Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.01 KB, 97 trang )



TRƯỜNG ĐH QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ DƢƠNG




TÍNH LIÊN TỤC VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG
SÁNG TÁC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI
SAU NĂM 1986


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 0121



Người hướng dẫn khoa học: TS.PHẠM XUÂN THẠCH


Hà Nội tháng 03/2012



2
2

MỤC LỤC LUẬN VĂN


Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu
Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình
sáng tác của nhà văn
20
1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn
1.1.1 Nhà văn Nguyễn Khải
1.1.2 Những chặng đường sáng tác chính.
1.1.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của
Mỹ
1.1.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước
1.1.2.3 Thời kỳ sau 1975
1.1.2.4 Thời kỳ sau đổi mới.
1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải
1.2.1.Trước năm 1986.
1.2.2.Sau năm 1986.
Chƣơng 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm
1986
2.1.Tính liên tục trong nội dung
2.1.1 Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực
2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn
2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.
2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86
2.1.2.1 Những con người của thời cuộc.
2.1.2.2 Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.
2.2 Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm



3
3
2.2.1 Giọng triết lý, tranh biện
2.2.2 Kết cấu tác phẩm
Chƣơng 3: Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986
3.1 Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh
3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.
3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.
3.1.3. Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm
lại.
3.2. Một số thay đổi về giọng điệu
3.2.1 Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã
3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
































4
4

Phần Mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nguyễn Khải là một nhà văn thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành từ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chặng đường văn của Nguyễn Khải luôn
vận động theo dòng chung, tiêu biểu cho sự phát triển của nền văn học Việt
Nam sau Cách mạng. Với một sức sáng tạo mạnh mẽ, trong nửa thế kỷ cầm
bút, ở thời điểm nào ông cũng là người có những sáng tác kịp thời để phục vụ
nhu cầu của bạn đọc. Ngay ở tác phẩm đáng đọc đầu tiên là Xung đột (1957),
nhà văn đã cho thấy hình ảnh của một miền Bắc thu nhỏ, với những cuộc đấu
tranh chính trị quyết liệt xảy ra trong từng xóm thôn, từng gia đình, từng con
người. Sau những năm chiến tranh khói lửa, lực lượng nào sẽ nổi lên, chi phối

xã hội? nông thôn sẽ đi về đâu? Tiếp tục con đường đã đi trong kháng chiến
hay trở lại con đường u tối do thực dân và các thế lực tôn giáo khống chế?
Những câu hỏi như thế đã dự báo sự ra đời của một ngòi bút chính luận sâu sắc
sau này. Từ sau Xung đột, Nguyễn Khải hướng ngòi bút của ông vào nhiều vấn
đề khác nhau của hiện thực xã hội. Cuộc đấu tranh nào cũng muốn tiếp tục,
cũng phải chỉ rõ những thành quả, những hứa hẹn chờ đợi Từ Mùa lạc đến
Đứa con nuôi, Chuyện ngƣời tổ trƣởng máy kéo đều nhất quán trong một
giọng chung mà sau này Nguyễn Khải gọi đó là cảm hứng lãng mạn. Những
nhân vật như chị Đào, như Thoa, Thi, bé Tấm là loại mà vẫn được văn học xưa
nay đề cập rất nhiều. Họ đại diện cho một đại chúng làm gì cũng được, khổ
mấy cũng tìm ra niềm vui, vừa trải qua cái khổ đã vui ngay được, trước những
hạnh phúc đơn sơ lại càng dễ tìm thấy niềm vui thực sự. Nếu trong tác phẩm
của Thạch Lam, Nguyên Hồng, họ được miêu tả như những nạn nhân bất lực
của hoàn cảnh thì trong văn học sau 1945, họ lại được miêu tả trên vai trò là
những chủ nhân chính của một xã hội mới. Ở Nguyễn Khải cũng vậy. Cái tài
của nhà văn là đã miêu tả những nét hồn nhiên trong sinh hoạt của con người
với tất cả niềm say mê có thể có. Kể từ năm 1945, đây là những năm đầu tiên,
quần chúng lao động được hưởng những thành quả lao động của một chế độ


5
5
mới, con người không phải chạy bom đạn, lại có bát cơm trắng ăn, có bộ quần
áo lành lặn để mặc, vợ chồng con cái tối tối quây quần bên nhau chứ không còn
chia ly, xa cách như hồi nào. Dưới con mắt họ, thực tế xung quanh như đang
phục sinh. Cho đến cả thiên nhiên cũng hiện lên thiết tha, đắm đuối. Như sau
này Nguyễn Khải tự nhận, chưa bao giờ ngòi bút nhà văn ở ông lại ham tả cảnh
như ở trong thời viết Mùa lạc. Mượn cảnh để nói những say đắm trong lòng
người, mà cũng để bộc lộ cho hết những rung động, hồi hộp tha thiết trong
chính lòng mình. Cách hiểu, cách nghĩ của tác giả lúc này thường chan chứa

những tình cảm hào hứng, một sự thán phục không giấu giếm: với cái hăm hở
của tuổi trẻ, ông sẵn sàng đẩy mọi thứ lên tới cực đoan mà cũng là những tổng
kết có tính chất lý thuyết. Ví như chỉ qua một ít may mắn ban đầu, nhân vật
Đào trong Mùa lạc tìm thấy cuộc sống mới, nhà văn đã khái quát: “Sự sống
nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những gian khổ hy sinh.
Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là
phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”.[28- 33]. Tuy nhiên cũng
phải nhận thấy rằng những ý nghĩ về cuộc sống trong giai đoạn này là thành
thực, cái cảm hứng chủ đạo chi phối ngòi bút Nguyễn Khải lúc ấy là thế nào thì
ông viết ra thế ấy không một chút giả tạo, không nói theo ai hoặc vay mượn ở
ai. Trong sự hồn nhiên của nó, những khái quát nói ở đây xác định một tâm lý
thịnh hành đương thời là cảm thấy cuộc đời ngày nay khác hẳn ngày xưa, lịch
sử như được bắt đầu tóm lại, là một cái gì phảng phất lối cảm nghĩ theo hướng
tôn giáo. Có điều, cái mà nhà văn tôn thờ chính là đời sống. Ông không kêu gọi
sự khổ hạnh, sự ép xác mà ngược lại, ông đặt niềm tin yêu vào tất cả những gì
tự nhiên, đẹp đẽ của cuộc sống này.
Vào khoảng những năm 1960 trở đi, một trong những đề tài lớn của các nhà
văn sống ở miền Bắc là viết về phong trào hợp tác hoá. Ngày nay, đọc lại
những sáng tác mang nặng tính “phục vụ kịp thời” ấy, nhiều người mỉm cười.
Tuy nhiên không phải là ở đó không có những trang sách có giá trị, ngày nay
vẫn còn được đọc lại. Riêng với Nguyễn Khải, đọc những truyện ông kể về
người, về việc ở hợp tác xã Đồng Tiến, Phú Thọ, chúng ta cũng bắt gặp một sự
say mê hết lòng chẳng khác gì ngày nào ông đã nói về cái đội sản xuất trên


