Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tường dưới góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 127 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ THU NGA


VĂN XUÔI HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số : 60.22.32



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lý Hoài Thu





HÀ NỘI, 2010


























1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Mục đích - đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 9
5. Cấu trúc luận văn 10
NỘI DUNG 11

Chƣơng 1.KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ THỂ KÝ VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG 11
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 11
1.1.1. Khái niệm về thể loại 11
1.1.2. Những đặc trƣng thể loại 15
1.2. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA
HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG 17
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng 17
1.2.2. Hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng 19
Chƣơng 2.QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ
CON NGƢƠ
̀
I TRONG VĂN CHƢƠNG HOA
̀
NG PHU NGO
̣
C TƢƠ
̀
NG……22
2.1. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG
VĂN XUÔI HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG 22
2.1.1. Những trang văn bám sát hiện thực cuộc sống 22
2.1.2. Những góc nhìn khác về hiện thực đời sống 31
2.2. QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG VĂN XUÔI HOÀNG
PHỦ NGỌC TƢỜNG 41
2.2.1. Thế giới nhân vật 41

























2
2.2.2. Con ngƣời dƣới nhiều góc nhìn 51
Chƣơng 3.MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN CỦA
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN 60
3.1. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN TRẦN THUẬT 60
3.1.1. Thời gian trong văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng 60
3.1.2. Không gian trong văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng 66
3.2. GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT 80
3.2.1. Giọng trữ tình sâu lắng 81

3.2.2. Giọng triết lý sâu sắc 83
3.2.3. Giọng nghị luận xã hội 85
3.3. NGÔN TỪ TRẦN THUẬT……………………………………… 90
3.3.1. Ngôn từ triết lý và ảo hóa 89
3.3.2. Ngôn từ đậm chất thơ lãng mạn, bay bổng 91
3.3.3. Ngôn từ giàu tính liên tƣởng 94
3.3.4. Các biện pháp tu từ 97
3.4. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH ẢNH VÀ BIỂU TƢỢNG
TRONG VĂN XUÔI HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG 101
KẾT LUẬN 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116































3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi thời đại đều sản sinh ra dạng thức văn học mang đặc tính của nó.
Thời thế đổi thay, có những thể loại văn học ở đỉnh cao huy hoàng rồi lại lùi
vào vang bóng một thời nhường ngôi cho thể loại khác. Nhưng, cũng có
những thể loại từ cổ xưa cho đến nay như một mạch ngầm lặng lẽ mà vẫn dồi
dào tràn chảy. Có thể nói, ký là một trong những thể loại như vậy. Nói một
cách khách quan, so với các thể loại khác thì ký ở vị trí khiêm tốn và thường
bị xem nhẹ hơn. Tuy nhiên, trong văn học thế giới nói chung, văn học Việt
Nam nói riêng, “với tư tưởng dân chủ mạnh mẽ, với tinh thần sẵn sàng “dấn
thân”, nhập cuộc, ký đã trở thành thể loại tiên phong nhất của dòng văn học
thời kỳ đổi mới, trên cơ sở tôn trọng hiện thực khách quan (tính xác thực của
đối tượng “người thật việc thật”, ký đã góp phần đắc lực vào việc phản ánh
trung thực những vấn đề bức xúc, nóng hổi nhất của đời sống hàng ngày”
[65]
Trong lịch sử văn học nhân loại, ký đã có sức sống hàng nghìn năm. Ở
Việt Nam, các tác phẩm ký cũng đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng phải đến

những năm 30 của thế kỉ XX, ký mới thật sự được khẳng định như một thể
loại đồng đẳng với các thể loại khác với nhiều tác phẩm giá trị của các tác giả
nổi tiếng. Từ đó đến nay, người viết ký không phải là ít, nhưng có một vị trí
và đóng góp đối với thể loại thì thật ít tên tuổi. Và, “Hoàng Phủ Ngọc Tường
là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm
nay” [19, tr.847]. Nhiều người đã cho rằng đối với thể ký ở Việt Nam, sau
Nguyễn Tuân là Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT). Chính Nguyễn Tuân cũng
đánh giá cao những trang ký của HPNT là những trang văn “rất nhiều ánh
lửa”. Có thể nói, trong dòng ký hiện đại Việt Nam, ký của ông là sự tiếp nối

























4
sáng tạo và khẳng định sức sống bền bỉ của thể loại. Với vị trí và đóng góp
không nhỏ như vậy cho thể loại nói riêng, văn học Việt Nam hiện đại nói
chung, tên tuổi HPNT được bạn đọc trong và ngoài nước biết đến. Tuy nhiên,
trong thực tế, chỉ đến khi tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? được đưa
vào chương trình Ngữ văn 12, nhiều người mới thật sự quan tâm đến tác giả
và tác phẩm HPNT và đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu về
văn chương của ông một cách hệ thống.
Là giáo viên dạy văn, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các tác giả có
mặt trong chương trình sách giáo khoa văn ở nhà trường. Từ dự thảo thay
sách môn văn THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo (bắt đầu triển khai từ năm
2004 -2005), các tác phẩm ký đã được quan tâm hơn, trong đó có bút ký Ai
đã đặt tên cho dòng sông? của HPNT. Thực tế, ký là thể loại còn nhiều mới
mẻ và khó đối với học sinh nên không phải học sinh nào cũng rung cảm sâu
sắc trước những trang ký đẹp, tài hoa về quê hương đất nước. Hơn nữa, thời
đương đại, chiến tranh đã qua đi nhưng nỗi buồn chiến tranh vẫn lắng đọng
âm thầm mà hậu thế không phải ai cũng hiểu. Bên cạnh đó, trước những
thách thức của thời kỳ hội nhập, đời sống có nhiều biến động sâu sắc. Vì vậy,
tìm đến những trang văn thấm đẫm nỗi niềm trăn trở của HPNT, chúng ta sẽ
thấy trân trọng cuộc sống hiện tại và không chỉ thêm yêu Huế mà còn tự hào,
yêu thương mảnh đất Việt hơn.
Với tất cả những lí do trên, xuất phát từ lòng say mê, yêu thích những
trang hoa của HPNT và mong muốn góp phần khẳng định vẻ đẹp con người,
văn chương của tác giả cũng như rút ngắn khoảng cách giữa bạn đọc với các
tác phẩm của ông nói riêng, thể ký nói chung, chúng tôi lựa chọn đề tài 
xuôi Hoàng .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Lấy mốc khởi nghiệp văn chương từ năm 1972 ở tuổi 35 khi tập bút ký
Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu được xuất bản, cho đến nay, HPNT đã miệt
























