Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Báo chí với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873 KB, 127 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


***********************

HOÀNG HƯƠNG TRÀ





BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HOÁ HÀ NỘI










LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ







HÀ NỘI, 2007







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


***********************

HOÀNG HƯƠNG TRÀ





BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HOÁ HÀ NỘI











LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ






HÀ NỘI, 2007

MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài:
Trong cuốn 50 sự thật làm thay đổi thế giới, [20, 275 – 281] tác
giả Jessica Williams viết: “Ethnologue, một cơ sở dữ liệu về tất cả các
ngôn ngữ đƣợc sử dụng trên thế giới cho biết mỗi năm có khoảng 10
ngôn ngữ không đƣợc sử dụng nữa. Hãy tƣởng tƣợng, nhƣ vậy tất cả
những đầu mối nhỏ nhoi về lịch sử, văn hóa, tri thức chung đều biến mất.
Nhƣ một kết quả trực tiếp và tất yếu, số liệu đáng giật mình đó nói lên
rằng bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đã bị xóa sổ, sự đa dạng văn hóa
của thế giới đang bị nghèo nàn đi”.
Kể từ khi công ƣớc Di sản thế giới của UNESCO đƣợc thông qua
cách đây hơn 30 năm, ngày càng nhiều quốc gia nhận thức đƣợc rằng
cùng với các di sản vật thể, di sản văn hóa phi vật thể là một nhân tố giữ
vai trò quan trọng trong bản sắc văn hóa, trong việc thúc đẩy tính sáng
tạo và gìn giữ đa dạng văn hóa, giữ vai trò thiết yếu trong sự phát triển
của quốc gia và quốc tế, trong sự khoan dung và trong sự giao lƣu hài
hoà giữa các nền văn hóa. Hơn nữa, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, nhiều

hình thức di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu có nguy cơ bị thất
truyền, bị đe dọa bởi hiện tƣợng toàn cầu hoá văn hóa, bởi xung đột vũ
trang và du lịch, quá trình công nghiệp hóa, quá trình di dân hàng loạt từ
nông thôn ra thành thị và sự xuống cấp của môi trƣờng. Trƣớc tình hình
đó, việc xây dựng một chiến lƣợc để bảo vệ và tôn vinh các di sản văn
hóa là việc làm cấp thiết của tất cả các quốc gia. Trong cuốn Tìm về bản
sắc văn hóa Việt Nam [44, 10], GS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm khẳng định:
“Sự giao lưu quốc tế này bây giờ không còn giới hạn ở phạm vi quan hệ
giữa các dân tộc, quốc gia mà đang ngày càng thâm nhập vào từng ngõ
ngách. Trong bối cảnh những biến động lớn về chính trị - xã hội trên

2
phạm vi toan thế giới, sự quan tâm đến văn hóa và văn hóa dân tộc đang
trở thành một vấn đề quốc tế nỏng bỏng. Người ta nhận thấy rằng kinh
tế ngày càng phát triển thì hố ngăn cách giữa các nước giầu nghèo càng
làm căng thẳng thêm các mâu thuẫn xã hội, các hiểm họa có tính chất
tòan cầu càng gia tăng, thậm chí có nguy cơ đe doạ đến sự tồn vong của
văn minh nhân loại.
Theo Unesco, một trong những nguyên nhân quan trọng của tình
hình trên là trong các chƣơng trình phát triển quốc gia cũng nhƣ quốc tế
của mấy thập kỷ vừa qua, ngƣời ta chỉ chú trọng đến các mục tiêu phát
triển kinh tế tách rời môi trƣờng văn hóa, trong khi chính VĂN HÓA
mới là yếu tố chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát
triển. Các kế hoạch phát triển không chú ý đến yếu tố văn hóa sớm muộn
đều dẫn đến thất bại.
Bảo tồn di sản văn hóa bởi vậy luôn đƣợc xác định là nhân tố quan
trọng của quá trình phát triển bền vững. Phát triển bền vững đƣợc coi là
phép cộng của phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
Thủ đô Hà Nội, nhƣ các nhà nghiên cứu thƣờng gọi là nơi tụ hội

tinh hoa ngàn năm của văn hóa Việt Nam. Nghiên cứu di sản văn hóa Hà
Nội cũng là nghiên cứu tinh hoa trong di sản văn hóa Việt Nam. Trong
bối cảnh hiện nay, di sản văn hoá là một thành tố có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc tạo dựng, tôn vinh giá trị văn hoá của mảnh đất kinh kỳ.
Tuy nhiên, việc bảo vệ, khai thác các di sản văn hoá ở Hà Nội hiện nay
đang đặt ra rất nhiều thách thức: Các di sản văn hóa vật thể bị xâm hại ở
mức báo động. Nhiều di tích lịch sử trên địa bàn thành phố gần nhƣ bị
xoá sổ, một số khác chƣa tìm đƣợc cách khai thác, quy hoạch phù hợp.