6
6
Điện Biên ở Mùa lạc. Thường trong các thiên truyện viết về hợp tác, Nguyễn
Khải không giảng kỹ thuật sản xuất, cũng không đi vào minh hoạ bước đi
thường có của phong trào, mà đưa ra bức tranh toàn cảnh của nông thôn và

dừng lại ở những rắc rối vừa hồn nhiên, vừa không thể tránh khỏi khi đi vào
làm ăn tập thể. Trong khi khéo léo vạch ra những nhố nhăng, buồn cười và cả
những xót xa, cảm động trong cách tính toán mang tính vụ lợi có ở người nông
dân, tác giả không quên đặt vấn đề về nhân cách, tầm nhìn, tầm suy nghĩ của
con người, và đó là một cách làm có sức thuyết phục. Cố nhiên, say sưa ca ngợi
cái này, đôi khi là kèm theo sự chế giễu, phê phán cái kia, và sự chế giễu ở ông
có khi cũng nông nổi, bốc đồng như khi ông ca ngợi.( điều này thể hiện rất rõ
trong Tầm nhìn xa). Chẳng phải ngẫu nhiên, về sau, trong phong trào đổi mới
cách nghĩ những năm 87-88, Nguyễn Khải lại trở lại với thế giới ở xã Đồng
Tiến, để tự so sánh những điều mình dự đoán với sự phát triển của bản thân
hiện thực. Tuy nhiên, dù nói thế nào thì Cái thời lãng mạn được viết về sau
không xoá được những sai lầm ông đã mắc phải của mấy chục năm trước. Qua
các thiên truyện viết thời kỳ này, bạn đọc thấy nổi lên ở Nguyễn Khải một loại
nhân vật mà riêng ông mới có- đó là những nhân vật dù ở đâu, làm gì thì họ
luôn có những tính toán chặt chẽ, thiết thực khiến người ta phải kinh sợ. Và sau
những tính toán không chê vào đâu được ấy, người đọc có thể nghe vang lên từ
các trang sách tiếng cười giòn giã của họ, đánh dấu những chiến thắng của kẻ
biết đùa hoặc kẻ đáo để. Có thể nói, chính loại nhân vật được tiếng là không
chịu thua ai ấy đã mang lại cho tác phẩm một vẻ sinh động hiếm có, làm nên
tính hiện đại cho những trang văn Nguyễn Khải Tuy vậy, điều này cũng đem
lại những hạn chế nhất định, bởi cái khôn trong các nhân vật, đó không phải là
sự vận động của trí tuệ mà chỉ đơn giản là một sự thích ứng tối đa với hoàn
cảnh. Con người luôn mải mê phấn đấu cho một mục đích sẵn có, không bao
giờ có những phút dư thừa để băn khoăn về những vấn đề cá nhân. Những lối
sống như thế tuy có làm giản lược con người đi đôi chút nhưng về một phương
diện nào đó nó cũng làm cho con người ta khoẻ lên rất nhiều. Và đó là yêu cầu
mà xã hội trong giai đoạn đó đặt ra cho văn học.


7

7
Như một người chiến sĩ cách mạng chiến đấu không ngừng trên mặt trận
văn hoá văn nghệ, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc,
Nguyễn Khải lại tiếp tục đi tiên phong trong mảng đề tài những sáng tác viết về
chiến tranh. Mở đầu ông có thiên ký sự dài 130 trang- Họ sống và chiến đấu.
Bước vào cuộc chiến khi vừa mới dứt không lâu, Nguyễn Khải cũng như nhiều
người khác tin ở con người, tin ở chiến thắng tất yếu, bởi trong cuộc chiến đấu
ngày hôm nay như đang tiếp tục cái mạch hào hùng của ngày hôm qua. Thế
nên, đến với tác phẩm người đọc như cũng được truyền thêm một lòng tin
mạnh mẽ và sâu sắc, chắc chắn.Từ đây, Nguyễn Khải liên tiếp có mặt trên
những chiến trường đầy khói lửa để từ đó tìm hiểu và cắt nghĩa cốt cách những
chiến sĩ mới- những gương mặt của thời kỳ chống Mỹ. Kể từ Họ sống và chiến
đấu , Nguyễn Khải đã có tới ngàn trang sách đã được ra đời trong những năm
tháng gian lao ấy. Tuy nhiên, đọc tất cả những sáng tác trong thời kỳ này,
những Đƣờng trong mây, Ra đảo và cả Chiến sĩ, người ta đều thấy thiếu đi
một cái hồn phóng khoáng như mọi người mong đợi. Mãi đến khi chiến tranh
kết thúc, với những sáng tác viết để tổng kết chiến tranh như Cách mạng, Gặp
gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời, thì người ta mới thấy lại cái sinh khí đã
từng có ở Xung đột, Mùa lạc được quay trở lại.
Bắt đầu từ sau 1975, sáng tác của Nguyễn Khải cũng đã có những thay đổi
trong việc khai thác vào một địa hạt mới.Mới mươi mười lăm năm trước, người
ta tưởng như nhà văn ấy chỉ có một ám ảnh lớn là làm sao nói bằng được, nói
cho hết những vẻ đẹp khoẻ mạnh cùng sự khôn ngoan của con người.Nay, lần
đầu tiên người ta thấy sự cuồng nhiệt của Nguyễn Khải trong việc đào xới vào
những cùng quẫn, bất lực mà con người phải chịu, và nỗi khát khao không kém
là cùng với các nhân vật của mình xé toạc những tấm màn che đậy cho sự xấu
xa, nhơ bẩn ở đời, để mọi người cùng nhận thức rõ mọi chuyện, rồi từng người
liệu mà sống. Mở đầu cho thời kỳ sáng tác này, người ta thấy nổi lên là vở
kịch Cách mạng, đây là một tác phẩm đáng được coi là bước ngoặt trong cuộc
đời sáng tác của Nguyễn Khải. Bởi lần đầu tiên người ta thấy Nguyễn Khải

công khai đứng ra làm, mà làm một cách triệt để, cái việc lâu nay ông vẫn lảng


8
8
tránh: đó là mang tiểu sử riêng , cuộc đời riêng vào trang sách, lấy chính đời tư
của mình làm tài liệu cho sáng tác.
Nếu như trước 1975, Nguyễn Khải cũng như hầu hết các nhà văn khác đều
đóng chặt cửa, không cho phép ai tìm hiểu tiểu sử riêng của mình qua văn
mình, cũng như cái Tôi của ông hiện lên qua trang sách chỉ là cái tôi của một
chiến sĩ cầm bút nồng nhiệt. Thì sau chiến tranh, khi mà mỗi con người tìm
cách động viên những sức lực cuối cùng cho trận chiến và bản thân nhà văn
cũng phải có những cố gắng phi thường để viết, thì tự nhiên trong nhận thức
của nhà văn có những biến chuyển. Mặt khác, cùng với niềm vui chung- đất
nước nối liền thì cuộc đời riêng của ông cũng có những thay đổi đột ngột- gặp
lại gia đình sau bao nhiêu năm xa cách. Từ đây, ông không còn tránh cái cách
tồn tại của mình là tồn tại thông qua nghề viết nữa. Dường như, ông bắt đầu
cảm thấy chính mình, cuộc đời riêng của mình, những ân oán thù hận cũng như
những rung động vui buồn của mình có thể và cần được trực tiếp trình bày trên
mặt giấy!
Tiếp theo vở kịch Cách mạng , Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
ngƣời…dù được xây dựng theo những cách khác nhau, là đối thoại, tranh luận
hay tự tổng kết triết lý thì người đọc vẫn nhận thấy một âm hưởng chủ đạo
trong đó là khẳng định cuộc chiến thắng tất yếu của dân tộc; cái nhiệm vụ
chính trị mà nhà văn đặt ra cho mình khi cầm bút vẫn được thực hiện một cách
nghiêm túc và trọn vẹn.
Như thế là, đối với một cuộc chiến đấu mà bao người đã đổ xương máu hy
sinh, ngòi bút nhà văn đã theo sát, đã động viên, chia sẻ, đã nghiệm ra từ đó
những ý nghĩa lớn lao. Mặt khác, chính trong cuộc phục vụ tự nguyện và đầy
kết quả này, ngòi bút của nhà văn đã được tôi luyện. Không phải chỉ chúng ta-