5
mài hơn 30 năm trên trường văn vinh quang có, nhưng cũng không ít nhọc
nhằn. Chừng ấy năm với hơn chục tập sách đã làm nên tên tuổi HPNT bởi
“phần đóng góp khiêm tốn nhưng vô cùng quý báu của Hoàng Phủ Ngọc

Tường cho “Bản hợp xướng ngôn từ hoàng tráng của nền văn học hiện đại”
[19, tr.5]. Vì thế, những bài viết về con người và tác phẩm HPNT tương đối
nhiều. Tính đến nay có đến hàng trăm bài viết trên các báo, tạp chí, trang
web. Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề của những người đi trước, chúng tôi
chỉ hệ thống lại những bài viết, ý kiến giá có giá trị mà chủ yếu là những lời
bàn của giới viết, bạn bè văn nghệ sĩ về con người, tác phẩm HPNT và một
số công trình luận văn, luận án những năm gần đây.
Ngay từ những tập sách đầu tay, HPNT đã được nhiều người trong giới
viết và bạn bè văn nghệ sĩ quan tâm, ngợi ca. Nguyễn Tuân - ông hoàng của
thể ký Việt Nam trong bài Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa
đã khẳng định vẻ đẹp ấm nóng tình đời, tình người của những trang ký
Hoàng Phủ. Sau bài viết của Nguyễn Tuân, có nhiều bài viết khác cảm nhận
về “chất lửa” trong văn HPNT như: nhà báo Phạm Xuân Hùng với bài Lửa
phù dung đăng trên Báo Quảng Trị số 5/1999; Ngô Minh Hiền với bài Biểu
tượng lửa trong văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tường in trên Tạp chí Khoa học
số 6/2004; Dạ Ngân với bài Hoàng Phủ Ngọc Tường - Nỗi niềm của lửa in
trên báo Văn Nghệ số tháng 12/2006.
Các tập sách tiếp theo, tên tuổi HPNT đã được khẳng định với một
phong cách viết ký đặc trưng đầy sáng tạo. Mỗi người có một cách cảm khác
nhau về những trang ký của ông nhưng có thể xếp theo các hướng cảm nhận
sau:
Khẳng định ký HPNT lấp lánh sắc màu văn hóa, thấm đượm chất Huế,
đau đáu hướng về cội nguồn tiêu biểu là những bài viết: “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” - Bút ký sử thi của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Giáo sư Trần
Đình Sử (báo Văn Nghệ số 7/1987); Đọc bút ký “Rất nhiều ánh lửa” của nhà

























6
văn Nguyễn Văn Bổng; Ký văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường của nhà văn
Trần Thùy Mai (tạp chí Sông Hương số 05/2002), Chiêm cảm Huế di tích và
con người của Hoàng Bình Thi; Hoàng Phủ Ngọc Tường, một tâm hồn Huế
của NSND, đạo diễn điện ảnh Đặng Nhật Minh (Tạp chí Sông Hương số
05/2002).
Ngợi ca những trang ký của HPNT phản ánh chân thực, sinh động hiện
thực chiến tranh, hiện thực đời sống hiện đại và vẻ đẹp tâm hồn của một nhà
văn “có cái tâm đỏ thắm vì CON NGƯỜI vì TỔ QUỐC” có bài viết chia sẻ
cùng HPNT của nhà văn Nguyên Ngọc trong tập bút ký Rượu hồng đào chưa
nhắm đã say (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001); Hoàng Phủ Ngọc Tường -

người kể chuyện cổ tích chiến tranh của Phạm Phú Phong (tạp chí Sông
Hương số 161-06/2002); Nghĩ về văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường của
Ngô Minh (báo Văn hóa Nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh số 7/2002); Về việc
giảng dạy thể ký và Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong chương trình văn
học phổ thông của Tiến sĩ Lê Trà My (Tạp chí Giáo dục số 49 năm 2006).
Khám phá vẻ đẹp văn chương của những trang ký trữ tình HPNT viết
về thiên nhiên có bài viết: Huế vẫn xanh và Tường vẫn trong (báo Văn hóa
Thể thao số 2/11/1998) và Thế giới tồn tạo bởi sự lễ độ (Văn nghệ Trẻ số
22/8/1998) của nhà văn Văn Cầm Hải; Người lễ độ với thiên nhiên của nhà
báo Lê Đức Dục (báo Thừa Thiên Huế số 2/1/2000); Xin được nói về Hoàng
Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên của Lê Thị Hường (tạp chí
Sông Hương số 161-7/2002); Hoàng Phủ Ngọc Tường và nỗi ám ảnh hoa
phù dung của Ngô Minh (báo Phụ Nữ số ngày 24/2/2005), Hoàng Phủ Ngọc
Tường và tài sản sông Hương của Kim Oanh (báo Tuổi trẻ số ngày
29/11/2008); Vẻ đẹp của một dòng sông của Vũ Thị Luyến (tạp chí Văn học
trẻ, số T5 (1888)/2009);
Khâm phục tài năng, nghị lực, sức sống phi thường và sự “ham chơi”
của HPNT có bài viết: Đọc bút ký “Rất nhiều ánh lửa” của Hoàng Phủ Ngọc

























7
Tường của nhà văn Nguyễn Văn Bổng (bài phát biểu trong buổi lễ trao giải
thưởng văn học, Hội Nhà văn Việt Nam 1981-1982); Viết về tập bút ký
“ngọn núi ảo ảnh” của nhà thơ Hoàng Cát (báo Văn Nghệ số 12/1999);
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong mắt tôi của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (báo
Văn hóa và Đời sống, Xuân Quý Mùi); Từ A đến Z với Hoàng Phủ Ngọc
Tường của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (tạp chí Sông Hương số 161-7/2002);
Hoàng Phủ Ngọc Tường - người ham chơi của nhà thơ Ngô Minh (báo Tuổi
trẻ số ngày 20/9/2007) và Người theo "chủ nghĩa" mê đi của Hạnh Lê (báo
Quảng Nam số 2/2007);
Trên đây là một số lời đánh giá nhận xét về con người và văn xuôi
HPNT, ngoài ra, còn khá nhiều bài viết với tấm lòng trân trọng, yêu mến
những trang hoa của ông mà trong phạm vi luận văn có hạn chúng tôi đã
không trích dẫn. Đó là các bài viết: Đọc tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường
(Đặng Tiến), Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn sống để viết (Trần Thuỳ Mai), Đọc
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” nghĩ về chặng đường sáng tác của Hoàng Phủ
Ngọc Tường (Phạm Phú Phong), Đọc Nhàn đàm của Hoàng Phủ Ngọc Tường
(Hoàng Sĩ Nguyên),