3
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể bị lãng quên, chƣa có sự đầu tƣ thích
đáng để bảo tồn và phát huy.
Việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa Hà Nội trở thành một
yêu cầu bức thiết không chỉ đối với các cơ quan quản lý văn hóa. Báo chí
phải tham gia tích cực vào việc bảo vệ di sản văn hóa thủ đô thông qua
hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân. Đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay, khi Hà Nội cùng cả nƣớc đang hƣớng tới đại lễ Kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. Đối với ngƣời làm báo ở thủ đô,
nhất là những ngƣời làm văn hoá, việc nghiên cứu các giá trị văn hoá
truyền thống là một yêu cầu thiết thực.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Di sản văn hoá Hà Nội là đề tài đƣợc các nhà nghiên cứu văn hoá,
lịch sử tìm hiểu từ cách đây rất lâu và tập trung vào các hƣớng:
+ Nghiên cứu cụ thể từng di sản: di sản văn hóa vật thể, văn hóa
phi vật thể theo hƣớng giới thiệu văn hoá, lịch sử chiếm đa số các công
trình nghiên cứu về di sản văn hoá Hà Nội. Các nhà nghiên cứu thƣờng
tập trung vào việc tìm hiểu tên địa danh, các câu chuyện lịch sử hoặc
truyền thuyết xung quanh di tích. Có thể kể ra một vài công trình: Thăng
Long Đông Đô Hà Nội (tác giả: Chu Thiện, Sơn Chi, Lê Tám); Sổ tay
văn hoá (Sở Văn hoá Hà Nội, H.1961); Hà Nội xƣa và nay (Sở Văn hoá

Hà Nội, H.1967); Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội (Chủ biên
Trần Quốc Vƣợng, Nguyễn Vinh Phúc, Lê Văn Lan, NXB Hà Nội,
H1994); Hồ Hoàn kiếm và đền Ngọc Sơn (tác giả Nguyễn Vinh Phúc,
NXB Trẻ. 2003); Chuyện cũ Hà Nội (Tô Hoài); Thăng Long diện mạo và
lịch sử (Ngọc Tú sƣu tầm và tuyển chọn, NXB Lao động, H.2006)
+ Nghiên cứu tổng thể các di sản dƣới dạng bảo tồn, đánh giá giá
trị, thực trạng : Di tích lịch sử- văn hoá Hà Nội (tác giả: Nguyễn Doãn

4
Tuân, Nguyễn Vinh Phúc, Trần Lâm Biền, NXB Chính trị quốc gia,
H.2000); Văn hóa phi vật thể ở Hà Nội (tác giả TSKH Phan Hồng Giang,
NXB Thế giới, H.2005) Mới đây nhất, NXB Văn hoá - Thông tin kết
hợp với Thời báo Kinh tế Việt Nam cho ra mắt bộ 4 tập “Tổng tập Nghìn
năm văn hiến Thăng Long”. Đây đƣợc coi là công trình nghiên cứu đồ sộ
nhất về văn hoá Hà Nội từ trƣớc tới nay của tập thể 1200 tác giả.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu di sản văn hóa Hà Nội dƣới góc độ
truyền thông lại khá mới mẻ. Một số công trình nghiên cứu di tích lịch
sử- văn hoá trƣớc đây cũng đã đề cập đến vấn đề này song phần lớn mới
chỉ đề cập đến vai trò quan trọng của việc truyền thông mà chƣa chỉ ra
đƣợc những kinh nghiệm, bài học để truyền thông hiệu quả về vấn đề
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Báo chí là phƣơng tiện để tăng cƣờng hiểu biết, nâng cao nhận
thức của ngƣời dân trong việc bảo vệ di sản. Vậy làm thế nào để việc
đƣa những thông tin về di sản văn hoá một cách hấp dẫn, nâng cao hiệu
quả báo chí trong việc tuyên truyền gìn giữ di sản? Khi nghiên cứu đề tài
này, chúng tôi tập trung vào những mục đích sau:
Khẳng định những giá trị quý báu cũng nhƣ hiện trạng của di sản
văn hoá Hà Nội hôm nay và vai trò to lớn của báo chí trong việc bảo tồn,
phát huy di sản văn hoá Hà Nội.

Đánh giá những ƣu điểm và hạn chế của báo chí trong việc bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá Hà Nội.
Kiến nghị, đề xuất những giải pháp để báo chí có thể phát huy hơn
nữa sức mạnh của mình trên lĩnh vực văn hoá nói chung và bảo tồn, phát
huy giá trị di sản nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

5
Các di sản văn hóa Hà Nội qua phản ánh của báo chí: giá trị, thực
trạng, công tác quản lý bảo vệ, gìn giữ, khai thác từ đó rút ra những bài
học, kinh nghiệm cần thiết.
Giới hạn tài liệu: Các tờ báo: Hànộimới, Văn hóa, Tạp chí xƣa và
nay, Tạp chí Di sản… trong thời gian từ năm 2000 đến tháng 6 năm
2006.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để giải quyết những nhiệm vụ mà khoá luận đặt ra, chúng tôi dựa
trên đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về phát
triển văn hoá. Đây là cơ sở phƣơng pháp luận để tiếp cận vấn đề này, để
đánh giá những thành tựu và hạn chế của báo chí trong việc góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá Hà Nội. Đồng thời chúng tôi
sử dụng các phƣơng pháp: so sánh – phân tích – tổng hợp… để phân tích
hệ thống tƣ liệu đƣợc khảo sát để rút ra những kết luận cũng nhƣ những
kiến nghị có tính khả thi nhất.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chƣơng:
Chƣơng I: Lý luận chung về di sản văn hoá và vai trò của báo chí
Chƣơng II: Di sản văn hoá Hà Nội phản ánh qua báo chí
Chƣơng III: Phƣơng hƣớng và những kiến nghị








