Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004 - 2009.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 121 trang )

Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
1
MỤC LỤC

TRANG
MỞ ĐẦU
4
1. Lí do chọn đề tài
4
2. Lịch sử vấn đề
5
2.1. Những công trình bài viết nghiên cứu trên góc nhìn khái quát về
tiểu thuyết chiến tranh cách mạng Việt Nam
5
2.2. Những ý kiến, bài viết về các tác phẩm trong luận văn
9
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
12
4. Phương pháp nghiên cứu
13
5. Cấu trúc luận văn
13
NỘI DUNG
14
Chương 1: Tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng trong
dòng chảy văn học Việt Nam
14
1.1. Các chặng đường phát triển của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
cách mạng Việt Nam


14
1.1.1. Giai đoạn trước 1975
14
1.1.1.1. Từ 1954- 1964
14
1.1.1.2. Từ 1965- 1975
15
1.1.2. Giai đoạn sau 1975 đến những năm 90
16
1.1.2.1. Từ 1975- 1985
17
1.1.2.2. Từ 1986 đến những năm 90
17
1.1.3. Từ những năm 90 đến nay
19
1.2. Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và sự đổi mới của
người sáng tác
21
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
2
Chương 2: Sự tiếp nối và biến đổi trong việc phản ánh cuộc
sống và con người của tiểu thuyết về chiến tranh cách mạng
Việt Nam 2004- 2009
26
2.1. Tiếp cận hiện thực từ cái nhìn đa chiều
26
2.1.1. Hiện thực chiến trường
26

2.1.2. Hiện thực đời sống ở hậu phương
39
2.2. Đổi mới quan niệm về tính cách nhân vật.
43
2.2.1. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
43
2.2.2. Các kiểu nhân vật
44
2.2.2.1. Nhân vật người lính
45
2.2.2.2. Nhân vật kẻ thù
58
2.2.2.3. Nhân vật quần chúng
63
2.2.3. Xây đựng mối liên hệ giữa các nhân vật
66
2.3. Cảm hứng bi kịch mang đậm tính nhân văn
69
2.4. Kết hợp chất sử thi và chất tiểu thuyết.
74
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong các tiểu
thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009
78
3.1. Điểm nhìn trần thuật
78
3.2. Không gian và thời gian
80
3.2.1. Không gian
81
3.2.1.1. Không gian chiến trường

81
3.2.1.2. Không gian văn hóa- lịch sử
83
3.2.1.3. Không gian ảo giác, tâm linh
84
3.2.2. Thời gian
87
3.2.2.1. Thời gian lịch sử- sự kiện
87
3.2.2.2. Thời gian hiện tại đan xen quá khứ
88
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
3
3.2.2.3. Thời gian tâm lí
90
3.3. Ngôn ngữ
91
3.3.1. Ngôn ngữ nhân vật
91
3.3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại
92
3.3.1.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
95
3.3.2. Ngôn ngữ người kể chuyện
99
3.4. Giọng điệu
102
3.4.1. Giọng điệu hào hùng, ngợi ca, thành kính

102
3.4.2. Giọng điệu trữ tình, mang đậm chất thơ
104
3.4.3. Giọng điệu xót xa, ngậm ngùi
105
3.4.4. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên
106
3.4.5. Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm
108
KẾT LUẬN
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
113









Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
4
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Không có gì quý hơn độc

lập tự do”. Quả thực đây là một chân lí luôn luôn đúng với mọi thời đại.
Với những ai đã từng trải qua chiến tranh, từng đối diện với ranh giới
mong manh của sự sống và cái chết, từng sống trong tâm trạng lo sợ khi
nghe tiếng máy bay kẻ thù gầm rú trên bầu trời, họ sẽ hiểu cuộc sống hòa
bình có ý nghĩa biết chừng nào.
Dường như nhận thức được điều đó, văn học Việt Nam ở nhiều thời
điểm trong quá khứ đã cất lên tiếng nói về chiến tranh, góp phần cổ vũ tinh
thần chiến đấu của dân tộc, hướng con người đi tới một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Trong điều kiện hiện nay, khi chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm, khi
đất nước ta đang trên đà đổi mới và hội nhập, mảng đề tài về chiến tranh cách
mạng vẫn luôn là nguồn cảm hứng khơi gợi sức sáng tạo của bao văn nghệ sĩ.
Quan sát sự phát triển của nền văn học Việt Nam trong những năm đầu
thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy: nền tiểu thuyết Việt Nam đã có sự khởi sắc
với sự phát triển đa dạng của các đề tài, cách thức thể hiện. Bên cạnh dòng
tiểu thuyết thế sự đời tư, tiểu thuyết lịch sử, vv với nhiều cách tân nghệ
thuật quan trọng thì dòng tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng vẫn
là mạch chảy liên tục, không ngừng làm mới mình để đáp ứng những đòi hỏi
ngày càng khắt khe của bạn đọc. Nhiều thế hệ nhà văn vẫn trung thành với đề
tài này, lao động miệt mài trên cánh đồng chữ của mình nhằm tạo ra những
tác phẩm viết về chiến tranh trong cái nhìn tỉnh táo, chân thực hơn. Có một
thực tế mà nhiều người phải công nhận là các sáng tác về chiến tranh cách
mạng một thời đứng ở vị trí then chốt trong nền văn học Việt Nam có lúc có
nơi đã không được quan tâm, thể hiện đúng mức. Thậm chí một số người còn
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
5
cho rằng trong thời đại hiện nay các tác phẩm viết về chiến tranh dường như
không còn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc nữa.
Trong thời gian từ 2004- 2009, Bộ Quốc Phòng đã phát động cuộc thi