Những năm gần đây, đã có sinh viên, học viên ở một số trường đại
học lớn say mê nghiên cứu, tìm hiểu văn chương HPNT để làm luận văn,
luận án, như: Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường của Nguyễn Thị Bích Ngọc (Luận
văn thạc sĩ khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002); Chất trữ
tình trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường của Luơng Thị Hiền (Khoá luận tốt
nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004; Bút ký Hoàng Phủ Ngọc
Tường của Phạm Thị Lan Anh (Khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2005); Hướng dẫn học
sinh đọc hiểu tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Phạm Quế Hằng
(Luận văn tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005);
Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của

























8
Ngô Minh Hiền ( Luận án tiến sĩ ngữ văn, Viện Văn học, 2009); Đặc trưng
nghệ thuật trần thuật ký Hoàng Phủ Ngọc Tường của Vũ Thị Lệ Mỹ (Luận
văn thạc sĩ khoa học văn học, Đại học Huế, trường đại học Khoa học,
2009);
Tóm lại, tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy những bài viết
đều đã nói đến những nét tiêu biểu về con người và văn chương HPNT. Ông
là nhà văn được đánh giá cao với vị trí là một trong những đỉnh cao trong ký
Việt Nam, có nhiều đóng góp cho thể loại và văn học nước nhà. Tuy nhiên,
những đánh giá đó mới chỉ là những lời nhận xét chung, khái quát tùy theo
tấm lòng của người yêu quí con người và văn chương HPNT mà những công
trình nghiên cứu hệ thống về văn chương HPNT còn rất ít. Vì vậy, dựa vào
cảm nhận, đánh giá quý báu của những người đi trước như những con đuờng
đã mở, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu hệ thống, cụ thể về văn chương HPNT
dưới góc nhìn thể loại, soi chiếu văn chương của ông theo các đặc trưng thể
loại, góp phần khám phá vẻ đẹp của những trang ký đầy sáng tạo của ông.
Qua đó, con đuờng bạn đọc đến với nhà văn Hoàng Phủ cũng như thể ký
ngày càng rộng mở hơn.
3. Mục đích - đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Mục tiêu mà luận văn xác định là: chỉ ra những đặc sắc nội dung và nét
độc đáo của nghệ thuật biểu hiện mang tính riêng của thể loại in đậm trên các
trang văn xuôi của HPNT.
Luận văn sẽ góp một tiếng nói khẳng định vị trí, đóng góp của HPNT
về sự tiếp nối và phát triển thể ký ở Việt Nam nói chung, ký trữ tình nói riêng

qua những đặc trưng của thể loại. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu này
còn có ý nghĩa như một tài liệu mang tính hệ thống cho những người yêu
mến văn xuôi HPNT tìm đến để hiểu về thể ký và con người, văn chương của
ông.
























9
Đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là văn xuôi HPNT dưới góc nhìn thể loại.
Phạm vi nghiên cứu là các sáng tác văn xuôi đặc sắc của HPNT, ở đó
in đậm những đặc trưng thể loại khẳng định tài năng, phong cách, đóng góp
của tác giả khiến tên tuổi của ông được tỏa sáng trên văn đàn văn học Việt
Nam hiện đại. Cụ thể, chúng tôi tập trung tìm hiểu các sáng tác văn xuôi của
HPNT từ năm 1972 đến năm 2002 được chọn lọc trong tuyển tập HPNT và
các tập xuất bản sau năm 2002:  -  1:
Nhàn đàm (Trần Thức tuyển chọn, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh,
2002); - : Bút ký (Trần Thức tuyển
chọn, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2002);    
- : Bút ký (Trần Thức tuyển chọn, Nhà xuất bản Trẻ, TP
Hồ Chí Minh, 2002);      (Nhà xuất bản Đà Nẵng,
2003);  (Nhà xuất bản Trẻ,
2005);  (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)
Chúng tôi cũng mạnh dạn so sánh đối chiếu tác phẩm ký của HPNT
với một số tác phẩm của các nhà văn viết ký khác như Nguyễn Tuân, Tô
Hoài, Vũ Bằng. Nhưng các nghiên cứu, so sánh đó không được tách ra thành
các chuyên mục riêng mà đặt trong hệ thống với các tác phẩm của HPNT.
Đặc biệt, việc so sánh không nhằm chỉ ra sự hơn kém mà chỉ giúp phần hiểu
sâu sắc hơn về những nét độc đáo trong sáng tác của HPNT.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp liên ngành

























10
Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu chính trên, chúng tôi còn sử
dụng một số phương pháp khác như phương pháp tiểu sử, phương pháp cấu
trúc, để thấy được giá trị nội dung, nghệ thuật độc đáo trong văn xuôi HPNT.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu (8 tr.), kết luận ( 5 tr.), tài liệu tham khảo (11 tr.),
phần nội dung của luận văn (100 tr.) gồm có ba chương:
Chƣơng 1: Khái lƣợc chung về thể ký và hành trình sáng tác của
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
Chƣơng 2: Quan niệm nghệ thuật về đời sống và con ngƣời trong

văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện của nghệ thuật biểu hiện










































11



NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ THỂ KÝ VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.1. khái niệm về thể loại
Ký là một thể loại văn học thuộc phương thức tự sự lấy người thật,
việc thật làm đối tượng miêu tả và phản ánh. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa viết ký là sao chép y nguyên cuộc sống. Sức hấp dẫn của ký là đem lại
niềm tin cho người đọc với sự thuyết phục của những trang văn vừa có vẻ
đẹp văn chương, mỹ học, cảm xúc, vừa chân thực bám sát cuộc sống. Nên,
cũng như bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào, cuộc sống hiện thực chỉ là cái cớ,

là xuất phát điểm để nhà văn trình bày quan điểm thẩm mỹ của mình. Do đó,
để viết được những trang ký hay thì điều quyết định chính là tài năng chứ
không phải là sự tình cờ. Viết ký khó và viết nhiều mà hay thì càng không
đơn giản chút nào nên trong thực tế tồn tại nhiều quan niệm, cách tiếp cận
khác nhau về thể loại này.
Có hai hướng quan niệm trái ngược nhau trong việc đánh giá thể loại
ký. Nhiều người, trong đó có cả các nhà văn, nhà phê bình văn học có cái
nhìn “xem thường”, “hạ thấp”, "thiếu tín nhiệm" đối với ký, coi ký “là công
việc của tay trái, ký là thể loại đàn em so với các thể loại văn học khác”, "là
một loại thủ công nghiệp mang tính chất gia công ( ) là phương tiện để các
nhà văn thời đại “lấy ngắn nuôi dài” ( ) là một sản phẩm văn học thứ cấp

