6
CHƢƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA
BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
A. GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ:
1. Khái niệm văn hóa:
Văn hóa là khái niệm bao quát một phạm vi rộng lớn. Trong đời
sống, khái niệm văn hóa đƣợc sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau. Theo
thống kê, trên thế giới hiện có gần một nghìn định nghĩa khác nhau về
văn hoá.
Văn hóa: Gốc La tinh là cultus, nghĩa là “trồng trọt”, từ này phát
triển ra nghĩa “chăm sóc” (cây cối), từ “chăm sóc” (cây cối) đến “chăm
sóc” (con người) = giáo dục. Trong các ngôn ngữ phƣơng Tây, từ “văn
hoá” bắt nguồn từ chữ cultus (culture, cultura) đều có ý nghĩa liên quan
đến chăm sóc, giáo dục…
Theo quan niệm của Trung Quốc, “văn” vốn có nghĩa là “đẹp”,
“hoá = trở thành”, “văn hoá” có nghĩa là “trở thành đẹp, thành giá trị”.
Ở Việt Nam: văn hoá đƣợc dùng để chỉ những khái niệm có nội
hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hoá đƣợc dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hoá), lối sống (nếp sống văn
hoá), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình văn độ văn minh của một giai
đoạn (văn hoá Đông Sơn)… “Đề cƣơng văn hóa Việt Nam” của Đảng
Cộng Sản Đông Dƣơng năm 1943 đã xếp văn hóa bên cạnh kinh tế,

chính trị và xem nó bao gồm cả tƣ tƣởng, học thuật (=khoa học, giáo
dục), nghệ thuật…Tuy nhiên, giới nghiên cứu vẫn thƣờng nhắc tới một
vài định nghĩa tiêu biểu nhƣ định nghĩa của GS. Đào Duy Anh, GS. Trần
Ngọc Thêm… GS. Đào Duy Anh định nghĩa ngắn gọn: “Văn hoá là sinh

7
hoạt của con ngƣời về mọi phƣơng diện sinh hoạt” [12]. Còn GS.Viện sĩ
Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên
và xã hội của mình [44, 25].
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: “Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [18, 431]
Tuy có nhiều cách hiểu với nội dung khác nhau song các khái
niệm về văn hoá này đều xoay quanh các điểm chính:
1. Văn hoá là các giá trị;
2. Những giá trị đó phải do con ngƣời sáng tạo ra (phân biệt với
cái tự nhiên);
3. Sự sáng tạo đó là cả một quá trình lịch sử liên tục;
4. Những giá trị đó phải làm thành một hệ thống chặt chẽ.
Cấu trúc văn hoá:
Theo cách chia truyền thống, văn hoá có cấu trúc 2 phần rất đơn
giản là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần (hay văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể). Chính cách cấu trúc này đã dẫn tới việc phân chia các
bộ phận khác của văn hóa thành hai dạng: vật chất và tinh thần nhƣ: di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể… Đây cũng là cách cấu trúc cơ sở để
từ đó ngƣời ta tìm ra những cách cấu trúc mới về văn hoá. Song chính sự
đơn giản lại là nhƣợc điểm của cách cấu trúc này bởi đôi khi với một

hiện tƣợng văn hóa, ngƣời ta khó lòng có thể phân chia rạch ròi cái nào
là giá trị vật chất, cái nào là giá trị tinh thần và ngƣợc lại. Trên thực tế, di

8
sản vật thể nào cũng chứa đựng trong nó những yếu tố tinh thần và di sản
phi vật thể nào cũng đƣợc biểu hiện bởi những yếu tố vật chất.
Ngoài cách chia trên, trong lịch sử nghiên cứu văn hóa học, các
nhà khoa học đã cố gắng đƣa ra nhiều quan điểm, kiến giải khác nhau về
cấu trúc văn hóa nhằm đạt đƣợc hiệu quả cao nhất trong nghiên cứu.
Trên thế giới có hai quan điểm phân chia cấu trúc văn hóa ảnh hƣởng
nhiều đến các nhà nghiên cứu Việt Nam là quan điểm của hai nhà khoa
học L.White và F.Sartiaux.
“L.White (1949) phân chia văn hoá thành 3 tiểu hệ: công nghệ, xã
hội và tƣ tƣởng. Đào Duy Anh (1951) dựa theo F. Sartiaux mà chia văn
hoá thành ba phần: sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trí
thức. Nhóm Văn Tân (1973) thì phân biệt văn hoá vật chất, văn hoá xã
hội và văn hoá tinh thần; nhƣng văn hoá xã hội (phong tục, tập quán…)
đâu có nằm ngoài văn hoá tinh thần? M.S.Kagan cũng chia văn hoá ra ba
thành tố, trong đó bên cạnh văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần là văn
hoá nghệ thuật (1974) nhƣng có nghệ thuật nào lại không phục vụ các
nhu cầu tinh thần? Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố nhƣ văn hoá
sản xuất, văn hoá xã hội, văn hoá tƣ tƣởng, văn hoá nghệ thuật (Ngô Đức
Thịnh 1987) hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh
thần, hoạt động nghệ thuật (Nguyễn Tất Đắc, 1987) [44, 28-30]. Tuy
nhiên, những cách cấu trúc này đều bộc lộ hạn chế nhất định nhƣ cách
cấu trúc thành các phần quá nhỏ hoặc quá rộng, hoặc có sự trùng lặp
nhau giữa các tiểu cấu trúc… Đáng nói là hầu hết những cách cấu trúc
trên đều là sự mở rộng hay cụ thể hơn cách chia truyền thống nhƣ đã nói
ở phần đầu.
Gần đây, có một cách chia mới đƣợc nhiều nhà nghiên cứu văn

hóa đồng tình, đó là cách chia theo đề xuất của GS.Trần Ngọc Thêm.