sáng tác tiểu thuyết sử thi về đề tài chiến tranh cách mạng. Đây là lần đầu tiên
một cuộc vận động sáng tác văn học được quân đội tiến hành theo phương
thức “đặt hàng” với các nhà văn. Tuy chỉ với thời gian năm năm ngắn ngủi
nhưng nó đã góp phần tích cực thúc đẩy phong trào sáng tác những tác phẩm
viết về chiến tranh. Kết quả thu được từ cuộc thi này hết sức khả quan với
nhiều bộ tiểu thuyết viết về những trận đánh, chiến dịch, sự kiện, nhân vật
trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta. Số lượng và chất lượng tác phẩm
ngày càng nâng lên rõ rệt. Một số tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ
thuật đã đoạt giải và thu hút sự quan tâm của bạn đọc. Trong đó phải kể đến
các tiểu thuyết: Những bức tường lửa (Khuất Quang Thụy), Thượng Đức
(Nguyễn Bảo Trường Giang), Tiếng khóc của nàng Út (Nguyễn Chí Trung),
Mùa hè giá buốt (Văn Lê), vv… Đây là những tiểu thuyết nổi bật được dư
luận đánh giá cao và hơn nữa các tác phẩm này còn có những yếu tố cho thấy
sự đổi mới và xu hướng vận động của tiểu thuyết chiến tranh trong mấy năm
trở lại đây.
Qua sự khảo sát, chúng tôi thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu về
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng giai đoạn trước 1975 và những
năm đầu sau đổi mới của nền văn học, cụ thể là vào những năm 90 của thế kỉ
XX. Tuy vậy các công trình nghiên cứu một cách hệ thống về mảng tiểu
thuyết này trong vài năm gần đây còn khá thưa vắng, hầu hết chỉ là những bài
viết nhỏ lẻ đánh giá và cảm nhận về các tác phẩm.
Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009 (qua các tác phẩm tiêu biểu trên) để
làm rõ những nét mới trong diện mạo, khuynh hướng về một giai đoạn phát
triển của mảng đề tài quen thuộc này trong những năm đầu thế kỉ XXI.
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
6
2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu về tiểu thuyết chiến tranh ở Việt Nam được tiến hành từ
khoảng những năm 60 của thế kỉ trước, đặc biệt là thời kì các tiểu thuyết về
đề tài chiến tranh mang âm hưởng sử thi nở rộ. Cho đến nay số lượng những
công trình, bài viết có liên quan đến tiểu thuyết về đề tài này khá lớn. Điều đó
chứng tỏ rằng giới nghiên cứu, bạn đọc rất quan tâm tới mảng văn học này.
Thật khó để có thể liệt kê được đầy đủ nguồn tài liệu trên, ở đây chúng tôi chỉ
xin điểm qua một số công trình có giá trị hoặc liên quan trực tiếp đến các tác
phẩm trong luận văn của mình.
2.1. Những công trình, bài viết nghiên cứu trên góc nhìn khái quát
về tiểu thuyết chiến tranh cách mạng Việt Nam
Nhắc đến các công trình lớn có đề cập đến tiểu thuyết về đề tàia
tranh cách mạng, chắc hẳn không ai có thể bỏ qua cuốn Tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại của Phan Cự Đệ. Đây là công trình nghiên cứu công phu, qua
đó tác giả đã có những nhận định, đánh giá hệ thống về thể loại tiểu thuyết
nói chung và tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng nói riêng. Cũng
trong tác phẩm này, giáo sư Phan Cự Đệ đã phân tích một số tác phẩm văn
học viết về chiến tranh tiêu biểu của văn học Việt Nam trên cả phương diện
nội dung và nghệ thuật.
Là một nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết tìm hiểu về đề tài chiến
tranh cách mạng, Lại Nguyên Ân có khá nhiều bài viết đáng chú ý trên Tạp
chí văn học như Văn xuôi về chiến tranh và hình thức sử thi [3, 21], Văn học
Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám- một nền sử thi hiện đại” [2], vv… Ở
trong những bài viết này, ông khẳng định “tính sử thi là một đặc điểm của nền
văn học Việt Nam mới”, ông xem xét chất sử thi ở cấp độ thể tài, nội dung thể
hiện. Phong Lê cũng là một nhà nghiên cứu có nhiều bài viết về mảng văn
học này và gần đây trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông có bài “Tiểu thuyết
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
7

viết về chiến tranh nhìn từ hôm nay” [41]. Đó là cái nhìn tổng quát về các thế
hệ người viết về đề tài chiến tranh cách mạng của nền văn học nước nhà và
những chuyển biến của mảng đề tài này qua nhiều chặng đường lịch sử cho
đến hôm nay.
Tôn Phương Lan không chỉ là nhà nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn
Minh Châu - một tác giả của những sáng tác về người lính mà bà còn có nhiều
bài viết đánh giá về các tác phẩm chiến tranh rất đáng chú ý như Tiểu thuyết
về chiến tranh viết sau 1975 [37], Chiến tranh trong những tác phẩm văn
chương được giải [38], Người lính trong văn xuôi của các nhà văn cầm súng
[36], vv… và gần đây nhất là bài viết Một cách nhìn về đổi mới tiểu thuyết
chiến tranh [34]. Nhìn chung, tác giả đã theo sát sự phát triển của tiểu thuyết
viết về chiến tranh Việt Nam và có những nhận xét khá thuyết phục về mảng
tiểu thuyết này.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng cũng là một người quan sát sự phát
triển của thể loại tiểu thuyết trong nền văn học Việt Nam nói chung và mảng
tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng nói riêng. Hầu hết các ý kiến đánh
giá của tác giả đã được tập hợp trong cuốn Tiểu thuyết đương đại [55]. Đáng
chú ý trong đó có các bài: Phản ánh chân thực một hiện tượng cách mạng
(Mấy nhận xét về tiểu thuyết sau 1975 viết về kháng chiến chống Mĩ), Cái bi
kịch trong tiểu thuyết Xô Viết và Việt Nam viết về chiến tranh sau chiến tranh
vv… Nhìn chung các bài viết đều có xu hướng khẳng định những đóng góp to
lớn của mảng tiểu thuyết này vào nền văn học cách mạng Việt Nam. Bên cạnh
đó còn có không ít ý kiến bàn về các tiểu thuyết viết về chiến tranh của các
nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Chu Lai, Khuất Quang Thụy vv…
và người nghiên cứu trong cả nước mà chúng tôi không có điều kiện để trình
bày hết được.
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
8