những người đọc, mà hình như cả chính tác giả cũng cảm thấy thế. Hình ảnh
nhà văn sau các trang viết: khi nghiêm chỉnh tự vấn, khi tự giễu mình chơi, khi
góp vài lời pha trò, khi chân thành tỏ lòng cảm phục…tác giả đã tự cho phép
mình xuất hiện bên cạnh câu chuyện và mặc dù ông không nói rõ ra nhưng
người ta cảm thấy ông ít nhiều có phần tự hài lòng về bản thân. Điều đó có lẽ
cũng không có gì là lạ, khi mà cả đất nước đang tập trung tất cả vào những


9
9
nhiệm vụ lớn lao. Bản thân Nguyễn Khải cũng đã hoàn thành tốt nếu không nói
là xuất sắc, vai trò của một người cầm bút mà thời cuộc lúc bấy giờ đòi hỏi.
Tuy cũng có lúc “bơi ngược một tí, rẽ ngang một tí” nhưng đó cũng chỉ là nhất
thời, bởi với ông giai đoạn này thì “khuôn mình theo dòng chảy, theo dòng mà
bơi,bơi cùng với đồng đội vừa an toàn vừa vui vẻ” [28-280].
1.2.Sau một chặng đường dài kháng chiến, đất nước bước vào một chặng
đường mới- kiến thiết xây dựng và phát triển. Đời sống văn học cũng theo đó
có nhiều sự đổi thay. Không phải ở một vài tác giả, vài tác phẩm với những dấu
hiệu manh nha đâu đó mà là cả một sự chuyển mình dữ dội. Nhìn vào đời sống
văn học lúc này, người ta ngỡ ngàng, sửng sốt trước những điều mới lạ của nó.
Nguyễn Khải thuộc thế hệ các nhà văn sau cách mạng vẫn tiếp tục được con
đường văn chương mà không bị đứt quãng trong thời kỳ mới. Nếu như trước
đó, Nguyễn Khải được chú ý không chỉ ở chỗ các sáng tác của ông nóng bỏng
tính thời sự, luôn đi cùng thời cuộc mà còn bởi trên cái mạch lớn là sáng tác
phục vụ cách mạng, Nguyễn Khải luôn giữ cho mình một cái nhìn riêng- một
cái nhìn sắc sảo, không xuôi chiều dễ dàng mà luôn lật đi lật lại vấn đề. Tuy
nhiên đối chiếu với nhu cầu lớn của xã hội lúc ấy là tập trung sức lực cho cuộc
chiến đấu, thì cái sắc sảo trong lối tự nhận thức của nhà văn có vẻ không được
hợp thời. Sau khi đất nước thống nhất, và nhất là từ khi đất nước tiến hành cải
cách mở cửa Nguyễn Khải mới có dịp trở lại và phát huy hết những tiềm năng

của bản thân, có điều kiện đánh dấu bản sắc cá nhân của mình lên trang viết.
Manh nha từ năm 1974, những dấu hiệu của lối viết mới đã hình thành (với vở
kịch Đối mặt), và đặc biệt là đến giữa năm 1978, một trong những tác phẩm
quan trọng của nhà văn ra đời - tiểu thuyết Cha và con và….Đây là lần đầu tiên
trong cuộc đời Nguyễn Khải, sự bất lực của con người được ông thể hiện và lý
giải. Từ chỗ chuyên viết về các nhân vật yêu ghét rõ ràng, luôn biết mình muốn
gì và nên làm gì, phải hành động, ứng xử như thế nào để vừa có lợi cho mình
vừa có lợi cho mọi người thì đến nay, người ta thấy Nguyễn Khải lại đi vào
miêu tả những nhân vật nói năng lúng búng, cử chỉ vụng về, càng làm càng bế
tắc, nhìn đâu cũng thấy sự việc rối như tơ vò, không làm sao gỡ ra nổi. Mấy
năm từ khoảng 1988-1989 trở đi, người ta lại chứng kiến một đợt viết sôi nổi


10
1
0
nữa của Nguyễn Khải. Đều đều cứ mỗi tháng một kỳ, người ta lại thấy những
truyện hoặc bài phát biểu của ông in trên tạp chí Văn nghệ quân đội, Tuổi trẻ,
rồi Kiến thức ngày nay, Phụ nữ thành phố Hồ chí Minh Trong khi khá
nhiều nhà văn ở tuổi 50, 60 ngại viết hay viết thưa hẳn đi thì Nguyễn Khải lại
đều đều có mặt, lại luôn gây được ấn tượng. Nhiều người còn đánh giá rằng
tính chuyên nghiệp của ông thời kỳ này có thể so sánh với Tô Hoài, Xuân
Diệu- những kiện tướng quen viết từ hồi tiền chiến và vẫn được coi là viết khoẻ
nhất trong đời sống văn học sau Cách mạng.
Trên một phương diện nào đó, có thể nói chúng ta chứng kiến một cuộc đối
thoại giữa Nguyễn Khải của những năm 89,90 trở đi với Nguyễn Khải của
khoảng chục năm trước. Lần này người ta vẫn thấy những nét đặc trưng trong
ngòi bút văn xuôi của ông được duy trì- đó là sự chiêm nghiệm, triết lý những
mảng hiện thực có tính vấn đề, với những nhân vật tiêu biểu của một thời Bên
cạnh đó, người đọc cũng nhận thấy trong cái nhìn của ông đã có lui, có tới, có

thế này và có thế kia. Một Nguyễn Khải từng trải hơn, nhẹ nhõm hơn, biết vui
mà cũng biết sợ, biết có cuộc đời này và cũng còn có những cuộc đời khác nữa,
khác hẳn với Nguyễn Khải của tuổi trẻ. Điều đáng nói là trong những trang viết
sau đổi mới này, Nguyễn Khải đã làm một cuộc tự phát hiện trở lại. Ở cái tuổi
60, ông vẫn hóm hỉnh như xưa, vẫn hào hứng với sự đời như xưa, song lại có
một cái gì đó tự nhiên, dân dã, có cái nhìn thanh thản và sáng suốt hơn về mọi
chuyện, khác hẳn trước kia. Các truyện ngắn của Nguyễn Khải trước đây dù đã
rất uyển chuyển, sinh động nhưng thường chỉ toát lên một sắc thái nhất định.
Còn ngày nay, đến với truyện của ông, người ta được đến với một thế giới đa
dạng hơn, nhiều sắc thái hơn, cái anh hùng xen lẫn với cái bình thường; cái
đáng căm giận, đáng phỉ nhổ không thiếu nhưng cũng còn bao nhiêu cái đáng
tin yêu tất cả làm nên một cuộc sống thú vị có cả tiếng cười lẫn nước mắt.
Về mặt bút pháp thì trước sau Nguyễn khải vẫn có sự trung thành với mình:
vẫn thích lối kể hơn lối tả, vẫn không để ý nhiều đến cốt truyện, đến cái hình
dáng của câu chuyện mà tập trung vào việc làm nổi bật một nhân vật, một kiểu
người, một cách sống. Bạn đọc vẫn bắt gặp một giọng văn tự nhiên, vừa dân dã
vừa hiện đại.


