con mắt tin yêu, lạc quan tin tưởng và với một tấm lòng nhân
đạo cao cả.
Nguyên Hồng bước vào nghề văn do sự thôi thúc nội tâm , muốn nói lên nỗi
thống khổ khôn cùng của con người, trước hết là người lao động để bênh vực
họ.Đó là ý thức nghệ thuật đã trở thành nguồn cảm hứng, cuốn hút sự say mê, sang
tạo của ông trong suốt cuộc đời cầm bút.
Sáng tác là niềm đam mê lớn nhất trong cuộc đời Nguyên Hồng.Viết văn đối
với ông là để “giải thốt những xâu xé, những dào dạt trong lòng. Để phơi bày
những ý tưởng rạo rực tâm hồn (…), viết còn để tìm cho mình một đời sống lâu dài
trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách nồng nàn với những
mối tình thắm thiết mênh mông”[26,75]. Ngòi bút ông đã hòa nhập vào đời sống
cần lao của những con người dưới đáy xã hội, vào cát bụi lầm than, vào những

cảnh đời, những kiếp người khốn khổ và ông đã tìm được ở đó suối nguồn dạt dào
nuôi dưỡng cả cuộc đời nghệ thuật của mình. Cảm hứng thương cảm là cảm hứng
chủ đạo, bao trùm lên toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, tạo nên trong tác phẩm
của ông một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, “bao giờ cũng thống thiết, mãnh liệt”
(Nguyễn Đăng Mạnh).
Nhắc đến các tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta thường nói nhiều đến
các tiểu thuyết và Hồi kí của ông như : Bỉ vỏ, Sóng gầm, Cơn bão đã đến, Cửa
biển, Những ngày thơ ấu. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyên Hồng tập
trung nhiều nhất cho tiểu thuyết .Từ Bỉ vỏ-tác phẩm khi mới bắt đầu cầm bút, đến
Cửa biển-tác phẩm mà ông dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất cho đến tác
phẩm cuối đời- Núi rừng Yên Thế, đều là tiểu thuyết. Những tác phẩm tiểu thuyết
này đã góp phần xác lập vị trí của Nguyên Hồng trên văn đàn nghệ thuật nước nhà.
Tuy nhiên trong sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng, truyện ngắn của
ông cũng có một vị trí quan trọng không thua kém gì so với tiểu thuyết. Và so với
các nhà văn cùng thời, truyện ngắn Nguyên Hồng cũng mang những nét độc đáo
riêng.
Chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu cũng như những bài phê bình
tiểu luận của các nhà văn, nhà phê bình, các bạn văn, độc giả …về con người và
những tác phẩm của ông. Tuy nhiên, những thành tựu trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng vẫn chưa được đánh giá một cách đầy đủ . Lựa chọn đề tài Thế
giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám
1945, tác giả luận văn mong muốn đưa ra một cái nhìn có tính hệ thống về nhân
vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng đồng thời khẳng định những đóng góp của nhà
văn đối với nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nguyên Hồng là một trong số những nhà văn ngay từ đầu đã tự xác định cho
mình con đường nghệ thuật đúng đắn và tiến bộ. Ngòi bút của ông luôn hướng về
đời sống cần lao và những con người lao động nghèo khổ, lam lũ.Con đường nghệ
thuật Nguyên Hồng là con đường của nhà tư tưởng hiện thực chủ nghĩa với chủ
nghĩa nhân đạo mãnh liệt và thống thiết. Con người nhà văn và những sáng tác của

ông luôn giành được những tình cảm yêu thương đằm thắm trong lòng bạn bè và
bạn đọc nhiều thế hệ. Nguyên Hồng là một trong số ít những nghệ sĩ mà ngay trong
những sáng tác đầu tay đã có được vị trí vững chắc trên văn đàn nghệ thuật và trở
thành nguồn cảm hứng và cho nhiều nhà nghiên cứu và những người yêu thơ văn.
Cảm hứng đó được trải dài từ những năm trước 1945 cho đến nay


a. Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945
Nguyên Hồng lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn bằng truyện ngắn Linh
hồn được in trên Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1936.Đó là thời gian Nguyên
Hồng vừa chuyển đến sống ở Hải Phòng, ban ngày ông là một thầy giáo tư dạy học
cho lũ trẻ con nhà nghèo trong xóm Cấm, ban đêm ông lại cặm cụi viết văn dưới
ánh đèn leo lét, viết một cách đau khổ và đầy say mê.Nhà văn trẻ ấy đã bước vào
nghề văn bằng sự trình bày thống thiết nỗi khổ ê chề của những con người nhỏ bé
dưới đáy xã hội vốn hằng ngày sống xung quanh mình.Nhưng phải đến cuốn tiểu
thuyết Bỉ vỏ-tác phẩm được nhận giải thưởng của Tự lực Văn đoàn năm 1937 thì
cái tên Nguyên Hồng mới thực sự đến gần với bạn đọc.
Ngay từ tiểu thuyết đầu tay ấy,Nguyên Hồng đã bộc lộ được tư tưởng nhân
đạo của một nhà văn hiện thực. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn
hiện đại (1942) đã nhận xét:
“ Tập văn đầu tiên của ông là tập Bỉ vỏ…Nhưng cái tư tưởng thâm trầm nó
bao quát cả cuốn tiểu thuyết Nguyên Hồng là cái tư tưởng : Tuy đã sa chân vào
chốn trụy lạc, người ta vẫn có thể mang một tâm hồn trong sạch được.” Bỉ vỏ là
cuộc sống thực và cũng chính là máu thịt cuộc đời Nguyên Hồng.
“ Bỉ vỏ của Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan tinh thần nhân
đạo,nó làm cho ta thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại xây
dựng một khuôn luân lí rất cao, nên dù ta thương xót họ cũng không thể không ghê
tởm về hành vi của họ”.
Tuy nhiên trong tiểu thuyết đầu tay này, Nguyên Hồng không tránh khỏi
những nhược điểm của người mới cầm bút “Tính cách nhân vật đôi khi bị đơn