Việc nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh cách mạng không chỉ thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các giáo sư đầu ngành mà mảng đề
tài này cũng được tìm hiểu trong hàng loạt các luận án, khóa luận tốt nghiệp
của rất nhiều học viên, sinh viên các trường đại học. Đáng chú ý nhất là luận
án tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945- 1975 [25] của Hoàng
Mạnh Hùng, Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965- 1975 nhìn từ góc độ thể loại
[19] của Nguyễn Đức Hạnh và Thi pháp tiểu thuyết sử thi 1945- 1975 [21]
của Phạm Ngọc Hiền. Trong luận án của mình, các tác giả đã phác họa cấu
trúc thể loại của tiểu thuyết về chiến tranh mang âm hưởng sử thi ở Việt Nam
trên phương diện: loại hình nhân vật, kết cấu, hệ thống lời văn và giọng điệu;
khẳng định sự xuất hiện tiểu thuyết sử thi giai đoạn 1945-1975 là phù hợp với
quy luật phát triển của lịch sử loại hình tiểu thuyết Việt Nam.
Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi đã tiếp cận được khá nhiều
luận văn thạc sĩ, trong đó phải kể đến các công trình: Nhìn chung tiểu thuyết
Việt Nam từ 1995 đến nay [66] của Phạm Thị Thu Thủy (Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2003), Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai [20] của Phạm
Thúy Hằng (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004), Chiến tranh và người lính
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 75 [22] của Nguyễn Thị Kim Hiền (Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2005), Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Chu
Lai [33] của Nguyễn Thị Mai Lan (Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,
2006), vv…. Đây là những đề tài nghiên cứu về tiểu thuyết chiến tranh cách
mạng ở nhiều thời điểm khác nhau. Trong luận văn của mình, các tác giả đã đi
sâu vào khảo sát một giai đoạn cụ thể của văn học hoặc lấy một tác giả làm
đối tượng nghiên cứu. Nhìn chung các luận văn đã chỉ ra được những nét khái
quát về diện mạo và khuynh hướng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách
mạng Việt Nam, đặc điểm trong các sáng tác của một số tác giả và phân tích
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
9

được những đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu của các tiểu thuyết về chiến tranh
mà họ đã tiếp cận.
2.2. Những ý kiến, bài viết về các tác phẩm trong luận văn
Đầu tiên phải kể đến một chùm bài viết của TS. Nguyễn Thanh Tú trên
Tạp chí Văn nghệ Quân đội như Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết sử thi về đề
tài chiến tranh cách mạng [57], Đổi mới cấu trúc nhân vật trong tiểu thuyết
sử thi hôm nay [59], vv…Trong các bài viết của mình, tác giả đã chỉ ra những
nét đổi mới trong quan niệm, cách thể hiện nhân vật của một số cuốn tiểu
thuyết đoạt giải thưởng văn học Bộ Quốc Phòng như Những bức tường lửa,
Thượng Đức, vv
Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy là tác phẩm đoạt giải A
trong đợt trao giải năm 2004 của Bộ Quốc Phòng đồng thời cũng đoạt giải
thưởng Hội Nhà văn 2005. Đánh giá về tác phẩm này, Nguyễn Thanh Tú có
bài Những bức tường lửa và sự đổi mới của tiểu thuyết sử thi [58]. Tác giả
cho rằng đây là tiểu thuyết mang âm hưởng sử thi và cái làm nên sự hấp dẫn
của tác phẩm này chính là sự đổi mới cấu trúc nhân vật.
Nguyễn Chí Hoan có bài Luận về người anh hùng, về chiến thắng và về
đồng đội [24]. Trong bài viết của mình, tác giả nhận xét tiểu thuyết này đã
đem lại cái nhìn mới mẻ trong văn chương viết về chiến tranh.
Trong số những tác phẩm được nhận giải B của đợt trao giải thưởng
văn học Bộ Quốc Phòng 2004- 2009, Thượng Đức của Nguyễn Bảo Trường
Giang đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và độc giả khắp nơi
trong cả nước. Đánh giá về tiểu thuyết này, Nguyễn Hữu Quý có bài Dấu ấn
Thượng Đức [48]. Trong bài viết này, tác giả cho rằng đây là “một bước tiến
trong sáng tác” của Nguyễn Bảo và cái làm nên thành công của cuốn tiểu
thuyết chính là “phần tư liệu được xử lí khéo léo vẫn giữ tính lịch sử mà
không nặng nề”, nhà văn cũng không “xem nhẹ phần hư cấu”.
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng

10
Nguyễn Chí Trung trong bài Về tiểu thuyết Thượng Đức [68] đã khẳng
định được những mặt mạnh của tiểu thuyết trên phương diện nội dung. Tiểu
thuyết đã không chỉ cho người đọc thấy được “những con người phía ta và
phía địch trong cuộc chiến đấu căng thẳng Thượng Đức” mà còn giúp họ thấy
được “một phần nào đó cuộc chiến đấu, phần nào đó nơi hậu phương, mặt này
mặt kia thời chiến tranh chống Mĩ ác liệt”.
Bùi Bình Thi có bài Đọc Thượng Đức, suy nghĩ về tiểu thuyết sử thi
[56]. Trong bài viết này, tác giả không chỉ chứng minh Thượng Đức là cuốn
tiểu thuyết mang đậm màu sắc sử thi mà người viết còn chỉ ra những yếu tố
làm nên sự thành công cho tác phẩm này là cách miêu tả nhân vật, cấu trúc và
lối hành văn trong sáng.
Tác giả Văn Chinh có lời khuyên Nên đọc Thượng Đức trong dịp 30.4
[8]. Ông cho rằng tuy chương đầu của cuốn tiểu thuyết có phần vụng về bởi
mạch văn lê thê nhưng nhìn chung đây là cuốn tiểu thuyết đáng đọc bởi nó
chứa đựng những tư tưởng nghệ thuật mới mẻ.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng lại có nhận xét về tiểu thuyết này
trong bài Tiểu thuyết Thượng Đức và kí ức chiến tranh [55] như sau: “khi
viết về một chiến dịch lớn, có ý nghĩa chiến lược, tiểu thuyết Thượng Đức
có cơ sở để tạo nên tính sử thi, tính hoành tráng của tác phẩm” và nhìn
toàn thể thì “đây là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh ở dạng phân tích
tổng hợp một sự kiện lịch sử lớn trong toàn bộ tiến trình chiến tranh”.
Ngoài ra một số tờ báo điện tử cũng có bài viết giới thiệu về tác phẩm này
của Nguyễn Bảo Trường Giang.
Nằm trong diện đồng giải B trong đợt trao giải thưởng văn học của Bộ
Quốc Phòng 2004- 2009 là hai tiểu thuyết Tiếng khóc của nàng Út của
Nguyễn Chí Trung và Mùa hè giá buốt của Văn Lê. Tiếng khóc của nàng Út
còn đoạt giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn 2008. Đánh giá về tiểu
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009