12
(sous litérature)”. [18. tr.163+164]. Đây là "những thành kiến vô lý", "bất
công và sai lầm"! Mặt khác, cũng có nhiều người đã khẳng định vị trí, vai trò
của ký. Trong đó, có nhiều ý kiến đồng nhất khi khẳng định tính chiến đấu
của thể loại này như: B.Pôlêvôi, một tác giả viết ký quen thuộc xem ký là thể
loại văn học chiến đấu có hiệu lực cao; Lỗ Tấn xuất phát xem tạp văn là thể
loại “ngôn chí hữu vật”, góp phần tham gia vào đấu tranh xã hội; Giáo sư Hà
Minh Đức khẳng định: “Trong văn học nhiều nước, bút ký góp phần xứng
đáng vào sự phát triển chung của văn học” [40, tr.213] và “các thể ký văn
học góp phần làm cho nền văn học cân đối, nhiều màu sắc và giàu tính chiến
đấu” [40, tr.211]; hay nếu Bùi Hiển xem ký là “vũ khí nhẹ, cơ động và hiệu
lực, có thể xông xáo trên khắp các mặt trận của chiến trường” [40, tr.212] thì
nhà văn Tô Hoài nhấn mạnh: “Từ chỗ bắt đầu như chỉ là những ghi chép có
tính chất tài liệu, ký đã trở thành một vũ khí lợi hại của các nền văn học tiến
bộ và cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp và xây dựng xã
hội” [40, 212];
Tuy nhiên, để xác định khái niệm thể loại ký thì không đơn giản chút
nào nên Tô Hoài cho rằng: “Ký cũng như truyện ngắn, truyện dài hoặc thơ,
hình thù nó đấy, nhưng vóc dáng nó luôn luôn đổi mới, đòi hỏi sáng tạo và
thích ứng. Cho nên càng chẳng nên trói nó vào một cái khuôn” [53. tr.422].
Do đó, tồn tại rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về ký. Có những ý kiến cho
rằng ký nằm giữa ranh giới của các thể loại khác nhau như: “Ký là một biến
thể của loại tự sự” (Gulaiép), là “thể loại nằm giữa nghiên cứu và thơ”
(M.Gorki); là “thể loại nằm giữa truyện ngắn và thơ" (Phạm Hổ); hay theo
Từ điển thuật ngữ văn học thì ký là: “một loại hình văn học trung gian, nằm

giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút ký,
hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký, tuỳ bút,…” [42, tr.137]. Giáo sư Hà
Minh Đức, Phương Lựu, Trần Đình Sử gặp nhau trong việc định nghĩa ký là
thể văn xuôi tự sự với nhiều dạng tường thuật, miêu tả, biểu hiện, bình luận
























13
về những sự kiện và con người có thật trong cuộc sống, nên phải tôn trọng

tính xác thực với mức độ hư cấu trong một giới hạn nhất định. Hoàng Ngọc
Hiến thì định nghĩa: “Trong nghiên cứu văn học Việt nam đương đại ký là
một thuật ngữ được dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiểu
“thể” hoặc “tiểu thể”: bút ký, hồi ký, du ký, ký chính luận, phóng sự, tuỳ bút,
tản văn, tạp văn, tiểu phẩm (ét-xe)…” [43, tr.5] Như vậy, trong các thể loại
văn học, ký có một tọa độ khá đặc biệt và mong manh ranh giới giữa tự sự,
trữ tình, báo chí.
Ký có nghĩa gốc là ghi. Đó là những ghi chép về đời sống thường nhật,
về văn hoá, lịch sử, thiên nhiên,… Nhưng, sự ghi chép cũng có nhiều dạng
thức nên ký không phải là thể loại thuần nhất mà bao gồm nhiều hình thức
ghi chép và biểu hiện cuộc sống như ký sự, phóng sự, bút ký, hồi ký, nhật ký,
du ký, tuỳ bút, tiểu phẩm văn học, bút ký chính luận,… Mỗi tiểu loại này đều
xuất phát là ghi chép nhưng có những điểm riêng xác định. Chúng tôi điểm
qua một số tiểu loại xuất hiện nhiều trong văn xuôi HPNT là:
: Từ trong truyền thống phương Đông, tuỳ bút đã được xác
định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không bị ràng buộc
bởi những khuôn khổ có tính quy phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức
thể hiện. Hiểu theo cảm tính, tuỳ bút là những trang văn xuôi mà nhà văn tùy
theo ngòi bút mà đưa đẩy như Nguyễn Tuân từng quan niệm: "Nguyên tắc
quan trọng nhất của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả". Trong Hán việt từ
điển giản yếu thì tác giả Đào Duy Anh giải thích tuỳ bút là "tuỳ thời mà biên
chép", nghĩa là ngoài cảm xúc chủ quan của người viết, tùy bút còn chịu sự
chi phối của hoàn cảnh khách quan. Có thể hiểu một cách chung nhất, tùy bút
là sự ghi chép về những con người và sự kiện cụ thể có thực và qua đó, tác
giả bộc lộ cảm xúc, suy tư, nhận thức đánh giá của mình về con người và
cuộc sống hiê
̣
n tại.

























14
Bút ký: là một bộ phận của ký văn học, bút ký được xếp vào thể loại
trữ tình. Những trang bút ký kết hợp việc ghi chép con người, sự kiện cùng
với việc bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, tư tưởng tác giả. Đây là “một thể loại
phóng khoáng, tự do mà cá tính nghệ sĩ thường trực tiếp tham gia vào đặc
điểm thể loại” [40, tr.206]. Bút ký không chỉ có những trang thi vị ngọt ngào
đằm thắm mà còn có những trang chính luận phản ánh hiện thực đời sống ở
cái thế trực tiếp, bày tỏ thái độ thẳng thắn đấu tranh, phê phán, châm biếm.