giản hóa . Có những tình tiết bố trí giả tạo. Nhiều câu văn lỏng lẻo, dễ dãi…” (Vũ
Ngọc Phan).
Tiếp sau Bỉ vỏ, Nguyên Hồng lại mang đến cho bạn đọc một sự ngạc nhiên
mới. Thiên tự truyện Những ngày thơ ấu đã ghi lại một cách truyền cảm và chân
thành “ sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối
khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn”(Thạch Lam). Nhận xét tinh tế của Thạch
Lam thể hiện sự đồng cảm giữa hai nhà văn này.
Những ngày thơ ấu ngay từ khi mới ra đời đã được đông đảo bạn đọc và
giới phê bình đón nhận và đánh giá cao bởi lẽ đó là lần xuất hiện đầu tiên của một
tác phẩm văn học theo lối tự truyện . Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong tuyển tập
Nhà văn hiện đại(1942) đã đánh giá rất cao tác phẩm này của Nguyên Hồng:
“ Mới đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt một
quyển sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga. Không những thế, càng
đọc những trang sau, ta càng thấy Nguyên Hồng kể cho ta nghe hết cả những cái
cay đắng, những cái trụy lạc của mình và những người thân mình”
“Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gụi với xã hội người
nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm động như Nguyên
Hồng”.
Tiếp nối thành công của hai tác phẩm đầu tay, năm 1941, Nguyên Hồng tiếp
tục ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Bảy Hựu. Đây là tập truyện phản ánh những
cuộc đời bi đát của hạng người lưu manh sống âm thầm lẩn lút trong xã hội. Những
nhân vật trong Bảy Hựu đều mang dáng vẻ phi thường nhưng lại “có tấm lòng
khẳng khái hi sinh không khác nào những nhân vật trong Thủy Hử”.( Vũ Ngọc
Phan).
Đánh giá về tập truyện Bảy Hựu, trên tạp chí Tri Tân số 6(8-6-1941),
Nguyễn Tử Anh nhận xét:
“ Bảy Hựu là tác phẩm viết do một ngọn bút xuất sắc . Bảy Hựu với những
lời văn giản dị, trơn tru, ta không phải tìm hiểu mà tự nhiên thấy vô hạn thương
cảm những vai chủ động…không cầu kì, khách sáo, đó là đặc điểm của văn
Nguyên Hồng”.

Khảo sát tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám
1945, có thể thấy các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng của
Nguyên Hồng và khẳng định ông là nhà văn hiện thực mang tinh thần nhân đạo cao
cả. Tuy nhiên các bài phê bình đánh giá thường tập trung nhiều vào mặt nội dung
tư tưởng của tiểu thuyết Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu.Truyện ngắn của Nguyên
Hồng vẫn chưa được nghiên cứu chuyên sâu trong giai đoạn này.
b.Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945
đến nay
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng tiếp tục cho ra đời nhiều tác
phẩm có quy mô đồ sộ .Đặc biệt ánh sáng của quan niệm giai cấp và những nhận
thức về chính trị đã nâng cao chất lượng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng.
Ngòi bút của ông với vẫn hướng tình cảm của mình về phía nhân dân lao động
đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh kiên trì và tất thắng của họ.
Phan Cự Đệ trong bài viết "Những bước tiến mới về tiểu thuyết Nguyên
Hồng sau Cách mạng Tháng Tám" đã đưa ra những nhận định khái quát nhất về sự
nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng :
" Lò lửa và địa ngục là một cái mốc quan trọng trên con đường sáng tạo
của Nguyên Hồng. Tuy về căn bản nó vẫn là những tác phẩm hiện thực phê phán
nhưng cái ánh sáng chiếu rọi vào thì lại là của một thế giới quan đã bắt đầu đổi
mới"
"Bỉ vỏ và Sóng gầm là hai mốc về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Hai tác
phẩm cách nhau một phần tư thế kỷ và cũng là hai thời kì khác nhau trên con
đường nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bỉ vỏ là những tình cảm yêu thương dào dạt,
là khát vọng ngây thơ, trong trắng hồn nhiên của buổi ban đầu. Sóng gầm, Cơn
bão đã đến ra đời lúc cây bút Nguyên Hồng đã trưởng thành, luôn luôn day dứt
suy nghĩ về những vấn đề nghệ thuật và đời sống".
Có thể nói từ sau năm 1945, tình hình nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng có
nhiều chuyển biến mới mẻ. Đặc biệt, mảng truyện ngắn của ông đã được các nhà
phê bình, các bạn văn quan tâm và bước đầu đưa ra những nhận định, những ý
kiến đánh giá khách quan.

Đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ thẳng thắn nhận định:
“ Ngoài một số truyện ngắn độc đáo, người ta thấy anh hay lặp lại mình
trong một số hình tượng quá quen thuộc: một bà mẹ ngoan đạo, nhẫn nhục chịu
đựng và một người con giai thất nghiệp sống nheo nhóc cùng quẫn trong một ngõ
hẻm ở Hải Phòng. Ở một số truyện ngắn đã bắt đầu xuất hiện những con người
mới nhưng những hình tượng này còn đơn giản và sơ lược” .
Nếu như trong thời kì đầu cầm bút, Nguyên Hồng hay viết về những người
dân nghèo lưu manh hóa thì đến những năm 40 , ánh sáng cách mạng và giai cấp
đã soi sáng cho những nhân vật lao động nghèo của Nguyên Hồng. Phan Diễm
Phương trong bài viết Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng đã
đưa ra nhận định:
“ Từ đầu những năm bốn mươi, Nguyên Hồng đã viết một số truyện ngắn,
truyện dài có sắc thái hơi khác với những truyện ngắn trước đó của ông: Cái bào
thai, Hai dòng sữa, Một trƣa nắng, Hơi thở tàn…Có thể xem đây là những cuộc
tranh luận công khai về nghệ thuật, cũng là sự bộc lộ công khai quan điểm nghệ
thuật của tác giả, bằng hình tượng nghệ thuật và bằng những lời tuyên bố thẳng
thắn, dứt khoát” .
GS. Phan Cự Đệ là một trong những người dành nhiều tâm huyết trong việc
nghiên cứu và đưa tác phẩm Nguyên Hồng đến với người đọc. Trong Lời giới thiệu
cho cuốn Nguyên Hồng toàn tập(2000), ông đã đưa ra nhiều ý kiến đánh giá về
truyện ngắn Nguyên Hồng trên các phương diện nhân vật, kết cấu, bút pháp nghệ
thuật và khẳng định vị trí của truyện ngắn Nguyên Hồng
“ Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong cách truyện ngắn
trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn những tác phẩm trước và
sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một tập truyện ngắn giá trị với nhiều
màu sắc độc đáo”.
Đúng như lời nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu “ Nguyên Hồng mất đi
nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Từ sau khi nhà văn qua đời cho đến nay,
sự nghiệp văn chương và con người nhà văn vẫn là đề tài cho các công trình khoa
học, các bài viết nghiên cứu phê bình văn học.

Tiếp cận đề tài từ góc độ văn học sử, trong cuốn sách Phong cách nghệ
thuật Nguyên Hồng, tác giả Bạch Văn Hợp đã trình bày một cách hệ thống những
nét độc đáo, tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao và những biến chuyển nhất quán
của phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, từ đó góp phần khẳng định những cống
hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại.Trong
đó, truyện ngắn của Nguyên Hồng là đối tượng chính được tác giả tập trung khảo
sát.
Nhà nghiên cứu trẻ Lê Hồng My với công trình " Lời văn nghệ thuật
Nguyên Hồng", đã chọn cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ góc độ "lời văn
nghệ thuật" để " khám phá các phương thức tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời
văn; khám phá mối quan hệ giữa tư tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật; xác
định vai trò của lời văn nghệ thuật đới với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ
thuật Nguyên Hồng "(Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng- Lê Hồng My)
Tác giả Nguyễn Thu Hà với đề tài luận văn " Tìm hiểu những đặc điểm
nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách
mạng", đã khảo sát những sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng
trước năm 1945 để làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng.
Qua những bài viết và công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều mặt trong
sáng tác của Nguyên Hồng, các tác giả đã có những nhận định khách quan và chính
xác về thế giới nghệ thuật, phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm tiểu thuyết và
truyện ngắn của nhà văn.
Tuy nhiên,chúng tôi nhận thấy những ý kiến phê bình đánh giá
về truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng vẫn chưa được trình bày trong
những công trình chuyên sâu, mang tính hệ thống. Những bài viết nêu trên đã
giúp chúng tôi có những gợi ý quan trọng và có hướng giải quyết những vấn đề cần
đi sâu, tìm hiểu trong luận văn này.
3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Tiếp thu các ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng của những người
đi trước, luận văn đặt ra nhiệm vụ là tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 một cách có hệ thống dưới góc

độ thi pháp học.Từ đó tìm ra cái riêng của nhà văn trong thể loại truyện ngắn so
với những nhà văn cùng thời và khẳng định vị trí của truyện ngắn Nguyên Hồng
trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Lấy thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trước Cách mạng
làm đối tượng nghiên cứu, luận văn đã đi sâu vào đời sống tâm hồn, tính cách con
người để nắm bắt được tư tưởng của nhà văn bởi nhân vật là yếu tố để nhà văn bộc
lộ chủ đề, tư tưởng của mình.Đồng thời, thông qua nhân vật, nhà văn muốn bày tỏ
những quan niệm, những suy tư trăn trở về con người và cuộc đời. Từ đó, chúng ta
nhận ra những quan niệm nhân sinh mới mẻ, tiến bộ, nhận ra con người và cá tính
Nguyên Hồng trong văn học.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung khảo sát và tìm
hiểu các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng, gồm 49
truyện ngắn được in chung trong Nguyên Hồng toàn tập, tập 1, Phan Cự
Đệ(2008).So sánh với truyện ngắn của các tác giả cùng thời để thấy được thành
công và hạn chế của Nguyên Hồng trong việc xây dựng nhân vật. Qua đó giúp
chúng tôi có một cái nhìn đầy đủ hơn về quá trình sáng tạo hình tượng nghệ thuật
của ông.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã vận dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử-cụ thể
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân tích-tổng hợp
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài Phần Mở đầu và Phần Kết luận, nội dung chính của Luận
văn được tổ chức thành 3 chương:
Chƣơng 1: Hành trình nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con
người của Nguyên Hồng

Chƣơng 2: Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng
trước Cách mạng tháng Tám 1945
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945
Cuối cùng là phần Thƣ mục Tài liệu tham khảo