11
1
1
Như vậy, cũng giống như nhiều nhà văn lớn khác, sáng tác văn xuôi Nguyễn
Khải nói chung và truyện ngắn Nguyễn Khải sau đổi mới nói riêng, bên cạnh
sự thống nhất chung với giai đoạn sáng tác trước đó, là sự đổi mới thích đáng
và hợp lý với thời cuộc. Đó là minh chứng cho sự trưởng thành của một cây
bút. Tuy nhiên điều mà ai cũng có thể nhận thấy, đây là giai đoạn sáng tác khi
Nguyễn Khải đã không còn trẻ, và điều đáng nói là ở giai đoạn này thì phong
cách nhà văn đã định hình. Vậy thì những sự đổi mới ở giai đoạn này có hẳn là
một sự lột xác hoàn toàn trút bỏ những cái cũ vốn thuộc về mình để khoác lên

mình một phong cách hoàn toàn khác? Hay chỉ là một sự đổi mới vẫn dựa trên
cái nền của một bút pháp, một phong cách vốn có? Thế nên, bên cạnh việc
nghiên cứu các sáng tác văn xuôi để thấy được phong cách nhà văn, thì việc
nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong những truyện ngắn trước và sau
đổi mới của Nguyễn Khải cũng là điều cần thiết trong việc hiểu và đánh giá
toàn bộ sự nghiệp của nhà văn này.
Đặt trong sự phát triển chung của cả một nền văn học, người ta thấy rằng
sáng tác của Nguyễn Khải luôn mang những đặc điểm chung của nền văn học
cách mạng Việt Nam.
Luôn xông xáo vào những nơi nóng bỏng nhất của hiện thực, những lĩnh
vực phức tạp nhất của cuộc sống, phản ánh được những mâu thuẫn sâu sắc của
xã hội hay những biểu hiện thầm kín, tinh vi trong đời sống tư tưởng con người
thời đại, đã đưa ông trở thành một ngòi bút đầy tính chiến đấu trong nền văn
học nước nhà Tác phẩm của ông luôn đạt tới một tầm tư tưởng, một mức độ
khái quát cao trong một nghệ thuật đầy biến hoá.
Với dấu ấn phong cách đậm nét, Nguyễn Khải sớm gây được sự chú ý của
giới nghiên cứu, phê bình văn học, đồng nghiệp cũng như sự tò mò của bạn
đọc. Nhiều tác phẩm của ông khi ra đời đã gây nhiều tranh cãi trên văn đàn. Sự
nghiệp của ông trở thành một đề tài nghiên cứu được chú ý. Đến tận hôm nay,
các sáng tác của ông vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ cần bạn đọc quan tâm.
1.3.Nguyễn Khải là một trong số các nhà văn có tác phẩm được đưa vào
giảng dạy ở chương trình phổ thông.Trong chương trình Sách giáo khoa
cũ có truyện ngắn Mùa lạc và trong chương trình Sách giáo khoa mới có


12
1
2
truyện ngắn Một ngƣời Hà Nội. Với tư cách là một người giáo viên thì
việc nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn

Khải sau năm 1986 càng có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập những tác phẩm của ông ở nhà trường phổ thông
2. Lịch sử vấn đề

Với những đóng góp về số lượng và chất lượng các tác phẩm cho nền văn
học nước nhà, sau nửa thế kỷ cầm bút Nguyễn Khải đã được bạn đọc và giới
nghiên cứu đặt ở một vị trí xứng đáng. .
Từ những sáng tác đầu tay còn có phần non yếu về nghệ thuật (Ngƣời con
gái quang vinh-viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi) thì bằng con đường tự bồi
dưỡng và học tập,Nguyễn Khải đã dần khắc phục những thiếu sót ban đầu. Đặc
biệt với vốn sống và vốn hiểu biết phong phú, lại luôn được nhà văn không
ngừng bổ sung qua những chuyến đi thực tế (Nguyễn Khải đã có mặt ở một
vùng công giáo toàn tòng vào khoảng thời gian sau cải cách ruộng đất, khi mà
cuộc đấu tranh giai cấp ở đây đang diễn ra hết sức quyết liệt; ông cũng đã lên
Điện Biên ngay từ lúc nông trường mới ở bước đầu xây dựng; ông đã ra Cồn
Cỏ cũng vào những ngày đầu gay go, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh phá
hoại…). Tất cả đã làm nên một ngòi bút Nguyễn Khải thông minh, sắc sảo
trong khám phá và nắm bắt hiện thực. Nhạy cảm với những “cái hôm nay”, cái
hàng ngày cùng với ngòi bút phân tích sắc sảo đã không những thu hút được
độc giả mà còn gây được sự chú ý với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Đúng
như ý kiến của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong Lời giới thiệu tuyển tập
Nguyễn Khải: “Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu thời đại. Sáng tác
của ông luôn luôn đánh dấu những biến chuyển của xã hội. Với cuộc cách
mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một
bằng chứng, một tài iêu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại
với tất cả những cái hay dở của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc
Nguyễn Khải”.[48-12]. Với ngòi bút hiện thực đặc sắc, năng lực quan sát và óc
phân tích sắc sảo, Nguyễn Khải đã đem đến cho bạn đọc những trang văn thấm
đẫm hơi thở cuộc sống và con người thời đại.



13
1
3
Cùng với sự ra đời của hàng loạt sáng tác khẳng định tài năng và độ chín của
phong cách Nguyễn Khải, thì một số lượng khá lớn các bài nghiên cứu, phê
bình về Nguyễn Khải cũng ra đời và đề cập đến nhiều phương diện khác nhau
trong sáng tác của Nguyễn Khải.
Nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về tác giả, tác phẩm Nguyễn
Khải có bài viết của GS. Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945-1975
(tập II), trong đó GS viết: “…Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy
nghĩ sâu lắng về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải
đáp thuyết phục theo cách của riêng mình. Cho nên trong các tác phẩm của
nhà văn, thông qua những sự kiện xã hội, chính trị có tính chất thời sự nóng
hổi, bao giờ cũng nổi lên những vấn đề triết học có ý nghĩa nhân sinh”.[8-
185]. Cũng trong bài viết này, GS. Phan Cự Đệ đã gọi tên cho cách viết của
Nguyễn Khải là một “ngòi bút hiện thực tỉnh táo” và điều đặc biệt ở Nguyễn
Khải so với các nhà văn khác cũng giàu vốn sống trực tiếp là ở chỗ: nếu các
nhà văn khác xây dựng nhân vật của mình có đường nét gân guốc, giàu chất tạo
hình nhưng tầm khái quát nhân vật lại chưa cao, dấu ấn chủ quan của người
viết còn mờ nhạt thì ở Nguyễn Khải lại hoàn toàn ngược lại, và tác giả khẳng
định: “Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, thông minh, một cây bút có tài năng,
tiêu biểu cho thế hệ các nhà văn xuôi hình thành trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và hiện nay đang kế tục một cách vẻ vang sự nghiệp các nhà văn xuôi
trước cách mạng. Nguyễn Khải đã đóng góp cho nền văn xuôi hiện thực xã hội
chủ nghĩa một phong cách độc đáo với nhiều tác phẩm có giá trị.[8-187].
Ngoài ra còn phải kể đến Lời giới thiệu của Vương Trí Nhàn trong Tuyển tập
Nguyễn Khải (tập I) với nhan đề Nguyễn Khải trong sự vận động của văn
học cách mạng từ sau 1945, trong đó có viết: “Sự gắn bó sâu sắc với đời sống
chính trị của đất nước, niềm ao ước vô tận muốn nắm bắt cho được bao đổi