: Theo Từ điển Tiếng Việt, nhàn đàm là “bàn về những vấn
đề không quan trọng và không có trọng tâm” [57, tr.704]. Tuy nhiên, nhàn
đàm nói ở đây không phải là một cách nói về những việc vô nghĩa, “không
quan trọng” mà là một tiểu loại của ký. Hòa cùng đời sống báo chí sôi động
thời kì đổi mới, báo Thanh Niên mở mục Nhàn đàm để khuyến khích tiếng
nói chân thực, dân chủ, cởi mở về những vấn đề xã hội. HPNT là một trong
những nhà văn đã tham gia đắc lực chuyên mục này với những bài viết ngắn
gọn, sắc sảo mang phong cách báo chí. Ở đây, nhà văn chủ yếu hướng ngòi
bút của mình vào những vấn đề nhức nhối đang đặt ra trong cuộc sống, song
đôi lúc, nhàn đàm cũng là nơi HPNT gửi gắm một triết lí sống, một quan
niệm nhân sinh, có khi là một thú vui, một dòng xúc cảm chợt ùa đến,… và
nhất là ông được tự do đàm theo lối riêng của mình. Đối với ông, nhàn đàm
“là một thể loại bút ký cực ngắn và chỉ triển khai một vấn đề”. Tìm hiểu tản
văn Việt Nam thời kì đổi mới, Lê Trà My cho rằng: nhàn đàm của HPNT từ
cuối thập kỉ 90 và những năm đầu thế kỉ XXI “như một sự tái sinh thể loại đã
được Tản Đà khơi nguồn từ những năm đầu thế kỉ XX” [105]. Hoàng Sỹ
Nguyên thì nhận xét: “nhàn đàm mà không nhàn chút nào cả”, đó là “những
chữ màu huyết dụ của máu con chim yến nhả ra xây tổ” [18, tr.11].
: là thể loại có tính chất trung gian giữa truyện và ký nên tác
phẩm thường có cốt truyện hoàn chỉnh tập trung vào việc trần thuật một nhân
vật, thường là những danh dân về khoa học, nghệ thuật; những anh hùng trên

























15
mặt trận chiến đấu và sản xuất; những chính khách; những nhà hoạt động
cách mạng;
Mỗi tiểu loại trên có những nét riêng nhưng về cơ bản đều mang đặc
trưng chung của thể ký như là nền tảng của thể loại đã trầm chắc, lắng đọng
trong suốt chặng đường hình thành và phát triển. Đọc ký của HPNT, có tác
phẩm là truyện ký, có tác phẩm là nhàn đàm, có tác phẩm là bút ký, tùy bút,
nhưng tất cả các tác phẩm của ông đều bám sát đặc trưng cơ bản “người thật
việc thật” của ký. Tuy nhiên, điều đặc biệt là ký HPNT không bị khuôn theo
đặc trưng đó một cách cứng nhắc mà phần lớn các tác phẩm đều thấm đẫm
chất trữ tình. Vì thế, dù viết theo tiểu loại nào của ký, HPNT cũng khẳng
định một phong cách đặc trưung của người sở trường với dòng ký trữ tình.
1.1.2. Những đặc trƣng thể loại
“Về ký, thực tế là không thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể
loại của nó” [53, tr.421]. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là việc tìm

hiểu ký rơi vào con đường bế tắc và ký là cái gì đó chung chung, đại khái chỉ
là một tên gọi chứ không có hồn cốt riêng. Vậy, đặc trưng riêng của thể loại
này là gì? Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần phân biệt ký báo chí và ký văn
học: “Ký văn học và ký báo chí giống nhau ở chỗ đều tôn trọng tính xác thực
và tính thời sự. Nhưng ở ký báo chí tính xác thực phải được đảm bảo ở mức
tuyệt đối, và tính thời sự cũng mang tính chất thật cấp bách, có khi hằng
ngày hằng giờ. Ký văn học không đòi hỏi như vậy, ngược lại nó đề ra yêu
cầu cao hơn về chất suy nghĩ về tình cảm của chủ thể” [53, tr. 419]. Do dó,
có thể xác định rõ hơn đặc trưng cơ bản của ký văn học
Bất cứ thể loại văn học nào cũng bắt nguồn từ cuộc sống. Tuy nhiên,
mỗi thể loại lại có mức độ phản ánh cuộc sống khác nhau, và ký là thể loại
"quan tâm đến hiện thực mãnh liệt". Cụ thể, “Từ trong nguồn của sự sống mà
ra, các thể ký văn học có những mối liên hệ chặt chẽ, sâu xa với hiện thực xã
hội. Nguyên tắc tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống sẽ là cơ sở để tìm

























16
hiểu đặc điểm của tác phẩm ký” [40, tr.217]. Tôn trọng tính xác thực của đối
tượng miêu tả, tác phẩm ký chủ yếu nhằm thông tin sự thật. "ký sự có địa chỉ
chính xác của nó” [53, tr.426] nên đòi hỏi người viết phải là người tham dự,
có mặt chứng kiến hoặc được nghe kể lại một cách tỉ mỉ sự việc bởi điều này
góp phần quan trọng xác minh sự thật và tính xác thực của việc miêu tả. Với
đặc trưng phản nổi bật là ánh chân thực cuộc sống của ký như vậy, nhiều
người quan niệm ký không được phép hư cấu. Pôlêvôi quả quyết chắc chắn:
“ký sự nhất thiết không được hư cấu” [53, tr.429]. Cũng với quan điểm này,
nhà văn Bùi Hiển nói: “Thêm hư cấu hoặc để đưa đẩy sự việc hoặc để dấu ấn
nhưng kết quả chỉ khiến cho sự việc trở thành thực thực, hư hư trong trí
người đọc, không có lợi” [53, tr.428]. Tuy nhiên, ký không phải là những
trang văn “thật” đến mức tuyệt đối. Nhà văn vẫn có thể hư cấu qua vai trò
trung gian của chủ thể và "dù ở dạng này hay dạng khác, cái “quyền hư cấu”
vẫn quay trở lại trong tay nhà văn một cách không có gì cản nổi.” [20,
tr.175+176].
Một đặc trưng quan trọng làm tạo thành nét riêng thể loại nữa của ký là
“sự hợp nhất truyện và nghiên cứu”. Đến với ký, chúng ta có thú vị được
khám phá tìm hiểu nhiều thông tin mới lạ. Nói như vậy không có nghĩa tác
phẩm thuộc các thể loại khác không có giá trị này nhưng trong ký, tác giả có
một khoảng rộng để đưa những thông tin mang tính chất nghiên cứu đa dạng,
phong phú về nhiều ngành như lịch sử, địa lý, văn hóa, triết học, sinh học,…