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
HÀNH TRÌNH NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƢỜI CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG
1.1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN HỒNG
1.1.1. Vài nét về Nguyên Hồng và hành trình sáng tác của nhà văn
Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5-11-1918 tại
phố Hàng Cau , thành phố Nam Định trong một gia đình công giáo đang trong thời
kì sa sút. Mười hai tuổi,cậu bé Nguyên Hồng mồ côi cha, người mẹ trẻ nghèo khổ
phải vào Vinh đi ở vú đầm, rồi mấy năm sau thì đi bước nữa. Mười lăm tuổi, vừa
mới học xong tiểu học, ông đã bị đày đọa trong các nhà lao trải dài từ Nam Định
đến Hà Nội và cuối cùng bị giải đi Phúc Yên. Đến năm mười sáu tuổi, hết hạn tù
được tha, Nguyên Hồng từ giã quê hương-thành phố Nam Định để cùng mẹ và bố
dượng ra sinh sống ở xóm Cấm -Hải Phòng. Tại cái xóm nghèo ấy, Nguyên Hồng
đã trở thành thầy giáo tư của con em những người lao động nghèo khổ.
Cũng chính tại Hải Phòng, vào năm 1935, nhà văn của chúng ta đã được gặp
gỡ Thế Lữ-" nhà thơ ngõ Nghè", chủ soái của phong trào Thơ Mới.Chính từ cuộc
gặp gỡ này, Nguyên Hồng đã bắt đầu ước vọng đi vào con đường văn chương, coi
văn chương là lẽ sống cao cả của cuộc đời mình.
Năm 1936, Linh hồn -truyện ngắn đầu tay của Nguyên Hồng được in trên
tờ Tiểu thuyết thứ bảy càng làm củng cố thêm quyết tâm này của nhà văn. Chính
trong những căn nhà ổ chuột tối tăm, bẩn thỉu của khu lao động xóm Cấm- Hải
Phòng, những trang viết đầu tiên của tiểu thuyết Bỉ vỏ và Hồi ký Những ngày thơ

ấu đã được hình thành. Bỉ vỏ được in thành nhiều kì trên báo và nhận được giải
thưởng Tự lực Văn đoàn. Cũng từ đó, Nguyên Hồng đã thực sự trở thành một nhà
văn.Năm 1938, báo Ngày nay bắt đầu giới thiệu Những ngày thơ ấu đưa văn
chương Nguyên Hồng đến gần hơn với bạn đọc.
Bước vào thời kỳ mặt trận dân chủ, Nguyên Hồng có điều kiện được tiếp
xúc với một số Đảng viên Đảng cộng sản đang hoạt động ở thành phố Hải Phòng,
trong đó có đồng chí Tô Hiệu- là bí thư Thành ủy lúc bấy giờ. Sau đó, Nguyên
Hồng ngày càng tích cực tham gia các hoạt động do Đảng cộng sản Đông Dương
chủ trì trong suốt thời kì này.Cùng với Như Phong, Nguyễn Tường Khanh, Trần
Minh Tước, Lưu Qúy Kì và La Hy, Nguyên Hồng tham gia sinh hoạt trong Đoàn
thanh niên dân chủ và viết bài trên các báo Thế giới và Mới.
Tháng 9/1939, Nguyên Hồng bị mật thám bắt tại Hải Phòng. Ông bị kết án 6
tháng tù về"tội truyền bá văn học macxit và tham gia những tổ chức chống phá trị
an.". Trong thời gian bị tù đày gian khổ, các tập truyện Qua những màn tối và
Cuộc sống đã được ra đời, thể hiện những chuyển biến mới về tư tưởng và phong
cách nghệ thuật của nhà văn.
Vào mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng đã cùng với Như Phong, Tô Hoài,
Nam Cao, Nguyễn Đình Thi , Nguyễn Huy Tưởng tham gia vào tổ chức Văn hóa
cứu quốc bí mật và được tiếp xúc với Đề cƣơng văn hóa 1943 của Đảng. Điều
này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến những tác phẩm được viết trong giai đoạn tiền
khởi nghĩa của Nguyên Hồng như: Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Ngọn lửa, Buổi
chiều xám
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia biên tập cho tạp chí
Tiên phong- cơ quan hoạt động văn hóa mới của Đảng. Thời gian này ông tiếp tục
cho ra đời tập truyện vừa Ngọn lửa, tập truyện ngắn Địa ngục và lò lửa. Trong đó,
một số truyện đã được in trên tạp chí Tiên phong.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nguyên Hồng cùng với một số gia đình
văn nghệ sĩ khác như Ngô Tất Tố, Kim Lân lên khai phá ấp Kì Nhân(tức ấp Cầu
Đen-Yên Thế) cạnh căn cứ của nghĩa quân Đề Thám năm xưa.Tại đây, ông tiếp tục
tham gia hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam, là biên tập viên cho tạp chí

Văn nghệ của Hội và phụ trách Trƣờng văn nghệ nhân dân Trung ƣơng từ
nhũng khóa học đầu tiên.
Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng gia đình chuyển về sống ở
Hà Nội, được phân công công tác tại Hội nhà văn Việt Nam và làm thư kí tòa
soạn cho tuần báo Văn của Hội do nhà văn Nguyễn Công Hoan làm chủ
nhiệm.Sau đợt đấu tranh chống lại nhóm Nhân văn -giai phẩm, Nguyên Hồng
chuyển về tham gia lao động tại nhà máy xi măng Hải Phòng. Cũng tại nơi đây,
ông bắt đầu nhen nhóm ý tưởng và bắt tay vào viết Cửa biển- bộ tiểu thuyết sử thi
dài bốn tập, một tác phẩm tâm huyết của cả cuộc đời cầm bút của Nguyên Hồng.
Từ năm 1962, ông sống cùng gia đình tại ấp Cầu Đen, Yên Thế( Bắc Giang).
Có thể nói sau Hải Phòng, mảnh đất này chính là quê hương thứ hai của Nguyên
Hồng, là nơi mà ông đã gắn bó lâu dài và cũng là nơi ông xây dựng bộ tiểu thuyết
dài hơi còn dở dang của đời mình. Bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế dự định gồm
ba tập, đang hoàn thành tập 2 thì ông đột ngột qua đời (2/5/1982).
Tri ân cho những cống hiến của ông cho nền văn học nước nhà, Nguyên
Hồng đã được Chính phủ truy tặng Huân chương độc lập hạng ba và giải thưởng
Hồ Chí Minh đợt 1.Ông không chỉ là một nhà văn lớn mà còn là người thầy dìu dắt
nhiều thế hệ nhà văn trẻ đi vào con đường sáng tác văn chương.
Với 46 năm miệt mài sáng tạo nghệ thuật, Nguyên Hồng đã để lại cho chúng
ta nhiều tác phẩm có giá trị trên các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, hồi kí,
bút ki- tiểu luận. Một số tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của
Nguyên Hồng:
- Tập truyện ngắn: Bảy Hựu (1940), Hai dòng sữa (1943), Địa ngục và lò
lửa (1946) Giữ thóc (1956)
- Tiểu thuyết: Bỉ vỏ (1938), Quán Nải (1942), Hơi thở tàn (1944), Cửa
biển-3 tập (1961-1973), Thù nhà nợ nƣớc (1981), Núi rừng Yên Thế- tập 1
(1983)
- Thơ: Trời xanh (1960)
- Hồi kí- bút kí: Những ngày thơ ấu (1940), Đất nƣớc yêu dấu (1949),
Bƣớc đƣờng viết văn (1971), Một tuổi thơ văn (1973), Những nhân vật ấy đã