9
Theo Trần Ngọc Thêm, văn hoá có thể xem là một hệ thống gồm 4 thành
tố (bốn tiểu hệ) cơ bản là:
Văn hóa nhận thức: Mỗi nền văn hoá đều là tài sản của một cộng
đồng ngƣời nhất định- một chủ thể văn hoá. Trong quá trình tồn tại và
phát triển, cộng đồng ngƣời- chủ thể văn hoá luôn có nhu cầu tìm hiểu và
do vậy đã tích luỹ đƣợc một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú
về vũ trụ và về bản thân con người.
Văn hóa tổ chức cộng đồng: Bao gồm hai vi hệ là văn hoá tổ chức
đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội trong quy
mô rộng lớn nhƣ tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị) và văn hoá tổ chức
đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi ngƣời nhƣ
tín ngƣỡng, phong tục, đạo đức, văn hoá giao tiếp, nghệ thuật…)
Cộng đồng ngƣời, chủ thể văn hoá, hiển nhiên là tồn tại trong
quan hệ với 2 loại môi trƣờng- môi trƣờng tự nhiên (thiên nhiên, khí
hậu…) và môi trƣờng xã hội (hiểu ở đây là các xã hội, dân tộc, quốc gia,
láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hoá còn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên
quan đến cách thức xử sự của cộng đồng dân tộc với 2 loại môi trƣờng
ấy:
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Với mỗi loại môi trƣờng đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với
hai loại tác động của chúng (tạo nên hai vị hệ): tận dụng môi trƣờng (tác
động tích cực) và đối phó với môi trƣờng (tác động tiêu cực).
Văn hóa bao gồm những lĩnh vực rộng và bao quát nhƣ nghệ
thuật, giải trí, xã hội, tôn giáo.
Cách phân chia cấu trúc văn hoá này vận dụng lý thuyết hệ thống
để lý giải các thành tố văn hoá. Mọi hệ thống đều bao gồm các yếu tố và


10
các quan hệ giữa chúng và mạng lƣới các mối quan hệ tạo thành cấu trúc.
Mỗi yếu tố của hệ thống đến lƣợt mình đều có thể là một hệ thống con-
một tiểu hệ. Mọi hệ thống đều có quan hệ mật thiết với môi trƣờng.
Thứ hai, cấu trúc này chỉ rõ vai trò của chủ thể văn hoá đồng thời
cho thấy khả năng tìm hiểu toàn diện và cụ thể lịch sử thông qua các di
sản văn hoá. Nó cho thấy sự phong phú và phức tạp của hệ thống văn
hoá.
Tuy nhiên, khi áp dụng cấu trúc này vào phân tích các di sản văn
hoá sẽ nảy sinh một vấn đề: mỗi di sản văn hoá đôi khi là một sản phẩm
phức hợp của cả văn hoá nhận thức lẫn văn hoá tổ chức cộng đồng, văn
hoá ứng xử với môi trƣờng tự nhiên và văn hoá ứng xử với môi trƣờng
xã hội. Bởi vậy, nếu dùng cấu trúc này để phân loại các di sản văn hoá sẽ
dẫn tới việc trùng lặp hoặc thiếu logic.
Trong phạm vi luận văn này, ngƣời viết sẽ vận dụng kết hợp cả hai
cách cấu trúc: cách cấu trúc cơ bản và cách chia của GS. Trần Ngọc
Thêm để làm rõ hơn những vấn đề về di sản văn hoá Hà Nội. Cụ thể,
ngƣời viết sẽ áp dụng cách cấu trúc cơ bản để chia di sản văn hoá thành
hai loại: di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể, tuy nhiên,
khi phân tích cụ thể vào từng di sản tiêu biểu, sẽ áp dụng cách cấu trúc
của GS.Trần Ngọc Thêm để phân tích, làm rõ hơn các vấn đề về văn hoá,
lịch sử có liên quan.
2. Di sản văn hóa
Theo Công ƣớc di sản thế giới (do Đại hội đồng UNESCO soạn
thảo năm 1972, đến nay đã có sự tham gia của gần 180 quốc gia và khu
vực) thì di sản gồm 3 loại: di sản văn hóa; di sản thiên nhiên và di sản
hỗn hợp.

11

Trong phạm vi luận văn này, ngƣời viết chỉ đề cập tới loại hình di
sản văn hoá.
Cũng giống nhƣ khái niệm văn hoá, hiện có rất nhiều những định
nghĩa khác nhau về di sản văn hoá. Thông thƣờng, theo cách nhìn nhận
về hình thái tồn tại, di sản văn hóa đƣợc chia thành hai loại: di sản văn
hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Tuy có sự phân biệt nhƣng hai
loại hình này luôn có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng, chúng song
song tồn tại và có tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi một di tích do tiền nhân
sáng tạo đều liên quan một nhu cầu hoạt động tinh thần nào đó. Di tích
lịch sử văn hóa là sản phẩm vật chất nhƣng luôn mang trong mình những
yếu tố phi vật chất là thông điệp, sức sáng tạo, ý thức xã hội, đời sống
tinh thần, tâm linh của thế hệ trƣớc lƣu truyền cho thế hệ sau.
2.1 Di sản văn hóa vật thể:
Theo Công ƣớc di sản thế giới, di sản văn hóa vật thể gồm:
Các di tích: Các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội
họa, các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở
trong hang đá và các công trình có sự liên kết giữa nhiều đặc điểm, có
giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa
học.
Quần thể các công trình xây dựng: Các quần thể các công trình
xây dựng tách biệt hay liên kết lại với nhau mà do kiến trúc của chúng,
do tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong cảnh quan, có giá trị nổi
bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học.
Các di chỉ: Các tác phẩm do con ngƣời tạo nên hoặc các tác phẩm
có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực trong đó có
các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử,
thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.