HPNT cho rằng: "giữa thời đại chúng ta, nhà văn không thể tự cho phép
mình xa lạ với mọi rung động khoa học" [20, tr.169] và khẳng định: "Trong
lĩnh vực của mình, nhà văn bút ký trước hết được tin cậy như một nhà khoa
học thông báo về các hiện tượng, trong thái độ tôn trọng sự-kiện-tính
(facticité) của những gì đã xảy ra" [20, tr.168]
Có những tác phẩm văn học trực tiếp thể hiện suy nghĩ của nhà văn,
cũng có tác phẩm “như tảng băng trôi” mà tư tưởng ngầm chìm để người đọc

























17
tự khám phá. Viết về những điều mắt thấy tai nghe, ký như một mũi nhọn
trực tiếp thể hiện suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng của tác giả. Về đặc trưng
này, có người gọi ký là “sự nhức nhối của trí tuệ”. Và, “Ký có thể phản ánh
bất kỳ sự thật nào trong xã hội, kể cả những điều khủng khiếp nhất. Vấn đề là
ở cách nhìn và thái độ tiếp cận” [43, tr.14]. Như vậy, nhà văn tỉ mỉ quan sát,
ghi ghép, miêu tả,… tưởng chừng như lạnh lùng nhưng thực ra để có được
những trang ký đã phải lao động trí óc cực nhọc với sự nhức nhối chân thành
để đưa ra những ý kiến, quan điểm, suy nghĩ mà không bị rơi vào phiến diện,
áp đặt chủ quan.
Một số đặc trưng cơ bản của thể loại như trên chính là căn cứ để chúng
tôi tiếp cận tác phẩm của HPNT và thấy được vai trò của tác giả là một trong
những người đã góp phần đặt một mảng màu tô thêm vẻ đẹp cho thể loại.
1.2. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại Huế.
Nguyên quán ở làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhưng,
Huế chính là nơi tác giả “đã sinh ra, lớn lên, đã tranh đấu và chiến đấu, đã
yêu thương, đã sống một đời công dân và một cuộc đời riêng tư” [20, tr.31],
là linh hồn, máu thịt của những trang văn Hoàng Phủ. Xuất thân từ một gia
đình chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học và các thế hệ đi trước "chìm đắm
trong mùi hương sách vở của các Nho sĩ Trung Quốc với bộ văn phòng tứ
bảo riêng, là bút, nghiên, giấy, mực" [24, tr.99], tâm hồn HPNT đã in dấu
"tửu, thư, hoa, mộng" và ảnh hưởng không nhỏ tới các trang văn.
HPNT đã có những giai đoạn sống khác nhau. Từng tốt nghiệp Đại học
Sư phạm Sài Gòn khóa I ban Việt Hán năm 1960, là cử nhân Triết Đại học
Văn khoa Huế năm 1964, và trong quãng thời gian từ 1960 đến 1966 dạy học
tại trường Quốc Học Huế. Những năm 60, không khí đấu tranh của nhân dân

























18
cả nước chống Mỹ sôi động khắp nơi, từ tâm trạng mệt mỏi đối diện với
những giờ dạy, HPNT đã bắt đầu tìm hướng đi đích thực cho mình. Năm
1963, ông tham gia phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên và tri thức
Huế với tư cách là Tổng thư kí Tổng hội Sinh viên Huế. Và từ năm 1966 đến
năm 1975, ông thực sự hoà mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ

mà vinh quang. Những năm tháng đó không dài nhưng “giống như ý niệm hạt
nhân của nguyên tử, mang toàn bộ trọng lượng” [24, tr.149], nó in dấu ấn sâu
đậm xuống mọi suy nghĩ, buồn vui suốt cuộc đời nhà văn. Sau giải phóng,
HPNT tham gia công tác quản lý tại các Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và
Quảng Trị, là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1998, căn bệnh hiểm
nghèo đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và sự nghiệp sáng tác của ông. Từ ngày
bệnh, “người ham chơi” HPNT không thể đi lại, cũng không thể cầm bút viết.
Tuy nhiên, hơn chục năm nay, tác giả vẫn từng ngày chiến đấu và chiến
thắng căn bệnh nghiệt ngã với việc viết văn bằng miệng! Sự lên đường
bằng trí tuệ, hoài niệm, kí ức, nghị lực, của ông đã để cho đời những trang
văn lấp lánh giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử.
Cả cuộc đời cầm bút, HPNT đã xuất bản hơn chục tập sách: Ngôi sao
trên đỉnh Phu Văn Lâu (Bút ký,1972); Rất nhiều ánh lửa (Ký, 1979); Ai đã
đặt tên cho dòng sông (Bút ký1984); Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký,
1984); Người hái phù dung (Thơ, 1992); Hoa trái quanh tôi (Bút ký, 1995);
Huế di tích và con người (Bút ký, 1996); Người ham chơi (Nhàn đàm, 1998);
Ngọn núi ảo ảnh (Bút ký, 2000); Trong mắt tôi (Bút ký phê bình, 2001);
Rượu hồng đào (Bút ký, 2001); Miền gái đẹp (Nhàn đàm, 2001); Tuyển tập
Hoàng Phủ Ngọc Tường (4 tập, 2002); Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của
Hoàng tử bé (Bút ký văn hoá, 2005); Miền cỏ thơm (Bút ký, 2007). Ông đã
được nhận một số giải thưởng văn học như: Giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam (1980); Tặng thưởng Văn học Uỷ ban toàn quốc LH các Hội VHNT
Việt Nam (1999, 2008); Giải A giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (1998

