sống với tôi (1978).
1.1.2. Truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám
Truyện ngắn là thể loại văn xuôi nghệ thuật tương đồng với tiểu thuyết, có
hình thức khá tự do, có khả năng đề cập đến hầu hết các phương diện đời sống con
người, xã hội nhưng với dung lượng nhỏ. Truyện ngắn thường hướng tới việc khắc
họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời
sống tâm hồn con người bằng những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu và cô đúc. Bản
chất của truyện ngắn là ngắn, hàm súc, khái quát nghệ thuật cuộc sống theo chiều
sâu. Ở Việt Nam, truyện ngắn xuất hiện như một thể loại văn học từ đầu thế kỉ
XX, cùng với sự ra đời của văn xuôi quốc ngữ, gắn liền với tác động của báo chí.
Truyện ngắn hiện đại Việt Nam đạt được nhiều thành tựu xuất sắc trong
khoảng thời gian 1930-1945, gắn với tên tuổi và đóng góp to lớn của các nhà văn
như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyên Hồng,
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Bùi Hiển Truyện ngắn giai đoạn này khá đa
dạng, đặc biệt phong phú về khuynh hướng thẩm mỹ, về đề tài, nội dung phản ánh,
về bút pháp, phong cách đồng thời còn đạt đến những giá trị mới về nội dung, cũng
như có sự đổi mới sâu sắc có hệ thống về hình thức, từ đó tạo nên sự xuất hiện của
những đỉnh cao nghệ thuật mới.
Nhờ có sự ra đời của báo chí mà truyện ngắn giai đoạn này đã áp sát tới gần
đời sống, kể về cuộc sống nghèo khổ của những con người tầm thường dưới đáy xã
hội.Về hệ đề tài, có thể nói truyện ngắn đã hướng tới tất cả mọi mặt của đời thường
và khám phá tất cả những biểu hiện phong phú phức tạp trong đời sống tinh thần
của con người.
Cùng với sự phong phú về mặt nội dung thì truyện ngắn 1930-1945 cũng rất
đa dạng về phong cách và bút pháp nghệ thuật.Đó là Nguyễn Công Hoan tiêu biểu
cho phong cách truyện ngắn hài hước mang đậm tính chất hiện thực; Nam Cao
mang một phong cách hiện thực nghiêm ngặt giàu tính chất tâm lý, mang dáng vẻ
hiện đại; với Thạch Lam thì " mỗi truyện ngắn là một bài ca trữ tình đầy xót
thương" và "những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một
không khí trữ tình đầy mến thương toả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả

"; và có một Nguyên Hồng với bút pháp viết truyện vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Trong sự nghiệp sáng tác dồi dào của Nguyên Hồng, truyện ngắn có một vị
trí quan trọng không thua kém gì so với các tác phẩm tiểu thuyết của ông. Gần nửa
thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, ông đã cho ra đời 7 tập truyện ngắn: Bảy Hựu (1940),
Hai dòng sữa (1943), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Địa ngục và lò lửa
(1946), Giữ thóc (1956) và Tuyển tập truyện ngắn 1983-1985. Trong đó, những
truyện ngắn được viết trước năm 1945 được bạn đọc yêu mến và được giới nghiên
cứu phê bình đánh giá cao.
Truyện ngắn Nguyên Hồng trước Cách mạng có sự kết hợp hài hòa giữa chất
hiện thực và lãng mạn , thể hiện tấm lòng thương cảm của nhà văn đối với những
kiếp người cùng khổ và niềm tin mãnh liệt vào những phâm chất tốt đẹp của con
người lao động chân chính.Trong từng trang viết của ông, người đọc vừa có thể
nhận thức được hiện thực cuộc sống của người dân Hải Phòng trước Cách mạng,
lại vừa dễ dàng nhận ra tình cảm dạt dào sôi nổi của nhà văn đối với cuộc sống cần
lao và những nhân vật dưới đáy xã hội. Nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng được
viết với một bút pháp hiện thực tỉnh táo. Đọc các truyện: Đây bóng tối, Láng, Vực
thẳm, Ngƣời con gái chúng ta có thể cảm nhận được cuộc sống bi thảm, tối tăm
của những kiếp người cùng khổ trong xã hội cũ. Ngòi bút nhà văn không ngần ngại
vạch trần những chi tiết tỉ mỉ, trần trụi của đời sống cần lao. Cũng có khi tác giả
giấu mình đi, sử dụng một lối văn trần thuật khách quan để người đọc tự cảm nhận
và đưa ra những nhận định riêng về nhân vật và tác phẩm.
Một số truyện như Những mầm sống, Cuộc sống tràn đầy âm hưởng trữ
tình lãng mạn nhưng không phải là thứ lãng mạn thoát li tiêu cực như một số tác
phẩm của Tự lực Văn đoàn, mà đó là chất thơ toát ra từ đời sống lao động, một chủ
nghĩa lãng mạn cách mạng bắt nguồn từ một niềm tin lí tưởng- niềm tin đối với
con người và cuộc sống.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng còn thể hiện tính chiến đấu, được biểu hiện
qua những thủ pháp nghệ thuật tương phản, trong việc xây dựng kết cấu và hệ
thống hình tượng nghệ thuật.Đó là sự đối lập giữa hai kiểu người, hai lối sống, một
bên là lòng nhân hậu, sự thủy chung và một bên là sự hưởng thủ ích kỉ, thói độc ác