thay trong cuộc sống cách mạng, cùng là khả năng dựng lên một loại nhân vật
mới đầy ý chí và khao khát cải biến xã hội …một thời gian dài, đấy đã là
những đặc điểm chủ yếu trong ngòi bút Nguyễn Khải” [48-12] . Cùng với xu
hướng nghiên cứư tổng quát này thì Chu Nga trong bài viết Đặc điểm ngòi bút
hiện thực Nguyễn Khải cũng có những cố gắng để gọi tên phong cách văn


14
1
4
xuôi Nguyễn Khải: “…Nói đến anh, người ta thường nhắc tới Xung đột, Tầm
nhìn xa hay Chủ tịch huyện nhiều hơn. Và ngòi bút anh ở đây cũng nổi tiếng
vì những đặc điểm khác: rất sắc sảo và giàu tính chiến đấu. Những đặc điểm
này lại đi đôi với một phong cách mới- sự tỉnh táo […] hình như sự tỉnh táo ở
phong cách Nguyễn Khải là sự tỉnh táo mang màu sắc lạnh lùng; và phải
chăng chỗ này mới chính là đặc điểm ngòi bút nhà văn”.[41-26]. Ngoài ra phải
kể đến một số bài viết khác như Mục Nguyễn Khải trong Giáo trình Văn học
Việt Nam 1945-1975 (phần tác giả) của Đoàn Trọng Huy, bài của Bích Thu
nhan đề Nguyễn Khải: một đời gắn bó với thời đại và dân tộc… Những công
trình nghiên cứu này đã cho người đọc một hình dung khá cụ thể về Nguyễn
Khải ở cả sự nghiệp sáng tác cũng như giá trị các tác phẩm cùng phong cách
độc đáo riêng của ông. Hầu hết các tác giả đều khẳng định:Nguyễn Khải là một
trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam từ sau 1945.
Bên cạnh những bài viết tương đối toàn diện về sáng tác như trên thì các bài
viết về từng phương diện sáng tác của Nguyễn Khải cũng chiếm một số lượng
tương đối lớn. Có thể kể đến các bài viết như: Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn
Khải của Nguyễn Văn Hạnh, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn
Khải với tác giả Phan Cự Đệ, hay Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải những năm 80 đến nay của Bích Thu…
Phần lớn các bài viết rải rác in trên các bào, tạp chí (như :Văn học, Văn

nghệ quân đội, Tác phẩm mới, Văn nghệ, Nhân dân, Văn nghệ trẻ…) đều đề
cập đến Nguyễn Khải trên tư cách là tác giả của một tác phẩm cụ thể. Chẳng
hạn như Thành Duy có Mùa lạc, một thành công mới của Nguyễn Khải,
Nguyễn Khải và Ngƣời trở về của Hà Minh Đức, Nguyễn Khải và Chiến sĩ
của Nguyễn Đăng Mạnh, hay Thời gian của ngƣời- cuốn tiểu thuyết có nhiều
âm hưởng của Huỳnh Như Phương …Hầu hết các bài viết có giá trị đăng trên
các báo, tập san, tạp chí …đã được tập hợp lại trong công trình Nguyễn Khải-
Về tác gia, tác phẩm (do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và
giới thiệu).
Những sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ sau 1986 đã tạo được nhiều sự
chú ý của công chúng. Các bài viết về những sáng tác thời kỳ này của ông đều


15
1
5
đã khẳng định những đặc điểm cơ bản trong sáng tác Nguyễn Khải: khả năng
phát hiện vấn đề, ý thức tìm tòi lật xới hiện thực, sở trường tổ chức đối thoại,
nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn…Ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến những bài
viết có liên quan đến vần đề tính liên tục và sự thay đổi trong những sáng tác
truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới.
Để công và dồn khá nhiều tâm huyết vào nghiên cứu con người
và văn chương Nguyễn Khải là nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.Với bài viết
Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945, nhà
nghiên cứu đã đưa ra một nhận xét căn bản trong các sáng tác truyện ngắn của
Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là:”Cái nhìn sắc sảo vốn có từ sớm và khao khát
có mặt trong ngày hôm nay. Đối thoại với chính mình và tự phát hiện trở lại-
một phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại” [48-24]. Trong bài viết này, nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng:”Những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ
1988-1999 đến thời gian gần đây, khơi vào hai cái mạch chính: Một là cuộc

sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè, đồng nghiệp quen biết,
cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận của những người thân trong gia đình
họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu, bà mợ mà tâm tư, tình cảm của
Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [48-26]. Cũng trong bài viết này, ông còn
khẳng định: ”trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải
hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi
người vui buồn khi quan sát việc đời.” [48-27] Còn tác giả Đào Thuỷ Nguyên
trong cuốn Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng
dạy văn học Việt Nam hiện đại đã lưu ý tới cái nhìn xoáy sâu vào nhiều vấn
đề của đời sống con người đương thời, con người trong thời gian và lịch sử,
con người trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, con người trong quan hệ
gia đình, con người trong mâu thuẫn và tiếp nối gữa các thế hệ…
Cũng đề cập đến một phương diện trong sáng tác của Nguyễn Khải sau năm
1986 là hình tượng nhân vật, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Nguyễn
Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra:”Có một người kể chuyện đóng vai là nhà
văn, nhà báo, là”chú Khải”, “ông Khải”…cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử
như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng


16
1
6
của văn chương(…).Nhân vật này góp phần tạo ra giọng điệu tự nhiên, chân
thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn Nguyễn Khải” [2-41].