19
- 2003); Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Một đời
theo sự nghiệp văn chương với những trang văn chắt chiu từ vị muối mặn
cuộc đời và được trao các giải thưởng Văn học Nghệ thuật như trên, ông
xứng đáng là nhà văn có đóng góp quan trọng cho thể ký và văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
1.2.2. Hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn có phương pháp chiếm lĩnh đời
sống, thể hiện các quan niệm thẩm mĩ với hiện thực và có những cách xây
dựng hình tượng khác nhau. Đó là con đường tới một thể loại văn học nào đó
mà nhà văn đã định và ghi dấu ấn riêng của mình. HPNT khi bắt đầu sáng tác
đã viết một truyện ngắn (Chuyện một người đi qua sa mạc) và tiểu thuyết
(Cửa rừng). Sau đó, cái duyên nghề nghiệp và tài năng cùng với sự dũng cảm

xuất phát từ tâm huyết của người nghệ sĩ đã đưa HPNT đến với ký và thơ.
Ông đến với ký có lẽ vì hai lí do chính. Thứ nhất, theo như tác giả tâm sự,
viết ký "chẳng qua là việc vá lại chiếc áo cừu của thực tế. Và cũng là “nối
nghiệp cơ cừu” cha mẹ truyền lại" [117]. Thứ hai, ký là thể loại phù hợp với
cá tính, con người HPNT. Hơn nữa, theo quan niệm của nhà văn: "bút ký - ký
là một thể loại văn học có thể diễn tả mọi ý muốn sáng tác của con người”
[83] mà sau khi ra khỏi chiến tranh ông càng thấu hiểu hơn: “tôi nghiệm ra
một điều là tôi cần phải nói gì về trải nghiệm, tiểu thuyết và truyện ngắn có
vẻ như không giúp được tôi điều này. Thế là tôi chọn ký, tôi có thể nói tuỳ
thích những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những trải nghiệm đẹp và cả
khổ đau nữa.” [90]. Đây cũng là xu hướng của thời đại và văn học Việt Nam
bắt đầu thời kỳ đổi mới (từ năm 1986). Hòa cùng với dòng chảy này, ký của
HPNT “nhìn thẳng vào sự thật”, nói lên sự thật bằng cái tâm chân thành của
người nghệ sĩ với một phong cách, cá tính riêng độc đáo. Chúng ta nhắc đến
HPNT bởi trong dòng chảy chung với những đặc trưng cơ bản của thể loại,
ký của ông vẫn có những hồn nét riêng không lẫn với bất cứ ai.

























20
HPNT cũng có những quan niệm sâu sắc, đúng đắn về ký, góp phần
bác bỏ “những thành kiến vô lý” của nhiều người thiếu thiện cảm với thể loại
này. Đối với ông, ký chưa bao giờ là một thể loại thấp trong văn học mà nó
có vị trí ngang hàng với các thể loại khác: “tuổi của ký xem ra cũng đã già
gần bằng thi ca, và cũng giống như thi ca, cho đến bây giờ, nó vẫn giữ được
sức trẻ trung, khỏe mạnh” [20, tr.165], và: “Ký không phải là thừa so với
truyện ngắn, ký cũng không phải là thiếu so với tiểu thuyết” [20, tr.166].
Trong bài viết Một vài suy nghĩ về thể ký, HPNT đã bàn tới một số đặc trưng
của thể ký với những kiến giải riêng, thuyết phục. Ông cho rằng “nhiệm vụ
thông báo” là “lí do tồn tại thiết yếu của bút ký" [20, tr.168] và ký có khả
năng “chuyên chở đến cho người đọc những hiểu biết cần thiết trên mọi lĩnh
vực thông tin của khoa học” [20, tr.168]. Đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ
thông báo, lượng thông tin trong ký phải “có thực, tất cả phải được đảm bảo
bằng thực chứng” [20, tr.170]. Chân thực nhưng không đến mức cực đoan
cho rằng phải tuyệt đối sự thật một trăm phần trăm mà theo HPNT, ký vẫn
được phép hư cấu thể hiện sự “khéo léo” hay cũng chính là tài năng của tác
giả: “Một bút ký giỏi theo tôi phải là một sự hư cấu được ráp lại từ những
mảnh thực tế khác nhau như những mảnh vá nhưng không làm lộ mối chỉ và
nếp gấp” bởi: “Ký là thật, không hư cấu, hoặc phải có cách viết mà độc giả

không cho đó là hư cấu” [112]. Những quan niệm của HPNT về phạm vi,
cách thức hư cấu trong ký đã phần nào hoá giải được sự mâu thuẫn giữa
những vấn đề có tính nguyên tắc giữa một bên là lượng thông tin xác thực
trong ký và một bên là quyền sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, góp phần tháo
gỡ sự băn khoăn và lúng túng của không ít nhà văn cầm bút sáng tác ở thể
loại này. Bằng thực tế viết ký của bản thân trong suốt quá trình hơn nửa đời
người, HPNT đã rút ra những kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật thiết thực và
bổ ích dành cho những người viết ký. Đó không chỉ là yêu cầu đối với người
viết ký mà còn là những yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ ai muốn theo

























21
nghề viết. Ông cho rằng, muốn viết được ký, nhà văn phải “luôn luôn tự đặt
mình trước những kỷ luật nghề nghiệp rất khắt khe, phong phú trong tư liệu,
chính xác trong hiểu biết và trung thực trong tất cả những gì rút ra từ thế
giới nội tâm của người viết”. Ngoài việc chịu khó đọc sách, ông cũng đặc
biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc đi và sống trước khi viết: "các
nhà văn trẻ nên tranh thủ đi thật nhiều ( ) đi để quan sát cuộc sống để nó
thấm vào người.” [83]. Sự trải nghiệm thực tế đối với người viết ký là quan
trọng và cần thiết nhưng hơn thế, lượng thông tin thu lượm được từ thực tế
chỉ thật sự có giá trị khi nó đã được thanh lọc qua tâm hồn người viết ký bởi
“văn chương đòi hỏi cái gì hơn cả máu.” [112]. Những quan niệm của HPNT
về thể loại là sự chắt lắng đong đầy của cả một đời cầm bút. Ông đã hướng
suy nghĩ của mình vào những vấn đề mấu chốt của thể ký, nhất là những vấn
đề còn nhiều tranh luận để bày tỏ quan niệm riêng với những kiến giải hợp lí.
Và thực tế không chỉ là những quan niệm suông mà nhà văn đã khẳng định
qua một loạt trang ký sắc sảo, tài hoa của mình. Đây chính là hướng đường
giúp chúng tôi triển khai cụ thể hơn phần nội dung tiếp theo của luận văn.





