Cấn Thị Thu Hằng
11
thuyết đầu tay của Nguyễn Chí Trung, tác giả Nguyễn Bảo có bài Tiếng khóc
của nàng Út- tiếng khóc của một thời [5]. Trong bài viết này, Nguyễn Bảo đã
nhận xét giá trị về nội dung của tiểu thuyết đồng thời ông cũng chỉ ra những
mặt hạn chế trong việc xây dựng cấu trúc tác phẩm, đặc biệt là việc nhà văn
còn chưa xây dựng được những nhân vật đem lại ấn tượng cho người đọc.
Trong bài viết khá sâu sắc Nhớ là để cho khỏi quên (Đọc Tiếng khóc
của nàng Út, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2007) [23], tác giả Nguyễn
Chí Hoan đã có sự phân tích khá tỉ mỉ nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết và
nhấn mạnh đến những xúc cảm mà cuốn tiểu thuyết đem lại cho người đọc.
Trên các trang báo mạng cũng có không ít các bài giới thiệu và cảm
nhận về tác phẩm này. Tiêu biểu trong số đó là bài Nàng Út khóc cho ai? của
Nguyễn Tĩnh Nguyện. Tác giả đã nhận xét: “Nhìn về bố cục không gian, thời
gian của tiểu thuyết Tiếng khóc của nàng Út có thể nói là lỏng lẻo, nhưng với
cấu trúc hiện đại, là có thể chấp nhận được. Nguyễn Chí Trung tập trung miêu
tả con người, các sự kiện ông nêu cũng chính là để nêu bật tính cách con
người. Mỗi nhân vật đều mang bề dày lịch sử” [45].
Phạm Đương trong bài Tiếng khóc của nàng Út thì cho rằng: “Nguyễn
Chí Trung đã có độ lùi đến gần 50 năm kể từ cuộc khởi nghĩa Trà Bồng để
nhìn nhận cuộc chiến tranh bằng sự trải nghiệm hết sức cẩn trọng và chắt lọc.
Vì vậy, ông không quá lên gân để “nói cho khác”, “nói cho lạ” về thời kỳ ấy
nhằm kiếm một chút tò mò nào đó của người đọc hôm nay; nhà văn cũng
không còn mang cái nhìn “một chiều” như những cuốn sách viết về chiến
tranh ngay trong thời chiến mà ta đã từng đọc” [13].
Tác giả Nguyễn Chí Trung trong bài Đôi dòng về Tiếng khóc của nàng
Út lại khẳng định: “Nguyễn Chí Trung là một ngòi bút triết luận. Ông có khả
năng tổng hợp và phân tích sâu sắc những tình huống đặc thù của lịch sử.
Tiếng khóc của Nàng Út, do đó, là một tiểu thuyết sử thi, một tiểu thuyết triết
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009


Cấn Thị Thu Hằng
12
luận, một tiểu thuyết lịch sử” [69]. Nguyên Thanh trong bài viết Rằng hay thì
thật là hay [54] nhận xét về các tác phẩm đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn
Việt Nam 2008 cũng đánh giá cao tiểu thuyết này. Tác giả đã chỉ ra cái hay,
cái mới của tác phẩm đó chính là cách chọn tình huống, mạch chìm tư tưởng
mà hơn nữa người viết còn có những quan niệm nghệ thuật mới về con người.
Mùa hè giá buốt của Văn Lê khi mới ra đời Tạp chí Văn nghệ Quân
đội cũng có bài phỏng vấn tác giả về đề tài chiến tranh và những nội dung
được đề cập đến trong tiểu thuyết này.
Nguồn tài liệu mà chúng tôi đã tiếp cận được tuy chưa đầy đủ trong số
rất nhiều những công trình nghiên cứu, bài viết về tiểu thuyết chiến tranh cách
mạng nhưng đó cũng là những tài liệu quý báu, làm cơ sở để chúng tôi triển
khai luận văn của mình. Điểm qua một số công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết chiến tranh cách mạng trên cả hai góc độ khái quát và cụ thể, chúng tôi
thấy còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu có hệ thống về mảng tiểu
thuyết này trong mấy năm trở lại đây. Đó cũng là lí do, chúng tôi chọn việc
tìm hiểu tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng 2004- 2009 với mong
muốn đưa đến một cái nhìn khái quát hơn về mảng tiểu thuyết này.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Phân tích những nét mới của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách
mạng giai đoạn 2004- 2009 trên cơ sở kế thừa những đặc điểm của tiểu thuyết
chiến tranh các giai đoạn trước.
Làm rõ những nét nổi bật về nghệ thuật của tiểu thuyết giai đoạn này.
Từ đó khẳng định sự đóng góp của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng
đối với tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong một số tác phẩm
đoạt giải thưởng văn học của Bộ Quốc Phòng trong năm năm gần đây. Trong
đó có những tác phẩm vừa đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn vừa đoạt giải

Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
13
thưởng văn học của Bộ Quốc Phòng. Đó là Những bức tường lửa (Khuất
Quang Thụy), Thượng Đức (Nguyễn Bảo Trường Giang), Tiếng khóc của
nàng Út (Nguyễn Chí Trung), Mùa hè giá buốt (Văn Lê). Ngoài ra trong luận
văn, chúng tôi cũng tìm hiểu thêm một số tác phẩm khác trước và sau giai
đoạn 2004- 2009 để làm rõ những luận điểm trong luận văn của mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu: phương
pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và vận dụng
lí thuyết của thi pháp học để tìm hiểu các tiểu thuyết tiêu biểu của giai
đoạn này.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được
triển khai thành ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng trong dòng
chảy của văn học Việt Nam
Chương 2: Sự tiếp nối và biến đổi trong việc phản ánh cuộc sống và con
người của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009
Chương 3: Những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật trong các tiểu thuyết
về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009








Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
14
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
CÁCH MẠNG TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM

1.1. Các chặng đƣờng phát triển của tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh cách mạng Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1975
Nhìn một cách tổng quát, chúng ta có thể thấy sự phát triển của nền văn
học cách mạng Việt Nam luôn gắn liền với các bước đi của lịch sử của dân
tộc. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỉ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc Việt Nam đồng thời cũng mở ra một thời kì mới cho văn
học nước nhà. Nói chính xác hơn là từ 1945- 1975, nền văn học của nước nhà
đã tồn tại và phát triển trong điều kiện dân tộc ta phải tiến hành hai cuộc chiến
tranh lâu dài và ác liệt. Những đặc điểm lịch sử ấy đã chi phối và ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển của nền văn học dân tộc.
Trong giai đoạn từ 1945- 1975, nội dung bao trùm toàn bộ đời sống của
đất nước là hai cuộc chiến đấu cho độc lập tự do, thống nhất đất nước, cho lí
tưởng xã hội chủ nghĩa. Nền văn học mới của dân tộc cũng không tách rời
nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
Làm nên diện mạo văn học dân tộc lúc này là những bộ phận văn học: thơ ca
và tiểu thuyết, truyện, kí trong đó bộ phận tiểu thuyết viết về chiến tranh cách
mạng chiếm vị trí không nhỏ và đã được những thành tựu đáng kể.
1.1.1.1. Từ 1955- 1964
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, nền văn học Việt
Nam có sự phát triển mạnh mẽ ở phương diện văn xuôi, đặc biệt là thể loại
tiểu thuyết. Lúc này, đề tài về cuộc kháng chiến vẫn thu hút sự chú ý của