tàn nhẫn ( Cô gái quê, Nhà bố Nấu); có khi lại là sự đối lập giữa hai quan điểm
nghệ thuật( Hai dòng sữa, Cái bào thai).
Truyện ngắn Nguyên Hồng đôi khi có khuynh hướng mở rộng quy mô và
dung lượng, kết cấu dàn trải theo chiều dài cuộc đời nhân vật( Ngƣời con gái, Con
gái ngƣời mãi võ họ Hoa). Tuy nhiên, cũng có truyện chỉ là một cảnh ngộ tối tăm
hay một câu chuyện dằn vặt lương tâm(Tôi dạy học, Miếng bánh).Truyện ngắn
Nguyên Hồng sử dụng nhiều bút pháp, nhiều lối kết cấu và xây dựng nhân vật khác
nhau. Tất cả những thủ pháp đó đề nhắm phản ánh cuộc sống của tầng lớp dân
nghèo thành thị, những con người lương thiện bị vùi dập,những tấm lòng yêu
thương, nhân nghĩa thủy chung, những khát vọng đẹp đẽ về một thế giới trần đầy
ánh sáng và hạnh phúc.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng được viết với giọng văn thương cảm thống
thiết và lạc quan sôi nổi. giọng điệu ấy đi liền với cấu trức lời văn nghệ thuật.Câu
văn của ông thường được mở rộng thành phần theo kiểu tăng cấp, liệt kê và sử
dụng các kết cấu lặp. Đoạn văn của ông thường được tổ chức theo kết cấu tầng
tầng lớp lớp, kết cấu lửng theo kiểu lặp cấu trúc câu. Vì vậy, văn của Nguyên Hồng
luôn dồi dào cảm xúc, giàu chất thơ và dễ đi vào lòng người.
Cùng với giọng điệu thương cảm thống thiết ấy là ngôn ngữ giàu giá trị biểu
cảm.Nhà văn đã khai thác và vận dụng sáng tạo khả năng biểu đạt của nhiều loại
hình ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau khổ cùng cực và những phẩm chất tinh thần tốt
đẹp của người lao động. Đó là cách sử dụng từ ngữ, thành ngữ, thán từ một cách
linh hoạt. Ngôn ngữ trong các truyện ngắn của Nguyên Hồng là ngôn ngữ gây ấn
tượng, tác động đến giác quan của người đọc.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng có một lối tự sự chân thật giàu cảm xúc, thể
hiện lòng thương cảm đối với những kiếp người cùng khổ và một niềm tin mãnh
liệt vào những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Truyện ngắn của ông còn thể
hiện một cái nhìn lãng mạn, tràn đầy chất thơ về đời sống cần lao, một giọng điệu
trần thuật sôi nổi thiết tha với những hình thức ngôn ngữ giàu biểu cảm, gấy ấn
tượng, là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. Tất
cả các yếu tố trên đã tạo nên cho truyện ngắn Nguyên Hồng một phong vị riêng,

vừa độc đáo vừa gần gũi với đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động.
1.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng
“Quan niệm nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật học, nó gắn bó với quan
niệm thế giới quan, triết học, xã hội học về con người và thế giới nói chung, nhưng
tự bản thân nó đã là một “ý thức hệ” đặc biệt gắn liền với miêu tả nghệ
thuật” (Phan Cự Đệ). Như vậy, cái thúc đẩy sức sáng tạo nghệ thuật chính là quan
niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người thể hiện sự thống nhất giữa hiện thực
được phản ánh và năng lực cắt nghĩa, lý giải nghệ thuật của nhà văn. Ứng với một
quan niệm về cuộc đời và con người là một thế giới nghệ thuật tồn tại ngay trong
khám phá của nhà văn. Trên cơ sở quan niệm nghệ thuật đã hình thành trước trong
tư duy, trong cảm xúc, tác giả có thể lựa chọn và xây dựng những hình tượng nghệ
thuật khác nhau. Và mỗi hình tượng nghệ thuật như vậy trong những tác phẩm
khác nhau của cùng một tác giả lại gặp nhau ở cùng một điểm dưới sự chỉ đạo của
quan niệm nghệ thuật của tác giả. Mỗi nhà văn lớn đều có một quan niệm về nghệ
thuật và cuộc đời của riêng mình. Chính điều này chi phối quá trình thai nghén tác
phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn, đồng thời giúp độc giả xác định được
mức độ chiếm lĩnh con người của hình tượng văn học và sự đóng góp tích cực của
hiện tượng văn học đó vào lịch sử văn học cũng như vào sự phát triển nhân cách
con người.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình công giáo đang trong thời kì sa sút,
Nguyên Hồng không có điều kiện để theo học lên những bậc cao. Nhưng bù lại,
ông đã sớm bắt rễ được vào cuộc đời của những con người nghèo khổ. Thời thơ ấu
lam lũ và cực khổ đã dạy cho Nguyên Hồng biết yêu thương những con người
cùng cảnh ngộ. Cúng chính vì họ mà Nguyên Hồng đã sớm cầm bút để viết nên
những trang văn ca ngợi và bênh vực cho những con người lao động chân chính.
Nguyên Hồng viết văn trước hết là để khẳng định sự tồn tại của mình với
cuộc đời. Ông tự ý thức:
"Cần thiết đối với tôi là tôi phải viết, viết ra thành chữ tất cả những gì chứa
đựng, nung nấu, quằn quại, đau xót, và bay bổng, và bát ngát của tâm hồn, của suy