22




Chƣơng 2
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ
CON NGƢỜI TRONG VĂN XUÔI HOÀNG PHỦ NGỌCTƢỜNG

2.1. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG
VĂN XUÔI HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
"Văn học là nhân học" (M. Gorki) nên trang văn trước hết phải là
những trang đời với bộn bề cuộc sống, thân phận, kiếp người. Qua đó, tác giả
thể hiện quan điểm nghệ thuật về đời sống xã hội và con người. Ký là thể loại
tôn trọng sự thật đòi hỏi nhà văn phải phản ánh “người thật việc thật” với một
phạm vi hư cấu có hạn. Đến với những trang văn xuôi thuộc thể ký của
HPNT, quan niệm nghệ thuật về đời sống xã hội và con người được thể hiện
đậm nét dưới nhiều cách nhìn, cách tiếp cận khác nhau của tác giả.
2.1.1. Những trang văn bám sát hiện thực cuộc sống
Đi dọc chiều dài đất nước; lăn lộn trên mặt trận ác liệt trong những
năm chiến tranh; mạnh mẽ, dũng cảm trên mặt trận đổi mới thời bình, HPNT
đã có những trang văn phản ánh chân thực, sinh động hiện thực đời sống xã
hội: từ hành trình chinh chiến đến hoà bình xây dựng, hàn gắn vết thương sau
chiến tranh và những vấn để bức xúc thời hiện đại.
Với ưu thế của thể loại, HPNT đã tạo dựng lại bằng con chữ những
thời khắc chiến tranh máu lửa, đau thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng của
dân tộc, ghi lại những hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường,
đứng vững trước mọi thử thách ngặt nghèo một cách chân thực và có tính
thời sự. Rời bục giảng, HPNT hòa mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân
chống giặc Mỹ xâm lược. Nhà văn đã lấy máu “làm mực”, “trải đời” “làm

























23
giấy”, để viết những trang sử bằng văn chân thành về cuộc chiến tranh chống
Mỹ. Sau chiến tranh, độ lùi thời gian với những chuyến đi thực tế tới những
miền đất nóng bỏng trong cuộc chiến và trực tiếp gặp những người thực, việc
thực đã khiến những suy ngẫm về chiến tranh và cuộc sống của ông càng sâu
lắng hơn. Nhà văn đã tái hiện chân thực, khá chi tiết về tội ác, sự thất bại của
giặc và quá trình chiến đấu anh dũng của quân dân Việt Nam với cái nhìn
chân thật của người đã từng trải qua và thấm hiểu "nỗi buồn chiến tranh".
Tội ác của đế quốc Mỹ đến nay vẫn để lại nỗi đau trên đất và người
Việt. Tội ác đó cũng được ghi lại trong nhiều tác phẩm nghệ thuật. HPNT đã
thêm tiếng nói của mình qua các bài ký chân thực như Hành lang của người

và gió, Đánh giặc trên hàng rào điện tử, Vành đai trong lửa, Miếng trầu đỏ,
Bản di chúc của cỏ lau, Đất Mũi,… để viết lên những lên những bản cáo
trạng đanh thép tố cáo kẻ thù. Tác giả đã tái hiện đậm nét không khí bức bối,
ngột ngạt, "bỏng rẫy" và cả đau thương bọn địch gây ra ở các làng quê trong
chiến dịch tố cộng, diệt cộng: “Cuộc tàn sát diễn ra khắp nơi, ác liệt, khẩn
trương, như thể là bọn chúng tranh thủ thì giờ để giết người” [19, tr.476].
Mỹ Diệm thực hiện “chiến tranh một phía” với các biện pháp đàn áp dưới
chiêu bài tố Cộng hết sức khốc liệt là cái máy chém, chôn sống người, đập vỡ
đầu, thiêu cháy tàn rụi, đòn roi vun vút, Vùng đất đỏ Gio Linh là mảnh đất
ghi dấu tội ác của kẻ thù khi chúng tiến hành các trận càn và xây dựng cái
hàng rào điện tử Mác-ma-ra. Qua một chuyến đi thực tế khá dài ngày, trực
tiếp gặp gỡ những con người đã lăn lộn nhiều năm trong cuộc chiến đấu với
cái hàng rào quỷ quái, tác giả thuật lại chi tiết, sinh động lịch sử hình thành
và thất bại của kẻ thù trong kế hoạch tàn độc này. Những con số ghi dấu tội
ác của chúng khiến nguời ta phải giật mình: “Ở Cồn Tiên, trên diện tích hai
trăm hécta đất được giải phóng, đã thu hồi 62.425 quả mìn, và với một trăm
ba chục héc ta của Dốc Miếu, con số là 75.000 quả.” [19, tr.232]. Điên
cuồng rào làng, dồn dân vô ấp chiến lược, kẻ thù đã khiến những người dân

























24
buộc phải rời làng mạc, có những nơi sau chiến tranh tính lại dân bám trụ
"cứ ba người thì chết một” [19, tr.490+491] Đặc biệt, đọc những trang ký
rực lửa căm hờn trong Vành đai trong lửa, tưởng như những trang sử đau
thương, bi ai của bao năm trước hiện về. Giặc Minh xưa kia là:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
(Bình Ngô đại cáo)
Và nay là: “…trong một trận càn vào vùng giải phóng, bọn lính thuỷ
đánh bộ Mỹ đã giết một lúc 145 người, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ
em, trong đó 115 người đã chết ngay chỉ trong mười lăm phút đầu của trận
càn. Gia đình ông Cương có sáu người đều gục chết bên mâm cơm, một em
bé bị báng súng đánh dập đầu, còn lại những bát cơm chan canh và máu. Mẹ
con chị Nhớ, mẹ bị bắn chết, đứa bé mới sinh hai hôm bị chúng xé làm hai
mảnh ném vào lửa…” [19, tr.488] Tàn sát con người, kẻ thù còn rải chất
độc tàn sát cả thiên nhiên. Nhà văn xót xa khi đặt chân đến đâu cũng thấy
thiên nhiên chảy máu và tàn lụi. Kẻ thù rải chất độc da cam “như những cơn
mưa độc thời mông muội” khiến cỏ khô cũng không tồn tại nổi và nhiều khu

rừng đã biến mất.
Chiến tranh, dù nhìn từ phía nào cũng là bi kịch, là sự đổ máu và cái
chết có thể đến bất cứ lúc nào với bất cứ ai. Vì thế, viết về chiến tranh nếu
chỉ tô hồng, lí tưởng, lãng mạn một chiều sẽ không có được những trang sử
chân thực. Nhà văn, hơn ai hết là những người thư kí trung thành của thời đại
sẽ phải viết bằng chính trái tim đau của mình một cách chân thực và nghiêm
cách bởi: “mọi cách mô tả có tính chất hào nhoáng về chiến công đều thuộc
phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn, thậm chí còn bộc lộ cái phi đạo lí của một
kẻ đứng ngoài cuộc, thích kể chuyện đùa về xương máu” [19, tr.510]. HPNT
đã không ngại kể ra những đau thương, mất mát và đôi khi là cả những con
số trần trụi để tố cáo tội ác của kẻ thù. Đọc ký viết về chiến tranh của ông, có

×