nhiều nhà văn. Các tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Sống
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
15
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi
Đức Ái, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm, Cao điểm của Hữu mai, Đất lửa
của Nguyễn Quang Sáng vv chính là những tác phẩm hướng về cuộc chiến
tranh tiêu biểu của giai đoạn này.
Những tiểu thuyết trên không chỉ tái hiện hình ảnh cuộc kháng chiến
trường kì và anh dũng của nhân dân ở nhiều địa phương trên các mặt trận,
trong hoàn cảnh đầy khó khăn mà chúng còn khắc họa những chiến công to
lớn và cả sự hy sinh nhiều khi thầm lặng của họ. Đặc biệt là nhiều tác phẩm
đã xây dựng được những hình tượng đẹp tiêu biểu cho lòng yêu nước, tinh
thần dũng cảm của con người Việt Nam. Anh Hùng Núp trong Đất nước đứng
lên của Nguyên Ngọc và chị Tư Hậu trong Một chuyện chép ở bệnh viện là
những nhân vật như thế.
Tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn này có những đặc điểm khác
với sự phát triển của nó ở những giai đoạn sau. Trong một số sáng tác, nhiều
tác giả đã chú ý thể hiện nhân vật, vì thế các biến cố và sự kiện có trọng đại
đến đâu cũng không che khuất được nhân vật trong tác phẩm. Các tiểu
thuyết có sự phối hợp thể tài lịch sử dân tộc với thể tài đời tư và thế sự trong
đó thể tài lịch sử có vị trí chủ đạo, chi phối những thể tài khác. Nhìn chung
nhiều tiểu thuyết giai đoạn này khai thác mảng thể tài lịch sử theo khuynh
hướng sử thi.
1.1.1.2. Từ 1965- 1975
Bước vào thời kì phát triển mới, tiểu thuyết viết về chiến tranh cách
mạng Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển. Các tác phẩm tập trung đi sâu vào
phản ánh cuộc chiến đấu chống Mĩ của dân tộc. Với lực lượng sáng tác đông
đảo hơn, trong giai đoạn này nền văn học dân tộc đã có khá nhiều tác phẩm

viết về cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ thành công. Tiêu biểu phải kể
đến những tác phẩm như Hòn đất của Anh Đức, Rừng U Minh của Nguyễn
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
16
Văn Bổng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Đất Quảng (phần I)
của Nguyễn Trung Thành. Ngoài ra còn có thể kể đến Dấu chân người lính
của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Vùng trời của Hữu Mai.
Trong giai đoạn này, nhiều sáng tác đã kịp thời phản ánh hiện thực
chiến tranh một cách trực diện, thể hiện hình ảnh nhân dân trong quá trình
thức tỉnh cách mạng và góp phần cổ vũ cuộc chiến đấu của dân tộc. Cảm
hứng chủ đạo trong các tiểu thuyết là “cảm hứng anh hùng và phạm trù thẩm
mĩ nổi trội là cái cao cả, cái hùng” [16, 136]. Các nhà văn đã mở rộng không
gian, thời gian, miêu tả những bức tranh rộng lớn mang tính sử thi về một
chiến dịch hay tập trung khái quát quá trình vận động và phát triển của cuộc
chiến đấu với sự trưởng thành của người anh hùng, người lính thuộc nhiều thế
hệ và tầng lớp xã hội trong chiến đấu. Nhân vật của tiểu thuyết vẫn là những
anh hùng tiêu biểu cho khát vọng, phẩm chất sức mạnh của nhân dân, dân tộc,
thời đại. Chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong
Hòn Đất của Anh Đức, Mẫn trong Mẫn và tôi của Phan Tứ, Lữ trong Dấu
chân người lính của Nguyễn Minh Châu vv là những nhân vật anh hùng đi
sâu vào trong trí nhớ của độc giả bao đời nay.
Nhìn chung, các tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn này vẫn được
viết trên theo khuynh hướng sử thi rõ nét. Yếu tố sử thi này đã chi phối đề tài,
cảm hứng và cách thể hiện của các nhà văn. Tuy có những thành công nhất
định như vậy nhưng có thể nói các sáng tác viết về chiến tranh trong giai đoạn
1945- 1975 do chịu ảnh hưởng của tư duy sử thi nên nó vẫn có những hạn chế
trong việc phản ánh hiện thực, xây dựng nhân vật và nghệ thuật thể hiện.
1.1.2. Giai đoạn sau 1975 đến 1990

Sau 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất. Sự kiện ấy đã mở ra một thời
kì mới của lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đem đến một giai đoạn mới trong
lịch sử văn học Việt Nam.
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
17

1.1.2.1. Từ 1975- 1985
Trong khoảng mười năm sau khi kết thúc chiến tranh, các nhà văn vẫn
có thiên hướng tập trung khám phá cuộc chiến “theo quán tính cũ” (Nguyên
Ngọc). Trong khá nhiều tác phẩm, âm hưởng sử thi vẫn còn in đậm. So với
các giai đoạn trước, thời kì chuyển tiếp từ văn học sử thi sang văn học thời kì
hậu chiến này, tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng không có nhiều tác
phẩm nổi bật. Tuy vậy vẫn có một số tác giả tìm tòi, đổi mới trong nội dung
và cách thức thể hiện, đặc biệt là từ những năm 80 trở về sau. Ở các sáng tác
này, chiến tranh được tiếp cận ở cự li gần, toàn diện hơn, cảm hứng sử thi
nhạt dần và thay vào đó là cảm hứng thế sự. Hiện thực chiến tranh đã được
đào sâu hơn với cái nhìn chân thực. Một số tác giả đã mạnh dạn hơn khi chọn
những thời điểm khốc liệt, gay cấn của chiến tranh làm bối cảnh khám phá
tính cách con người như Miền cháy của Nguyễn Minh Châu, Trong cơn gió
lốc của Khuất Quang Thụy, Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay của
Nguyễn Trí Huân, vv…
Trong giai đoạn này, có một số tác phẩm đã gây được sự chú ý của
đông đảo bạn đọc. Đây là những cuốn tiểu thuyết cho thấy sự đổi mới của
người viết trong việc tiếp cận hiện thực và phản ánh về con người trong chiến
tranh. Nội tâm, tính cách của người lính bắt đầu được khai thác và cấu trúc
thể loại của tiểu thuyết đã có sự biến đổi từ cấu trúc lịch sử - sự kiện sang cấu
trúc lịch sử - tâm hồn. Kết cấu thời gian- không gian của tiểu thuyết cũng có
sự vận động, đặc biệt bắt đầu có sự xuất hiện của vùng kí ức của nhân vật.