12
Điều 4, Luật Di sản văn hóa đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2001 giải nghĩa:
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh,
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Trong đó:
Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch
sử, văn hoá, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có
sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị
lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
Di vật là hiện vật đƣợc lƣu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá,
khoa học.
Cổ vật là hiện vật đƣợc lƣu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch
sử văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Bảo vật quốc gia là hiện vật đƣợc lƣu truyền lại có giá trị đặc biệt
quý hiếm tiêu biểu của đất nƣớc về lịch sử, văn hoá, khoa học.
2.2 Di sản văn hoá phi vật thể:
Giống nhƣ khái niệm "Văn hóa”, không có một định nghĩa duy
nhất cho khái niệm “Di sản văn hóa phi vật thể”. Khái niệm này là một
khái niệm rất rộng, dùng để chỉ các hình thức đa dạng phức tạp của các
di sản đang tồn tại và đang trong quá trình tiến hóa không ngừng.
Điều 4, Luật Di sản văn hóa năm 2001 định nghĩa: Di sản văn hoá
phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học,
được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao

13
gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ
văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí

quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền,
về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri
thức dân gian khác.
Theo GS.Tô Ngọc Thanh: Trong xã hội Việt Nam hiện nay, cũng
nhƣ cách hiểu của UNESCO, khi nói đến giá trị văn hoá phi vật thể là
ngƣời ta nghĩ ngay đến các giá trị văn hoá cổ truyền, chứ không phải là
giá trị văn hoá đƣơng đại. Có hai lý do chủ yếu: Thứ nhất, để hình thành
các giá trị văn hoá thì phải có một quá trình kết tinh, mà ngƣời ta gọi quá
trình đó là “độ lùi lịch sử”. Có những cái hôm nay chúng ta cho là tốt
nhƣng lịch sử sẽ phủ định, có cái ta cho là phải vứt bỏ đi thì chính đó lại
là giá trị mà lịch sử sau này thừa nhận. Thứ hai vì khối lƣợng văn hoá cổ
truyền của tất cả các dân tộc trên thế giới là đồ sộ, đƣợc tạo ra trong quá
trình hình thành loài ngƣời hàng ngàn năm mà đến nay ngƣời ta chƣa
hiểu biết hết và ngƣời ta thấy rằng nó cực kỳ quý giá bởi tính nhân văn
và tính dân tộc. Mặt khác, chúng đang có nguy cơ bị mất, bị quên lãng
bởi sự xâm lấn của các kỹ thuật, lối sống đƣơng đại… cho nên, khái
niệm văn hoá phi vật thể tập trung vào các giá trị văn hoá cổ truyền là
đúng” [34,15]
Trong cuốn “Văn hoá phi vật thể ở Hà Nội” do TSKH Phan Hồng
Giang (Chủ biên) [34, 16], di sản văn hoá phi vật thể đƣợc cấu trúc gồm
các thành tố:
1. Các hình thái đƣợc biểu thị thông qua các dấu hiệu ngôn
ngữ nói (văn chƣơng, hò vè, tục ngữ, ca dao truyền
miệng)

14
2. Các hình thái đƣợc biểu thị thông qua các dấu hiệu âm
thanh (ca, nhạc)
3. Các hình thái đƣợc biểu thị thông qua các hành vi, ứng
xử của con ngƣời (phong tục, tập quán, lễ- tết-hội)

4. Các hình thái đƣợc biểu thị thông qua những dấu hiệu
lai pha (ví dụ nghệ thuật múa đƣợc biểu thị thông qua sự
lai pha giữa dấu hiệu đồ thị và dấu hiệu âm thanh, nghệ
thuật sân khấu là sự lai pha giữa các dấu hiệu ngôn ngữ
nói + đồ thị + âm thanh, tƣơng tự nhƣ thế là các trò chơi
dân gian, dân tộc và nghệ thuật ẩm thực…)
Tất nhiên, sự phân chia thành bốn nhóm thành tố trên chỉ là thao
tác của tƣ duy, trên thực tế, văn hoá phi vật thể biểu thị bằng vô số
những hình thái khác nhau và mỗi hình thái ấy không chỉ đƣợc biểu bị
bằng một loại dấu hiệu duy nhất mà thƣờng là sự lai pha của ít nhất là
hai loại dấu hiệu. Việc phân loại theo 4 nhóm trên chỉ là sự nhấn mạnh
vào loại dấu hiệu chủ đạo mà thôi.
Tổng Giám đốc đƣơng nhiệm của UNESCO, ông Koichiro
Matsura, gọi Di sản văn hóa phi vật thể là "một mồi nhử (melting pot)
trong đó tổng hợp mọi hình thức biểu đạt mang tính sáng tạo và là một
động lực cho các nên văn hóa đang tồn tại.”
Bản thân tổ chức UNESCO cũng rất nỗ lực nhằm đƣa ra một định
nghĩa chung về di sản văn hoá phi vật thể. Một trong những nỗ lực đó là
việc tổ chức Hội thảo khoa học tại Turin (Italia) vào tháng 3-2001, tại
đó, các chuyên gia đã định nghĩa Di sản văn hóa phi vật thể là "các quá
trình do học tập mà có của người dân cùng với các tri thức, kỹ năng và
sự sáng tạo-là cơ sở và đồng thời cũng là kết quả của quá trình này của
người dân; các sản phẩm do người dân sáng tạo ra và các nguồn lực,