nghĩ. Viết để mình đọc trước nhất, viết cho mình đọc trước nhất " [7,828].
Đối với một người thanh niên thời đó, địa vị không có, gia đình suy tàn, học
thức thì có hạn, Nguyên Hồng chỉ còn một cách tồn tại và khẳng định bản thân
mình trong cuộc sống cái cao quý và trong sạch của văn chương. Sáng tác là niềm
đam mê lớn nhất trong cuộc đời Nguyên Hồng. Dường như ông đã dốc cạn cuộc
đời mình ra để viết, ông tìm thấy niềm vui, niềm an ủi và hạnh phúc vô bờ trên
những trang viết, ông viết với tất cả niềm say mê và tin tưởng vào nghề văn.Ông
đã viết để được giãi bày tấm lòng mình, để được chia sẻ, cảm thông, để tìm ra ánh
sáng cho cuộc đời cơ cực và đau khổ của mình. Bởi vậy, Nguyên Hồng viết suốt
ngày, suốt đêm, viết một cách say mê bất chấp " cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng
trong đêm mưa lạnh hoang vắng". Bỉ vỏ- cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông cũng
được viết " trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bột
của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro" 25,2].
Nguyên Hồng thường mải mê viết truyện giữa tiếng tranh giành xô xát, mỉa
mai đay nghiến, eo sèo khắc khoải của những người dân nghèo trong các ngõ hẻm
của thành phố Hải Phòng.Ngay cả trong những ngày đang bị tù đày ở Bắc Mê, sau
khi đi làm cỏ vê về, ông lại cặm cụi ngồi viết ở một gốc cây mé sau trại giam "
dưới một bầu trời mờ mờ xám xám, xung quang là màu xanh hoang vu của núi
rừng dày đặc và tiếng gió rừng lạnh lẽo hú lên từ thung lũng này qua thung lũng
khác" [60, 129].
Nguyên Hồng luôn quan niệm " văn chương là sự thật ở đời, và mỗi nhà
văn, người nghệ sĩ phải đi thẳng vào cuộc đời xốc vác lấy một phần công việc với
mọi người". Ông tự nhắc nhở mình " không được viết những truyện tình yêu phù
phiếm bợm bãi, những truyện mơn trớn khêu gợi, những tình cản thấp kém , những
truyện để mua vui, để chiều ý, để cầu lấy chút khen ngợi hay nhắc nhở của một bọn
vô công rồi nghề phè phỡn". Đối với Nguyên Hồng, một nhà văn chân chính thì "
không nên và không được viết những gì a tòng, những gì tô điểm cho lối sống và
bộ mặt của chúng" [7,846].
Chọn con đường viết văn để phản ánh sự thật, ngay từ đầu Nguyên Hồng đã
là một nhà văn hiện thực.Cũng như các nhà văn có cùng khuynh hướng, nhà văn

hiện thực đã có sự gặp gỡ kết hợp với tinh thần nhân đạo tha thiết. Tấm lòng yêu
thương những con người nghèo khổ trong xã hội cũ như đám thợ thuyền, phu phen,
những người phụ nữ góa bụa, những kẻ lưu manh tội lỗi, đám trẻ mồ côi lang thang
đã thôi thúc ông cầm bút viết về họ bằng một tình cảm da diết, mãnh liệt và thường
trực của tâm hồn.
Quan điểm nghệ thuật tiến bộ của Nguyên Hồng có sự gặp gỡ với các nhà
văn cùng thời . Thạch Lam, một nhà văn trong Tự Lục văn đoàn, là nhà văn lãng
mạn, nhưng quan điểm của ông về vai trò tác dụng của văn chương đối với con
người và xã hội lại rất tích cực. Quan điểm sau đây có thể coi là tuyên ngôn nghệ
thuật của ông:
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự
thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực
mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi 1 cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm
cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Quan niệm nghệ thuật của Nguyên Hồng có nhiều nét gần gũi với quan niệm
về văn chương nghệ thuật của Nam Cao, cả hai ông đều là những đại diện xuất sắc
của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945.Cũng giống như Nguyên Hồng,
trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ về “sống và viết”. Lúc
đầu, ông chịu ảnh hưởng khá rõ văn học lãng mạn nhưng dần dần nhà văn nhận ra
thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nhân
dân và “những cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo”. Hơn nữa,
Nam Cao không thích sự vuốt ve,mơn trớn: “nghệ thuật không phải là ánh trăng
lừa dối”. Đến với nghệ thuật hiện thực là cả một quá trình đấu tranh gian khổ
nhưng dứt khoát. Truyện ngắn Trăng sáng được xem là một tuyên ngôn nghệ
thuật của ông. Nó đánh dấu một bước chuyển biến trong nhận thức tư tưởng cũng
như quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.
Trăng sáng đã thể hiện sinh động tâm trạng đấu tranh day dứt của một nhà
văn giữa hai con đường: mơ mộng và thực tế, lãng mạn và hiện thực, để rồi đi đến
khẳng định sức mạnh của văn học nghệ thuật chính là bắt nguồn từ đời sống và
phục vụ đời sống :