1.1.2.2. Từ sau 1986 đến những năm 90
Đại hội Đảng lần VI đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra
một thời kì mới cho đất nước vượt qua khủng khoảng để bước vào giai đoạn
phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc hơn. Đường lối của Đảng và tiếp
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
18
theo là Nghị quyết 05 của Bộ Chính Trị, cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ đã tác động không nhỏ vào đời sống
văn nghệ của nước nhà, mở ra thời kì mới của văn học Việt Nam trên tinh
thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật.
Có thể nói trong giai đoạn này, văn học viết về chiến tranh cách mạng
của Việt Nam đã thực sự ghi dấu ấn trong lòng độc giả với nhiều tác phẩm có
giá trị. Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm mở màn cho khuynh
hướng tiếp cận những vấn đề của cuộc sống sau chiến tranh theo khuynh
hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần
nhân bản. Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân,
Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo vv đã cho thấy sự đổi mới từ
phía chủ thể sáng tạo khi khai thác đề tài chiến tranh đồng thời là những tiểu
thuyết đánh dấu bước tiến của nền văn học với cách thể hiện mới mẻ, ghi đậm
dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Đặc biệt đến khi Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ra đời thì tiểu
thuyết này đã thực sự gây được sự chú ý rộng rãi của bạn đọc trong và ngoài
nước. Có thể nói, trước đó hiếm có tác phẩm viết về chiến tranh nào thu hút
được sự quan tâm của dư luận như tác phẩm này. Bằng việc bỏ qua lối viết
truyền thống, đi sâu vào dòng ý thức, khai thác những màn độc thoại, môtip
giấc mơ, Bảo Ninh đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn chiến tranh của thế hệ
những người lính phải trải qua cuộc chiến. Đó “là cái nhìn mới về hiện thực
chiến tranh và con đường mới viết về chiến tranh trong thời kì hậu chiến”

[51]. So với giai đoạn trước, các tiểu thuyết viết về chiến tranh của giai đoạn
này yếu tố sử thi đã không còn nổi trội mà thay vào đó là cái nhìn đa dạng
về cuộc chiến từ góc độ thế sự - đời tư, âm hưởng sử thi vẫn còn song đóng
vai trò ở thế yếu.

Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
19
1.1.3. Từ những năm 90 đến nay
Sau cao trào của mình, từ giữa những năm 90 đến nay, tiểu thuyết viết
về chiến tranh cách mạng Việt Nam phát triển có phần chững lại. Nhận diện
về sự phát triển của mảng tiểu thuyết này, người ta thấy các sáng tác dường
như thưa vắng hơn so với các thời kì trước và có thời điểm nó đã không được
quan tâm đúng mức. Phải chăng đề tài chiến tranh cách mạng hiện nay đã
không còn đất sống? Hay độc giả ngày nay đã xa lạ với những tác phẩm viết
về đề tài này?
Đứng trước thực trạng ấy, các cơ quan chuyên ngành, nhà nghiên cứu
và độc giả cả nước đã có rất nhiều cuộc hội thảo văn học về đề tài chiến tranh
cách mạng. Không ít người đã tỏ ra thất vọng trước thực trạng của các nhà
văn viết về đề tài này. Họ cho rằng văn học Việt Nam chưa tạo được những
tác phẩm viết về chiến tranh xứng tầm, có sức sống lâu bền trong công chúng.
Thậm chí còn có ý kiến khẳng định “văn học chiến tranh, cả bạn đọc lẫn nhà
văn đều kiệt sức”. Tuy vậy hầu hết các ý kiến cho rằng trong giai đoạn hiện
nay, “đề tài chiến tranh và người lính tuy không còn là nhất, là chủ đạo, là
thống soái của nền văn học Việt Nam nhưng nó có vị trí quan trọng, vẫn là
nguồn cảm hứng sâu sắc đối với các văn nghệ sĩ” [73, 156].
Nhiều người đã phân tích nguyên nhân khiến cho văn học viết về chiến
tranh cách mạng rơi vào tình trạng trên như: chiến tranh đã lùi xa, có nhiều
vấn đề đời sống xã hội mới khiến các nhà văn dồn hứng thú của mình để khai

thác, tiểu thuyết ở mảng đề tài này không còn là món ăn tinh thần duy nhất
của người đọc trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, sự hao hụt của
các cây bút chuyên viết về mảng đề tài này trong khi những người viết trẻ
chưa chuẩn bị thay thế vv… Trong đó, chúng tôi đồng ý với nhận xét của tác
giả Nguyễn Thiệu Vũ trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Theo tác giả có ba
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
20
nguyên nhân khiến cho văn học về đề tài chiến tranh cách mạng không hấp
dẫn người đọc như trước:
1. “Sau năm 1975, các nhà tiểu thuyết đã nỗ lực mở rộng phạm vi phản
ánh hiện thực nhưng chưa có đủ sự táo bạo cần thiết cho việc phát huy trí
tưởng tượng và giải phóng mãnh lực của hư cấu nghệ thuật.
2. Cố gắng tạo dựng những tính cách, số phận độc đáo, đặc biệt nhưng
còn tự giam mình trong những quan niệm nghệ thuật và con người chưa thoát
khỏi tính giản đơn, nhất phiến.
3. Đã ưu tiên cho việc phân tích tâm lí nhưng chưa thực sự dám đối
diện với những bí hiểm của tâm hồn con người” [74, 104]. Và đó cũng có thể
là lí do khiến cho không ít tác phẩm “đọc lên chỉ thấy việc mà ít thấy người,
các cuốn sách ấy gần như chỉ khác nhau về sự kiện, còn khá giống nhau về
chủ đề tư tưởng, thậm chí khá giống nhau về rung cảm, hứng khởi” [47, 106].
Tuy vậy, đề tài này vẫn có sức sống riêng và chiếm vị trí quan trọng
trong dòng chảy của nền văn học nước nhà. Bằng chứng là hàng năm những
sáng tác về chiến tranh vẫn tiếp tục được khai thác, thậm chí có nhiều tác
phẩm đã đoạt giải cao nhất trong các cuộc thi viết tiểu thuyết của các Hội
đồng chuyên ngành và được đông đảo bạn đọc quan tâm theo dõi. Hơn thế
nữa, con đường đổi mới vẫn được tiếp tục.
Cho đến nay Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã xuất bản được số
lượng lớn các bộ tiểu thuyết về đề tài này. Có thể kể đến những tác phẩm như