15
các không gian và các khía cạnh khác của bối cảnh tự nhiên, xã hội cần
để duy trì tính bền vững của các sản phẩm đó; các quá trình này mang
lại cho các cộng đồng đang sinh sống một tinh thần nhằm tiếp bước các
thế hệ đi trước, đồng thời có vai trò quan trọng đối với các bản sắc văn
hóa cũng như đối với việc bảo vệ sự đa dạng và tính sáng tạo của nhân

loại". Định nghĩa này sau đó đã đƣợc Đại hội đồng khoá 31 của
UNESCO xem xét kỹ lƣỡng và thông qua.
Trên thực tế, các Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân lọai
đƣợc UNESCO tôn vinh là:
1- Các hình thức biểu đạt mang tính truyền thống hoặc
dân gian nhƣ ngôn ngữ, văn học truyền miệng, âm nhạc,
múa, trò chơi, chuyện kể thần thoại, nghi lễ, trang phục,
kỹ thuật thủ công, kiến trúc;
2- Các không gian văn hoá tức là các địa điểm, nơi các
hoạt động văn hoá truyền thống và dân gia diễn ra một
cách tập trung (chẳng hạn nhƣ những nơi kể chuyện, nơi
diễn ra các nghi lễ, nơi họp chợ, các lễ hội, v.v ) hoặc
diễn ra một cách thƣờng xuyên (nhƣ các nghi lễ hàng
ngày, các đám rƣớc đƣợc tổ chức hàng năm).
Tựu trung, có thể hiểu Di sản văn hóa phi vật thể là tập hợp các
hình thức biểu đạt mang tính văn hóa và xã hội đặc trƣng cho các cộng
đồng và bắt rễ từ trong truyền thống. Những hình thức di sản phi vật thể
này đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và có thể đƣợc biến đổi
theo thời gian bởi một quá trình tái tạo mang tính tập thể. Do tồn tại ở
dạng phi vật thể nên những di sản này đặc biệt dễ bị đe dọa.
3. Tiến trình văn hoá với việc hình thành di sản

16
Là một trung tâm của nền văn hoá Việt, Hà Nội mặc nhiên là nơi
tập trung những đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hoá Việt Nam. Xét về
mặt tiến trình văn hoá, GS. Trần Ngọc Thêm [44,75] cho rằng tiến trình
văn hoá Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: văn hoá thời tiền sử,
văn hoá Văn Lang- Âu Lạc, văn hoá thời chống Bắc thuộc, văn hoá Đại
Việt, văn hoá Đại Nam và văn hoá hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành
ba lớp chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lƣu với

Trung Hoa và khu vực, lớp giao lƣu văn hoá với phƣơng Tây. Mỗi lớp
văn hoá còn ứng với một thời kỳ phát triển khác nhau của văn tự Việt
Nam.
Cách phân biệt ba lớp văn hoá này tƣơng ứng với cách chia văn
hoá Việt Nam thành 3 giai đoạn của GS.Phạm Đức Dƣơng và nhóm đề
tài “Tiếp xúc, giao lƣu và phát triển văn hoá: quan hệ giữa Việt Nam và
thế giới” (Phạm Đức Dương 1994: Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn
hoá: quan hệ giữa Việt Nam và thế giới (chương trình KX-06-15)- T/c
Nghiên cứu Đông Nam Á số 4, tr.1-23). 3 giai đoạn đó là: Giai đoạn hình
thành (tiếp xúc và giao thoa với Đông Nam Á), giai đoạn xây dựng nền
văn hoá quốc gia dân tộc (tiếp xúc và giao thoa với Trung Hoa và Ấn
Độ) và giai đoạn hiện đại.
Cụ thể, trong bài viết “Giữ gìn và khai thác giá trị các di sản văn
hoá- Tiếp cận dƣới ánh sáng đề cƣơng văn hoá năm 1943” (Tạp chí Di
sản, số 4/2003) GS. Phạm Đức Dƣơng viết: “Chúng tôi đã hoàn thành
công trình nghiên cứu về tiếp xúc văn hoá ở Việt Nam qua các giai đoạn
lịch sử và phần nào giải mã tâm thức ứng xử của ngƣời Việt với các nền
văn hoá ngoại lai. Theo chúng tôi, ở nƣớc ta có 4 lần tiếp xúc văn hoá
dẫn tới thay đổi mô hình:

17
Lần thứ nhất tiếp xúc với văn hoá giữa các dân tộc ở Đông Nam Á
tại châu thổ sông Hồng, chủ yếu là giữa hai nhóm cƣ dân Môn- Kmer
làm rẫy trên núi và cƣ dân Tày- Thái cổ ở quanh vịnh Hà Nội. Kết quả
đã hình thành cộng đồng ngƣời Việt cổ với nền văn hoá nông nghiệp lúa
nƣớc vùng châu thổ, đƣợc huyền thoại ghi bằng mô thức lƣỡng hợp: mẹ
Tiên, bố Rồng.
Lần thứ hai tiếp xúc giữa ngƣời Việt và các dân tộc với văn hoá
Hán và văn hoá Ấn Độ, đã hình thành nền văn hoá quốc gia dân tộc với
cấu trúc phức hợp gồm 2 dòng: Văn hoá bác học (hay cung đình) mô