Nghiên cứu về truyện ngắn trước 1986 của Nguyễn Khải không nhiều. Hầu hết
đều tập trung vào tập truyện có giá trị-Mùa lạc. Trong đó có thể kể đến Như
Phong với Phƣơng hƣớng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tâp”Mùa lạc”, Sách
Bình luận văn học, NXB Văn học,Hà Nội,1964: “Những truyện ngắn của
Nguyễn Khải từ Mùa lạc cho đến gần đây rõ ràng là đã tỏ rõ một quan tâm

góp phần truyền bá, cổ vũ cho một chủ nghĩa nhân đạo tích cực và chân chính,
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa người và người trong xã
hội ta[…]Nguyễn Khải đã lựa chọn được một phương hướng tốt. Kể ra cùng
một đề tài, với một số nhà văn nông cạn nào đó, những truyện như thế này dễ
có nguy cơ trở thành một thứ truyện tình ngọt lự một chất nước đường trữ tình
rẻ tiền. Nhưng với quan tâm nói trên kia, những truyện của Nguyễn Khải đã có
những chủ đề tư tưởng cao, đọc lên làm cho người ta phải nghiêm chỉnh suy
nghĩ về cách đối xử với con người thế nào cho phải, cho đúng với đạo đức xã
hội chủ nghĩa” [52-45]. Không đi vào nhận xét giá trị tư tưởng của tập truyện,
tác giả Chu Nga lại nhìn nhận thấy ở những truyện ngắn đó một vấn đề -hiện
thực xã hội, những mâu thuẫn cơ bản, nóng bỏng của xã hội : “anh lúc nào
cũng đứng giữa dòng thác cuộc đời…Anh viết liên tục mà hầu như trong tác
phẩm nào cũng vẫn đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với giai
đoạn nó ra đời. Chẳng hạn cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch sau cải
cách ruộng đất tại một vùng Công giáo (Xung đột), chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản chủ nghĩa trong xã hội ta ngày nay (Mùa lạc), quan hệ giữa sở hữu cá thể
tập thể và Nhà nước ở giai đoạn HTX tiến lên cấp cao
(Tầm nhìn xa), cách đánh giá đúng đắn đối với những đổi mới trong cuộc
sống ở nông thôn hiện nay (Ngƣời trở về)…hay cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân (Hãy đi xa hơn nữa, Anh đội phó và ngƣời thợ mộc, Một cặp
vợ chồng)…” [42-45]. Như vậy, bên cạnh những điểm vốn có của phong cách
Nguyễn Khải thì các tác giả đều khẳng định hướng đi đúng đắn của Nguyễn
Khải khi đi vào khai thác những mảng hiện thực đời sống khác nhau với những


17
1
7
cái nhìn sắc sảo giàu tính chiến đấu, luôn đi cùng với những diễn biến của thời
cuộc.

Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải viết ra cũng nhiều hơn, cùng với đó,
những bài viết, phê bình dành cho ông cũng nhiều lên. Một trong những người
dành sự quan tâm nhiều cho Nguyễn Khải phải kể đến Vương Trí Nhàn, không
chỉ nghiên cứu Nguyễn Khải trên toàn bộ sáng tác mà với một số những tác
phẩm tâm đắc ông đều có những đánh giá và nhận định của riêng mình. Chẳng
hạn như trong, Một cách tồn tại trong văn học Sách Cánh bướm và đoá
hướng dương,NXB Hải Phòng, 1999, ông thấy: “ Nếu hôm qua Nguyễn Khải
đã rất thành công trong việc diễn tả những gay gắt quyết liệt của đời sống thì
hôm nay nhà văn có phần thấm thía sự đời hơn, cái nhìn ra chiều độ lượng và
thông cảm hơn[…].Văn xuôi Nguyễn Khải hôm nay, bề ngoài có cái dễ dàng,
tự nhiên như lời nói hằng ngày song nhìn cho kỹ, thấy chữ nghĩa rất chỉnh, câu
cú tính toán kỹ càng, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả cài chen, xen lẫn
nhau tạo nên một thế giới đa thanh mà chỉ văn xuôi hiện đại mới có” [49-76].
Cũng trong bài viết này ông còn nhận ra cái gọi là “lý sự” luôn xuất hiện đậm
đặc trong văn ông : “ không riêng gì tác giả mà ngay cả các nhân vật cũng hay
nói, thích nói, người nọ đối diện với người kia, đồng tình, phản bác nhau, xét
nét, “gí điện” nhau. Lí sự trở thành câu chuyện hằng ngày, nhất là lí sự về
những khía cạnh xã hội chính trị của đời sống ” [49-77].
Đồng thời bên cạnh những cái gọi là tiếp nối đó, Vương Trí Nhàn cũng nhận
ra nét khác biệt của những sáng tác về sau này: “Những truyện được viết vào
những năm tác giả trên dưới 60 và được in ra vào năm ông 63 tuổi này lại có
những sắc thái mới mà người ta chưa bắt gặp bao giờ. Trước mắt chúng ta là
một sự thích ứng vừa tự nhiên ,vừa khó khăn, đồng thời là một sự phát hiện lại
mình” [49-86].
Còn trong một bài viết khác, ông lại nhận thấy sự chuyển hướng trong đề tài
hiện thực của Nguyễn Khải từ sau những năm 80: “Trên đại thể, những truỵện
ngắn của Nguyễn Khải viết từ 1988-1989 đến thời gian gần đây khơi vào hai
cái mạch chính: Một là cuộc sống hôm nay của những người chung quanh, bạn
bè, đồng nghiệp quen biết cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là, số phận của những



18
1
8
người thân trong họ hàng nội ngoại của tác giả , là những ông cậu, bà mợ mà
tâm tư, tình cảm của Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [51-124].
Tác giả Bích Thu trong Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải những năm tám mưoi đến nay, lại phát hiện ra những nét mới trong
nghệ thuật trần thuật của tác giả, đó là: “Người trần thuật trong tác phẩm
Nguyễn Khải không bao giờ biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả bởi
sự phức hợp giọng điệu, mang nhiều tiếng nói: giọng tác giả, giọng nhân vật,
giọng người kể chuyện với nhiều sắc thái âm điệu khác nhau hoà trộn, đan xen,
tranh cãi, đối lập, tạo dựng một lối văn tiểu thuyết đa thanh và hiện đại” [59-
26].
Một đánh giá có tính chất tương đối toàn diện về sự thay đổi trong các truyện
ngắn Nguyễn Khải sau 86 là Đọc “Truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Khải”
của Nguyễn Hữu Sơn đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 27/01/1999, trong đó có
viết: “Thông qua hệ thống các hình tượng nhân vật, một nỗi ám ảnh xuyên suốt
các truyện ngắn này của Nguyễn Khải là sự hụt hẫng, cách ngăn thậm chí đối
lập giữa các thế hệ. Khi đặt mình ở nhân vật “tôi”, tác giả thường hoài niệm
về một thời xa xưa, một kỷ niệm ngày chống thực dân Pháp, một buổi gặp gỡ ở
làng, một bạn văn nay không còn nữa cùng những hoài cảm khôn nguôi về thế
thái nhân tình, về nhận thức, về những đổi thay ngỡ như choáng ngợp”[55-07]

Trên cơ sở khảo sát các bài viết, các bài nghiên cứu về Nguyễn Khải và
những sáng tác của ông thời kỳ sau 1986, chúng tôi có thể rút ra những nhận
xét sau:
1.Số lượng các bài viết, những ý kiến đánh giá về Nguyễn Khải và những tác
phẩm của ông hết sức phong phú. Trước những năm 80, các tác giả chủ yếu đi
sâu phân tích cảm hứng của nhà văn trước thực tiễn cách mạng, đánh giá nội

dung hiện thực cũng như ý nghĩa xã hội của tác phẩm. Qua đó đề cao những
đóng góp của nhà văn trong việc phản ánh thực tiễn đời sống. Từ những năm
80 đến nay, chủ yếu các tác giả đi sâu tiếp cận về mặt tư tưởng, phong cách
nghệ thuật, chỉ ra một số biểu hiện cơ bản trong quan niệm cũng như trong cá