“Chao ôi! nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật tiến bộ này mà trong các sáng tác trước
Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng và Nam Cao đều đặc biệt hướng ngòi bút
của mình vào tần lớp dưới đáy xã hội với một niềm ưu ái, cảm thông và trân trọng.
Ông đã viết về đời sống thực của những người lao động với tất cả những nỗi bất
hạnh và vẻ đẹp trong bất hạnh của họ. Ông đã viết về họ với một tấm lòng yêu
thương vô hạn, với một trái tim nhân hậu và nồng ấm.
Nguyên Hồng quan niệm mỗi nhà văn đều phải nỗ lực không ngừng để tạo
nên một phong cách riêng: “Dù tôi non nớt, dù tôi vụng về, dù tôi không tài không
giỏi không lọc lõi không cao tay nghề nhưng tôi nhất định không chiu kém trong
tinh thần cố gắng trong công sức sáng tạo” [7,897].
Để có được cái cá tính và cái riêng biệt trong sáng tác của mình, ông tự nhủ
“ phải làm sao “cái đó” toát lên ở tâm hồn biết yêu thương của mình, ở màu sắc
sự sống mà mình diễn tả, ở thái độ trước cuộc đời mà mình suy nghĩ, ở sự gửi gắm
với người đọc, đem lại cho người đọc một sự kết đọng cao quý và trân trọng vì
nhân sinh”.
Nguyên Hồng ý thức được văn học phải tái hiện hiện thực cuộc sống và
người nghệ sĩ phải hòa mình vào cuộc sống của nhân dân thì nghệ thuật và con
người công dân mới kết hợp làm một và tiếng nói nghệ thuật mới cộng hưởng được
với hơi thở và nhịp đập của cuộc sống người lao động :
"Không phải ngòi bút của tôi chỉ có sức sống vì đắm mình vào trong sự đau
khổ quằn quại, làm việc một bóng một đèn, mà sẽ dồi dào sinh lực chính ở trong
lao động và đấu tranh sát cánh với những con người lao động".
Nguyên Hồng khẳng định ngòi bút nhà văn phải biết tố cáo, biết phá bỏ và
biết xây dựng cuộc sống, đó chính là ngòi bút của cách mạng, của lí tưởng cộng
sản.
Với Nguyên Hồng, viết văn là để người đọc phải nghĩ về sự thật và thấy
rằng cuộc sống không cho phép chúng ta trốn tránh, vô trách nhiệm, nhẫn tâm với
người xung quanh, viết mà ngòi bút nhà văn không trăn trở, suy nghĩ, không có

cái Tâm thì nhà văn đó không thể tái hiện được cuộc sống , con người và cuộc đời.
Trong cuộc đời viết văn đầy tin tưởng và say mê của mình, Nguyên Hồng
luôn tự nhắc nhở :
" không được bằng lòng với chính mình, không được cho phép mình gian dối
và phải không ngừng trau dồi vốn sống".
Cũng chính vì quan niệm nghệ thuật văn chương đúng đắn mà văn Nguyên
Hồng luôn" ngồn ngộn chất sống", ông chủ trương cho cuộc sống ùa vào trang viết
của mình một cách thật tự nhiên, chân thực với tất cả sự ồn ào, náo nhiệt và hỗn
độn như nó vốn có.Cũng chính vì vậy mà từ những truyện ngắn, tiểu thuyết đầu tay
như Linh hồn, Bỉ vỏ…cho đến bộ tiểu thuyết Cửa biến sau này,Nguyên Hồng
luôn có sự nhất quán về tư tưởng nghệ thuật, đó cũng chính là sự nhất quán trong
con đường nghệ thuật mà ông đã chọn: từ một nhà văn hiện thực trở thành một nhà
văn cách mạng.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cơ bản nhất, then chốt nhất của
một chỉnh thể nghệ thuật chi phối toàn bộ tính độc đáo và hệ thống nghệ thuật của
chỉnh thể ấy. Quan niệm về con người giúp ta thâm nhập vào cơ chế tư duy của
văn học, khám phá quy luật vận động, phát triển của hình thức (thể loại, phong
cách) văn học. Đó chính là nội dung ẩn chứa bên trong mỗi tác phẩm biểu hiện.
Theo GS. Trần Đình Sử trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học (1998) thì:
"Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu
tả con người trong nghệ thuật", là sự lí giải, cắt nghĩa, cảm thấy con người đã
được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức biểu hiện
con người trong văn học tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho hình tượng
nhân vật trong đó. Nó mở ra một hướng khác, nó hướng người ta khám phá, phát
hiện cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể ngay cả khi miêu tả
con người giống hay không giống với đối tượng có thật. Nó cũng là sản phẩm của
văn hoá, tư tưởng. “Quan niệm con người là hình thức đặc thù nhất cho sự phản
ánh nghệ thuật, trong đó thể hiện sự tác động qua lại của nghệ thuật với hình thái
ý thức xã hội khác”.

Quan niệm nghệ thuật về con người tất nhiên cũng mang dấu ấn sáng tạo của
dấu ấn nghệ sĩ, gắn với cái nhìn đầy tính phát hiện độc đáo của nghệ sĩ. Ở mỗi thể
loại văn học khác nhau, mỗi thời kì lịch sử khác nhau lại có những quan niệm con
người khác nhau.
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phương diện quan trọng của thi
pháp học, nó giúp chúng ta hình dung đầy đủ về tư tưởng nghệ thuật của một nhà
văn trong một giai đoạn, thời kỳ nhất định. Quan niệm nghệ thuật về con người
cung cấp một điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung tác phẩm văn học cụ thể, đồng
thời cung cấp một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển, tiến hoá của văn học. Bởi lẽ,
điều chủ yếu trong sự tiến hóa của nghệ thuật và của văn học nói chung, là sự đổi
mới cách tiếp cận, chiếm lĩnh thế giới và con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh
đời sống, là quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với phạm trù
phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, là thước đo của hình thức văn học
và là cơ sở của tư duy nghệ thuật, tạo nên cá tính sáng tạo của nhà văn.
Chính những quan niệm nghệ thuật riêng sẽ chi phối quá trình sáng tác và
cũng là cơ sở để tạo nên tư duy nghệ thuật. Nó là khởi nguyên của hoạt động sáng

×