phỏng theo mô hình Trung Hoa và Ấn Độ; văn hoá bình dân (văn hoá
dân gian) bảo lƣu văn hoá lúa nƣớc bản địa.
Lần thứ ba tiếp xúc với văn hoá Pháp và phƣơng Tây hiện đại đã
hiện đại hoá nền văn hoá Việt Nam với hai thành tố: Văn hoá hiện đại
mô phỏng theo mô hình văn hoá phƣơng Tây, văn hoá dân tộc hợp lƣu cả
văn hoá bác học và văn hoá bình dân.
Lần thứ tƣ tiếp xúc với văn hoá xã hội chủ nghĩa. Khác với trƣớc
đây, sự tiếp xúc lần này mang tính tự giác và có cơ sở lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác.
Nói một cách hình ảnh hơn, GS.Trần Quốc Vƣợng trong cuốn
“Thăng Long- Hà Nội tìm tòi và suy ngẫm” [47, 268-302] đã cụ thể hoá
tiến trình văn hoá ấy thông qua việc chứng minh bằng các di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể. Khi phân tích cuộc “giao thoa văn hoá” lớn với
Trung Hoa và khu vực, ông chỉ ra rằng “sự giao thoa – tƣơng tác văn hoá
Việt- Hoa không thể quy giản thành “bên cho” (Hoa)- “bên nhận” (Việt)
mà bao giờ cũng “có đi có lại”. Ngƣời Hoa tiếp thu một số hoa văn trên
trống đồng Đông Sơn đƣa vào gƣơng đồng, kỹ thuật chế tác thuỷ tinh,
một vài giống lúa chịu hạn, vải bông, mía đƣờng (nhƣ đƣờng phèn), kỹ

18
thuật dùng kiến trừ sâu cam và một vài truyền thuyết nhƣ vợ chồng
Ngâu… Ngƣời Việt- đất Việt tiếp thu- hội nhập ở văn hoá Hán trƣớc hết
là mô hình tổ chức hành chính (xã- hƣơng – huyện – quận - đạo – trấn –
tỉnh…), ở hệ thống quan chức (tuy có giản lƣợc đi), ở chế độ khoa cử…
GS. Trần Quốc Vƣợng cũng đã lấy một ví dụ rất hay, đó chính là sự phát
triển của mỹ thuật Việt Nam để chứng minh cho việc “Âu hoá” và
“chống Âu hoá” của văn hoá Việt Nam trong cuộc tiếp xúc với văn hoá
phƣơng Tây.
Về dấu ấn rõ nét của tiến trình văn hoá thể hiện trên các di sản,
GS. Trần Ngọc Thêm chỉ ra rằng: Lớp văn hoá giao lƣu với Trung Hoa

và khu vực (đƣợc hình thành qua hai giai đoạn: giai đoạn văn hoá thời
chống Bắc thuộc và giai đoạn văn hoá Đại Việt) đã mở đầu cho quá trình
giao lƣu- tiếp nhận văn hoá Trung Hoa và khu vực, cũng tức là mở đầu
cho quá trình văn hoá Việt Nam hội nhập vào văn hoá khu vực. Mà điển
hình nhất là sự du nhập của hai hệ tƣ tƣởng Phật giáo và Nho giáo. Ông
viết: “Giai đoạn văn hoá Đại Việt trở thành đỉnh cao thứ hai trong lịch sử
văn hoá Việt Nam (Đại Việt là quốc hiệu chủ yếu của nƣớc ta trong thời
kỳ này). Trong giai đoạn này lại có hai cột mốc: Lý- Trần và Lê. Tinh
thần tổng hợp bao dung truyền thống của văn hoá dân tộc (lớp văn hoá
bản địa) đƣợc tiếp sức bởi văn hoá Phật giáo giàu lòng bác ái (giai đoạn
văn hoá chống Bắc thuộc) đã làm nên linh hồn của thời đại Lý – Trần.
Văn hoá Lý- Trần chứng kiến thời kỳ hƣng thịnh nhất của Phật giáo Việt
Nam. Và với tinh thần tổng hợp bao dung, nó đã mở rộng cửa cho việc
tiếp thu cả Nho giáo và Đạo giáo. “Tam giáo đồng quy” trên cơ sở văn
hoá dân tộc đã khiến cho văn hoá Việt Nam thời Lý- Trần phát triển
mạnh mẽ về mọi phƣơng diện” [44,90].

19
Đây chính là căn cứ lịch sử văn hoá để giải thích cho khối lƣợng
khổng lồ các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể đƣợc hình thành từ lớp
văn hoá này và vẫn đƣợc bảo tồn, phát huy đến hôm nay.
Còn về lớp văn hoá giao lƣu sau cùng, giao lƣu với phƣơng Tây,
GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng: tại lớp văn hoá này cũng có hai xu
hƣớng trái ngƣợc nhau song song tồn tại- Âu hoá và chống Âu hoá- song
biểu hiện của chúng không còn rạch ròi theo từng giai đoạn nhƣ ở lớp
văn hoá thứ hai mà đan cài trong không gian và thời gian. Theo GS. Trần
Quốc Vƣợng [46, 280]: “sản phẩm” tiêu biểu của cuộc giao lƣu này
chính là chữ quốc ngữ. Điều đặc biệt là, một trăm năm giao thoa văn hoá
Đông Tây ở nƣớc ta chủ yếu là ở đô thị bởi vậy mà những biểu hiện về
mặt văn hoá của nó ở Hà Nội – đô thị lớn nhất, trung tâm của cả nƣớc –

là vô cùng rõ nét. Thông qua “ngôn ngữ” của di sản hôm nay, công
chúng có thể thấy đƣợc tiến trình lịch sử của văn hoá dân tộc.
Tóm lại, tiến trình văn hoá ảnh hƣởng trực tiếp và sâu sắc đến quá
trình hình thành các di sản văn hoá. Đồng thời, các di sản văn hoá tại
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chính là sự thể hiện sinh động,
rõ nét nhất tiến trình văn hoá Việt Nam.