Không phải huyền thoại của Hữu Mai, Ngày rất dài của Nam Hà, Xuân Lộc
của Hoàng Đình Quang, Khúc bi tráng cuối cùng của Chu Lai, Những cánh
rừng lá đỏ của Hồ Phương, Đường thời đại của Đặng Đình Loan, Sóng chìm
của Nguyễn Đình Chính, Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn, Lạc
rừng của Trung Trung Đỉnh, Xiêng Khoảng mù sương của Bùi Bình Thi,
Phòng tuyến sông Bồ của Đỗ Kim Cuông, Những bức tường lửa của Khuất
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
21
Quang Thụy, Mùa hè giá buốt của Văn Lê, Tiếng khóc của nàng Út của
Nguyễn Chí Trung, Thượng Đức của Nguyễn Bảo Trường Giang, Bên dòng
Sầu Diện của Nguyễn Đình Tú vv… Số lượng các tác phẩm viết về chiến
tranh ra đời trong một thập niên gần đây khá lớn. Nó như là một minh chứng
cho sức sống của một đề tài quen thuộc của văn học Việt Nam.
Khảo sát những chặng đường phát triển của tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh cá ch mạ ng trướ c và sau 1975 đến nay, chúng ta có thể khẳ ng đị nh mả ng
tiể u thuyế t về đề tà i nà y có sự tiế p nố i liên tụ c về đề tà i và cả m hứ ng . Đi cù ng
vớ i nhữ ng biế n độ ng lị ch sử củ a dân tộ c , tiể u thuyế t chiế n tranh cũ ng có
nhữ ng bướ c đi thăng trầ m trong quá trình phá t triể n củ a mì nh . Nó là “một
dòng chảy bền bỉ, thủy chung, có lúc ẩn đi, có lúc trồi lên, có lúc gặp thác
ghềnh thì tung bọt nhưng rồi nó vẫn tiếp tục lao về phía trước như một cảm
hứng vĩnh cửu của dân tộc” [27]. Tất nhiên mảng đề tài này có những hằng
số và biến đổi nhất định theo thời gian. Ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc
vài chục năm nay thì những vấn đề lớn có liên quan đến cuộc chiến vẫn còn
được nhìn nhận lại. Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là “một vỉa quặng
càng đào bới càng màu tốt không bao giờ sợ cạn kiệt” [65].
1.2. Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và sự đổi mới của
ngƣời sáng tác
Sáng tác văn học là một công việc không những đòi hỏi tâm huyết của

mỗi nhà văn mà nó còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố: tâm lí sáng tạo,
sự tiếp nhận của bạn đọc, sự giao lưu văn hóa vv Nói cách khác mỗi tác
phẩm của nhà văn khi ra đời đều ít nhiều đều gắn liền với tinh thần thời đại.
Nếu như trước 1975, nền văn học Việt Nam có nhiệm vụ động viên, cổ vũ
cách mạng, thắp sáng ngọn lửa yêu nước cho con người thì sau khi đất nước
thống nhất, nhiệm vụ ấy không còn là vấn đề cốt yếu nữa. Bối cảnh cuộc sống
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
22
hậu chiến và những nét mới của nền văn hóa chính là một yếu tố dẫn đến nhu
cầu đổi mới tư duy văn học như là một điều tất yếu.
Từ sau năm 1986, nền văn học của nước nhà đã có sự chuyển mình để
hướng tới một diện mạo khác sau nhiều năm chiến tranh. Sự đổi mới này
được đánh dấu bằng hàng loạt những bài viết của Nguyễn Minh Châu. Trong
các bài viết của mình, nhà văn đã thẳng thắn nhìn lại những bất cập của nền
văn học trong giai đoạn chiến tranh và bày tỏ mong muốn “hãy đọc lời ai
điếu cho một nền văn học minh họa” ấy. Lời kêu gọi của Nguyễn Minh
Châu đã tạo được hiệu ứng tích cực trong nhận thức của nhiều nhà văn.
Dưới tác động của thời cuộc và sự nhạy cảm vốn có của người nghệ sĩ, nhiều
người viết đã kịp thời chuyển hướng và thay đổi tư duy sáng tác của mình.
Họ đã có sự đổi mới trong quan niệm, tư tưởng, cách viết. Ở lĩnh vực tiểu
thuyết, nhiều tác giả đã có sự thể nghiệm, sáng tạo trong cách tiếp cận hiện
thực, thể hiện chủ đề, đề tài.
Dĩ nhiên khi nhắc đến sự đổi mới của nền văn học nước nhà, chúng ta
không thể bỏ qua giai đoạn nửa cuối thập kỉ 70- những năm liền ngay sau khi
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đây là giai đoạn có sự chuẩn bị âm
thầm, tạo đà cho sự đổi mới tích cực về sau. Ở thời điểm này, một số người
viết đã bắt đầu có ý thức đổi mới trong sáng tác của mình. Các nhà văn viết về
chiến tranh đã tiếp cận hiện thực ở cự li gần hơn, bước đầu thấy cả những mặt