19
1
9
tính sáng tạo của Nguyễn Khải , đề cao những đóng góp của ông vào thành tựu
của nền văn xuôi đương đại Việt Nam.
Dù ở vào những thời kỳ khác nhau và xuất phát từ những góc độ không
giống nhau nhưng nhìn chung các tác giả này đều gặp nhau trong những đánh
giá chung mang tính khái quát : Nguyễn Khải là một nhà văn sắc sảo, đề cập
đến nhiều vấn đề của đời sống, có nhiều tìm tòi đổi mới và sáng tạo trong cách
viết. Tác phẩm của ông phản ánh kịp thời, sâu sắc hiện thực lịch sử cũng như
đời sống của con người thời đại. Văn ông hấp dẫn, mới mẻ, độc đáo. Nguyễn
Khải xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại.
Riêng các bài viết, các ý kiến đánh giá đến những sáng tác thời kỳ đổi mới
đều chỉ ra những điểm mới của tác giả từ cách nhìn, giọng điệu cho đến ngôn
ngữ.
2. Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng các bài viết đều đã nhận định sáng tác
truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86 có vừa có tiếp tục vừa có sự đổi mới so với
giai đoạn trước đó. Đó là sự tiếp tục đặt vấn đề qua nhân vật, là sự tỉnh táo đến
lạnh lùng của giọng văn chính luận thời sự. Đó là sự đổi mới trong phạm vi
khai thác của đời sống hiện thực, của giọng điệu cùng với sự trải nghiệm của
nhà văn…Tuy nhiên, những thay đổi cũng như tiếp nối đó chỉ được đề cập rất
ít hoặc chỉ đơn thuần ở một mặt nào đó, tản mạn, sơ bộ mà chưa có khảo sát tỉ
mỉ, cụ thể. Mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập đến một số khía cạnh trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải sau đổi mới nhưng vẫn chưa có chuyên luận nào

đi sâu vào tìm hiểu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn thời kỳ đổi
mới của Nguyễn Khải cũng như đặt nó trong mối tương quan so sánh với giai
đoạn sáng tác trước đó.Vì thế, trên cơ sở tiếp thu, phát triển ý kiến của những
nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một hướng nghiên cứu làm
sáng rõ vấn đề: Tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải
sau năm 1986.
3.Mục đích nghiên cứu:
Đi sâu tìm hiểu và lý giải sự tiếp nối cũng như những đổi thay trong các truyện
ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Chúng tôi hy vọng góp một phần vào công


20
2
0
việc nghiên cứu Nguyễn Khải và khẳng định vị trí của ông trong nền văn học
hiện đại Việt Nam.
4.Phạm vi nghiên cứu
Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải rất phong phú, tuy nhiên luận văn chỉ đề
cập đến những truyện ngắn có giá trị đã được chính tác giả tuyển chọn trong
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2 tập)- NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2002.
Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong
truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Đồng thời, trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi cũng đề cập đến những tác phẩm Nguyễn Khải ở giai đoạn trước
để so sánh, đối chiếu và khẳng định những luận điểm của mình.
5.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp Thi pháp học cùng với sự kết hợp của
nhiều thao tác như khảo sát thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp…
Khi nghiên cứu về sự liên tục cũng như thay đổi trong các truyện ngắn
Nguyễn Khải sau năm 1986, luận văn phải đề cập đến vấn đề phong cách cũng

như bút pháp nhà văn. Điều đầu tiên và trên hết để phân biệt nhà văn này với
nhà văn khác, cũng như phân biệt một nhà văn qua những giai đoạn khác nhau
không quan trọng ở chỗ họ nói gì mà là ở chỗ họ nói như thế nào. Hay nói
cách khác, là vấn đề nhà văn tổ chức tác phẩm của mình. Bởi thế sử dụng
phương pháp thi pháp học sẽ giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn “cái cách mà nhà
văn sử dụng” để chuyển tải tư tưởng qua những truyện ngắn. Tất nhiên để đạt
được hiệu quả và độ thuyết phục cao, bên cạnh phương pháp thi pháp học là
chủ yếu thì luận văn còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để hỗ trợ
như: thống kê, đối chiếu, so sánh,…
6.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương như
sau:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình sáng tác
của nhà văn


21
2
1
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách khái quát về hành trình sáng
tác của Nguyễn Khải. Trên cơ sở đó, đặt truyện ngắn sáng tác sau đổi mới của
ông trong mối tương quan với toàn bộ sự nghiệp văn học của tác giả. Đồng
thời, cùng với việc giới thiệu sáng tác truyện ngắn sau 86 thì chúng tôi cũng
đưa ra những đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình về chính những sáng
tác đó để bước đầu có cái nhìn tổng quan về truyện ngắn sau 86 của Nguyễn
Khải. Nội dung chương được triển khai thành các mục như sau:
1.2 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn
1.2.1 Nhà văn Nguyễn Khải
1.2.2 Những chặng đường sáng tác chính.
1.2.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của

Mỹ
1.2.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước
1.2.2.3 Thời kỳ sau 1975
1.2.2.4 .Thời kỳ sau 1986.
1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải .
1.2.1.Trước năm 1986
1.2.2 Sau năm 1986
Chương 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.
Trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các truyện ngắn trước 86 cũng như các sáng
tác văn xuôi trước đó, chương 2 sẽ đi vào chỉ rõ sự liên tục trong các truyện
ngắn sau 86 của Nguyễn Khải trên cả phương diện nội dung cũng như hình
thức. Chương 2 gồm các mục sau:
2.1.Tính liên tục trong nội dung
2.1.1Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực
2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn
2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.
2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86
2.1.2.1Những con người của thời cuộc.
2.1.2.2Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.
2.2Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm


22
2
2
2.2.1Giọng triết lý, tranh biện
2.2.2Kết cấu tác phẩm
Chương 3:Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.
Điều làm nên một Nguyễn Khải của thời kỳ mới chính là ở sự thay đổi và thích
ứng. Một nhà văn có bản lĩnh là nhà văn dám thay đổi và có thể thay đổi đúng

cách. Nguyễn Khải thuộc số không nhiều những nhà văn trước cách mạng xác
lập được chỗ đứng vào thời kỳ mới. Tiếp theo tính liên tục ở chương2 thì
chương 3, chúng tôi đi sâu vào những thay đổi trong truyện ngắn của ông sau
đổi mới. Nội dung gồm có:
3.1Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh
3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.
3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.
3.1.3.Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm lại.
3.2. Một số thay đổi về giọng điệu
3.2.1.Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã
3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.

