trái của cuộc chiến trong những tác phẩm mà cảm hứng sử thi vẫn nổi trội của
mình. Nhưng có lẽ phải đến khi bộ tiểu thuyết Đất trắng (1979) của Nguyễn
Trọng Oánh ra đời, tác phẩm này mới thực sự gây được sự chú ý của dư luận
bởi những nét đổi mới của chính tác giả khi viết về chiến tranh. Tuy vậy sự
đổi mới trong các sáng tác này dường như “chỉ nặng nề về phương diện cái
được phản ánh” [36].
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
23
Sự đổi mới vẫn được tiếp tục trong những năm sau đó và mọi cố gắng
của các nhà văn đã tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ về “chất” cho tiểu
thuyết Việt Nam nói chung và tiểu thuyết viết về chiến tranh nói riêng. Nói
cách khác ý thức đổi mới tư duy nghệ thuật của các nhà văn đã đem lại
những kết quả khả quan cho nền văn học. Những tác phẩm mang khuynh
hướng sử thi từ cảm hứng, đề tài, chủ đề, thế giới nhân vật đến kết cấu,
giọng điệu, tô đậm sức mạnh của tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng
dần dần vắng bóng và thay vào đó là những tiểu thuyết đi sâu vào khám phá
tâm lí của con người, ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con người cá thể đã
được thức tỉnh trở lại.
Trên hành trình sáng tạo của mình, nhiều nhà văn đã có công “đẩy
những khuynh hướng nghệ thuật của những nhà văn đi trước đến một chiều
kích mới” [51]. Đơn cử như Bảo Ninh, anh đã “quyết liệt từ bỏ hình thức
tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu thuyết – ký sự như Đất
trắng) để theo đuổi tiểu thuyết tâm lý. Anh đưa vào những chiều kích hiện
thực chưa từng có trong tiểu thuyết của những nhà văn thế hệ trước: yếu tố
tình dục, những “hình ảnh đen” về chiến tranh,… Nhưng đồng thời, anh
cũng sáng tạo nên một sắc thái anh hùng mới của văn học viết về chiến
tranh” [51]. Xu hướng tìm tòi, đổi mới đã đem đến sự “lột xác” cho nền văn
học vào những năm 90.

Những năm đầu của thế kỉ XXI, vấn đề đặt ra với các nhà văn bây giờ
không phải là đổi mới nữa mà là đổi mới như thế nào. Làm sao để có một tác
phẩm viết về chiến tranh thu hút được người đọc khi chiến tranh đã đi qua
hơn một phần tư thế kỉ, khi mà hàng ngày, hàng giờ con người có biết bao sự
việc phải quan tâm? Bàn về về hướng đi của mảng tiểu thuyết này, nhà nghiên
cứu Tôn Phương Lan đã bày tỏ quan điểm: “Tiếp tục truyền thống văn xuôi
những năm 90, một vấn đề đặt ra trong các tiểu thuyết viết về chiến
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
24
tranh những năm gần đây là làm thế nào để không đơn giản chỉ là tạo dựng lại
những mô hình cấu trúc mang tính mô phỏng hiện thực, và thế giới nghệ thuật
của nhà văn phải thể hiện được sự độc đáo của cá nhân mình” [34]. Giáo sư
Phong Lê lại cho rằng các nhà văn cần quan tâm đến đối tượng độc giả của
mình: “Viết về chiến tranh trong bối cảnh và yêu cầu của thời bình. Viết về
chiến tranh cho một đối tượng đọc mới, với số đông, và ngày càng đông hơn
là những thế hệ sinh ra trong hòa bình. Chính các thế hệ bạn đọc này sẽ quyết
định gương mặt mới của văn học. Vấn đề không phải chỉ là trang trải, là dốc
hết bản thân cho một món nợ phải trả; mà còn là, hoặc chủ yếu là tìm đến, là
đón đợi một giao thoa và đồng cảm với các thế hệ bạn đọc mới; là đọc được ở
họ những gì họ đang mong đợi” [41, 125].
Nhìn vào đội ngũ các nhà văn viết về chiến tranh hiện nay, chúng tôi
thấy lực lượng các nhà văn quân đội đóng vai trò chủ đạo. Các nhà văn mặc
áo lính vẫn có tác phẩm viết về chiến tranh mang lại nhiều cảm xúc cho người
đọc. Những cái tên như Nam Hà, Hồ Phương, Lê Lựu, Chu Lai, Trung Trung
Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Văn Lê, vvv vẫn sẽ là những tác giả của chủ yếu
khai thác đề tài chiến tranh trong nhiều năm tới. Tất nhiên lực lượng các nhà
văn một thời trải qua chiến trường ngày càng mỏng đi do tuổi tác và nhiều
yếu tố khách quan chi phối. Trong khi đó, thế hệ các nhà văn kế cận vẫn là

một bài toán khó. Các nhà văn trẻ hiện nay dường như không mặn mà lắm với
văn học chiến tranh tuy vậy không có nghĩa là họ hoàn toàn quay lưng lại với
mảng đề tài “truyền thống” này. Mỗi lớp nhà văn có ưu thế riêng song hẳn các
nhà văn trẻ hôm nay chắc phải có cái nhìn khác về cuộc chiến bởi họ được
sinh ra trong hòa bình. Tất cả những điều đó tạo nên sự đa dạng trong cách
nhìn và thể hiện chiến tranh của các nhà văn hôm nay.
Dù nói gì đi chăng nữa, chúng ta có thể thấy các nhà văn hôm nay
vẫn đang tiếp tục đổi mới trên hành trình sáng tác của mình. Được sống
Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam 2004- 2009

Cấn Thị Thu Hằng
25
và viết trong điều kiện thuận lợi, họ có thể thỏa sức sáng tạo theo cách
riêng của mình. Tiếp tục xu hướng dân chủ hóa của văn học giai đoạn
trước, hơn lúc nào hết, họ ý thức được rằng sáng tác văn học về chiến
tranh “phải đáp ứng nhu cầu tinh thần mới – bằng các hình tượng nghệ
thuật giúp các thế hệ sau tìm thấy cái chìa khóa để mở cánh cửa vào quá
khứ, để nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề trong hòa bình, trong đời
thường dễ bị lu mờ, lãng quên” [55, 18].
Từ sự đổi mới của người viết, tiểu thuyết viết về chiến tranh đã có
bước phát triển mới, nhất là trong hơn một thập niên trở lại đây. Đặc biệt
kể từ khi Bộ Quốc Phòng phát động cuộc thi viết sử thi về đề tài chiến
tranh cách mạng thì mảng tiểu thuyết này đã thực sự khởi sắc và có những
nét biến chuyển riêng của mình. Các tác giả đã tạo nên những tác phẩm
vừa có sự tiếp nối của giai đoạn trước vừa có dấu ấn của thời “hậu chiến”.
Trong đó quan niệm về hiện thực và con người đang dần đổi mới. Khoảng
cách sử thi đã được thu hẹp. Không nằm ngoài quỹ đạo vận động của nền
tiểu thuyết nước nhà, mảng tiểu thuyết này vẫn là “dòng riêng giữa nguồn
chung” trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại. Nó không hề
đứng yên mà đồng hành cùng với sự phát triển của nền văn học dân tộc.











×