23
2

3










Chƣơng 1.Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành
trình sáng tác của nhà văn


Đối với mỗi một tác giả , khi muốn tìm hiểu về một tác phẩm, một tập hợp tác
phẩm theo thể loại, một giai đoạn, hay bất kỳ một phương diện nào đó trong
sáng tác của họ thì đều phải đặt chúng trong tương quan với cả chặng đường
sáng tác của tác giả đó. Tất nhiên, trong cả một chặng đường dài của sự nghiệp,
không phải lúc nào cũng giống nhau, không phải lúc nào các sáng tác cũng theo
một đường thẳng mà luôn luôn có những khúc quanh tuỳ theo yêu cầu của thời
đại và tuỳ theo sự trưởng thành của chính người viết. Nhưng nó không bao giờ
hoàn toàn tách khỏi những sáng tác trước hoặc sau nó mà luôn luôn có một mối
liên hệ nhất quán bị chi phối bởi chính cái “tạng” của mỗi người viết. Và cũng
chính điều đó làm nên phong cách nhà văn. Bởi thế, trước khi đi vào bàn về
những sáng tác truyện ngắn sau 86 của Nguyễn Khải, người viết muốn khái
lược toàn bộ chặng đường sáng tác của nhà văn. Trên cơ sở đó có một cái nhìn
tổng quan và toàn diện về con đường văn nghiệp Nguyễn Khải cũng như bước
đầu thấy được mối quan hệ giữa những truyện ngắn sau 86 với những truyện
ngắn trước đó cũng như với toàn bộ sáng tác của ông.

1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn.
1.1.1.Nhà văn Nguyễn Khải.


24
2
4
Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ngày 03/02/1930 tại Hà Nội,
mất ngày 15/01/2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc đời Nguyễn Khải cũng
có nhiều thăng trầm.Theo GS.Nguyễn Đăng Mạnh thì “ căn cứ vào những tác
phẩm có tính chất hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, thấy tuổi trẻ của ông
khốn khổ, cơ cực- cơ cực và oan ức, và nhục nhã nữa chứ! Khổ còn có thể
quên được chứ oan ức và nhục nhã thì nhớ suốt đời, hận suốt đời. Mà số phận
ông cũng thật éo le. Giá cứ thuộc hẳn tầng lớp cùng dân thì đi một nhẽ. Đằng
này lại đồng thời là một giọt máu nhà quan, nhưng lại là một giọt máu
rơi…”[38-26].Từ một khối đất vô tri sẽ không thể trở thành một chiếc bình
gốm đẹp đẽ nếu nó không trải qua một sự nhào nặn và tôi luyện trong lửa đỏ.
Cũng như thế, những cay đắng, éo le, tủi cực phải trải qua trong thời niên thiếu
đã gieo mầm cho một Nguyễn Khải- nhà văn với những nét độc đáo riêng
không lẫn với bất cứ ai.
Trước khi trở thành nhà văn, Nguyễn Khải cũng đã từng cầm bút. Với tư
cách là cán bộ tuyên huấn , ông viết bài cho tờ Dân quân Hưng Yên .Cách
mạng tháng Tám bùng nổ đem lại cho đất nước một sự lột xác. Với nhiều
người, nói rằng cuộc cách mạng này đã đem đến sự đổi đời có lẽ là hơi thái quá
nhưng với Nguyễn Khải thì đó lại là một sự thật không thể phủ nhận. Tự bản
thân nhà văn khi nhớ lại những chặng đường đã qua, không ít lần ông tự hỏi
mình - nếu không có cuộc cách mạng tháng Tám thì cuộc đời mình sẽ ra sao
nhỉ? Với một người tự nhận mình là “kém tài”, lại thêm chỗ đứng ban đầu thua
kém thì khó có thể tự đẩy mình lên cao, vượt lên khỏi cái biển người thờ ơ, bất
động kia. Khi cậu thiếu niên Nguyễn Khải còn hoang mang, chán nản đến cực

độ thì cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và kháng chiến chống Pháp bùng
nổ. Đối với Nguyễn Khải đó là một ân huệ. Bởi trước đó, cậu bé Nguyễn Khải
không có bất cứ một quyền gì ngay cả một chỗ đứng trong một gia đình cũng
không có, thậm chí còn là người mà ai cũng có thể làm nhục, thì cuộc kháng
chiến đã đem lại cho Nguyễn Khải một cái quyền - quyền tham gia kháng chiến
mà không phân biệt tuổi tác, sang hèn, học vấn hay nghề nghiệp. Bản thân nhà
văn cũng tự chiêm nghiệm- nếu không viết văn thì không biết bản thân sẽ làm
được việc gì. Thế nên, nói văn là sự lựa chọn của Nguyễn Khải cũng đúng mà


25
2
5
hơn hết, trên hết văn như là một cái “nghiệp” của một đời con người ấy. Hầu
hết những nhà văn lớn, những nhân cách lớn đều phải trải qua một thời tuổi trẻ
đầy biến cố. Và với Nguyễn Khải cũng vậy, một “tuổi thơ dữ dội” ít nhiều đã
tạo nên trong Nguyễn Khải - con người nhút nhát, an phận, một trái tim dễ xúc
động. Có lẽ vì đã từng bị làm nhục nên cả đời Nguyễn Khải không dám làm
nhục, không dám nặng lời với bất cứ một ai. Cũng do từng bị hiếp đáp, thua
thiệt nên lại càng dễ xúc động trước những số phận không may, mà như thế thì
làm lãnh đạo làm sao được! Chỉ có thể viết văn thôi. Chính cái mềm yếu, dễ
xúc động ấy khiến cho Nguyễn Khải có sự thông cảm, đồng cảm với người đời.
Ngòi bút của ông có thể dễ dàng tung hoành chỉ trên một vài chi tiết nhỏ,
những câu chuyện lặt vặt xoay quanh những cảnh ngộ nào đó. Mà ở đời này thì
những sự bất công, bất hạnh còn nhiều vô kể, thế nên “nguồn sống” để viết của
tác giả cũng là không kể xiết. Mang trong mình một trái tim bừng bừng sức
sống và rực nóng tình người, Nguyễn Khải cứ thế vững chãi bước vào làng văn
và đã tiếp tục bước trên con đường đó bởi trái tim ấy “chưa bao giờ nguội
lạnh” [49-57] .
Có lẽ cũng giống nhiều nhà văn khác, loay hoay trên ngưỡng cửa lựa chọn

lúc chập chững bước vào nghề, Nguyễn Khải đã viết để phục vụ cho nhiệm vụ
của mình cũng như phục vụ cho công cuộc kháng chiến chung của cả dân tộc.
Tác phẩm Ngƣời con gái quang vinh viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi là tác
phẩm được viết theo phong trào sáng tác tuyên dương , ca ngợi những anh
hùng dân tộc, phục vụ cho công tác tuyên huấn của Đảng. Có lẽ điều đó không
phù hợp với cái tạng ưa thích khám phá những mảng hiện thực có tính vấn đề
của Nguyễn Khải nên ông đã thất bại – tác phẩm chỉ là một thanh âm mờ nhạt
không được ai chú ý. Với địa vị và trách nhiệm của một người đứng trong hàng
ngũ của Đảng được trang bị kiến thức lý luận và trải qua thực tiễn của cuộc
chiến đấu, Nguyễn Khải dần dần tìm được hướng đi cho mình. Là nhà văn sớm
có ý thức dùng văn học làm vũ khí phục vụ cách mạng, góp phần làm cho cuộc
sống của con người, xã hội ngày một tốt đẹp hơn, ông đã đem hết sức mình góp
phần tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước. Điều này được thể hiện trước
hết trong việc ông đã lựa chọn những nơi cuộc sống diễn ra sôi nổi, quyết liệt,

×