20
B. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO VỆ DI SẢN VĂN HOÁ
1. Quy định của Nƣớc CHXHCN Việt Nam:
Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận, ngay từ thời kỳ phong kiến, vấn đề
bảo vệ các di sản văn hoá đã đƣợc chú trọng và đƣợc chính thức đƣa vào
nội dung các bộ luật. Luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông (Thế kỷ XV)
đã ghi rõ các hình phạt của nhà nƣớc trừng phạt những ngƣời lấy cắp và
phá huỷ tƣợng phật và chuông đồng cổ.
Trƣớc năm 1945, các hoạt động nghiên cứu và liệt hạng di tích
lịch sử, văn hoá ở Việt Nam và các nƣớc Lào, Cam-pu-chia đƣợc thực
hiện theo những quy định của "Luật Bảo vệ Di sản Văn hoá" của Cộng
hoà Pháp ban hành năm 1913 và đến năm 1925 đƣợc bổ sung thêm
những quy định cụ thể đối với các nƣớc thuộc địa.
Năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng xây dựng và ban hành

Đề cƣơng văn hoá 1943. Theo GS. Phạm Đức Dƣơng: “Đề cƣơng văn
hoá 1943 là thể chế hoá thành văn bản những quan điểm của Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác. Đó là định hƣớng xã hội
chủ nghĩa của nền văn hoá Việt Nam- một nền văn hoá gắn bó máu thịt
với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo hƣớng xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản lãnh đạo với ba nguyên tắc lớn: Dân tộc hoá, đại chúng
hoá và khoa học hoá” (Bài Giữ gìn và khai thác giá trị các di sản văn
hoá- Tiếp cận dưới ánh sáng đề cương văn hoá năm 1943” - Tạp chí Di
sản, số 4/2003)
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 65 về bảo tồn cổ tích. Đây là Văn
bản pháp lý đầu tiên của nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa về bảo
tồn di sản văn hoá dân tộc.

21
Sắc lệnh số 65SL/CTP do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày
23/11/1945 ấn định nhiệm vụ của Đông phƣơng Bác cổ học viện: Sắc
lệnh đã nhấn mạnh việc bảo tồn cổ tích là việc cần thiết của nƣớc ta. Sắc
lệnh coi toàn bộ di tích lịch sử- văn hoá là tài sản của nhân dân, nghiêm
cấm việc phá huỷ đình chùa, đền, miếu, và những nơi thờ tự khác cùng
những di tích khác chƣa đƣợc bảo tồn. Cấm phá huỷ bia, ký, văn bằng có
ích cho lịch sử. Quy định Nhà nƣớc chi ngân sách cho việc bảo vệ, tu sửa
di tích
Tiếp đó, trong quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và để phù hợp với tình hình thực tiễn, Nhà nƣớc ta đã ra nhiều
văn bản quy định cụ thể về việc bảo vệ di sản văn hóa (xem chi tiết phần
phụ lục) nhƣ:
+ Nghị định 519/TTg ngày 19/10/1957 về bảo tồn di tích
+ Pháp lệnh số 14 LCT/HĐNN (4/4/1984) về bảo vệ và sử dụng di
tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh.

+ Luật Di sản Văn hoá (29/6/2001), Luật đã đƣợc Quốc hội nƣớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua.
Luật gồm 7 chƣơng, 74 điều.
+ Nghị định 92 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Di sản văn hóa (năm 2002)
+ Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hóa,
danh lam thắng cảnh (năm 2003)
2. Những văn bản, cam kết quốc tế:
+ Công ƣớc La Hay (14/5/1954) về bảo vệ tài sản văn hoá trong
trƣờng hợp xung đột quân sự có sự tham gia ký kết của 43 quốc gia trong
đó yêu cầu việc nhất thiết không đƣợc phá và làm hƣ hỏng các di tích

22
văn hoá (trong trƣờng hợp các giá trị văn hoá bị tổn thất do những xung
đột vũ trang cần nhờ đến các cấp trọng tài can thiệp).
+ Những nguyên tắc về bảo vệ di sản văn hoá của UNESCO:
UNESCO luôn đi đầu trong các nỗ lực quốc tế nhằm bảo vệ các di
sản của thế giới. Kể từ năm 1972, khi Công ƣớc về bảo vệ các di sản văn
hoá và thiên nhiên của thế giới ra đời đã trở thành một nỗ lực có tính tiên
phong trong việc gìn giữ các di sản vật thể. Với vai trò bảo vệ các di sản
văn hoá, (Danh mục các di sản thế giới gồm 754 di sản văn hoá và thiên
nhiên có giá trị nổi bật toàn cầu), UNESCO đã tìm cách mở rộng khái
niệm này bằng cách thúc đẩy việc tôn vinh các di sản văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu với nhận thức Di sản vật thể là "một bộ phận cơ bản và
có tầm quan trọng không kém các loại hình di sản khác trong kho tàng di
sản của nhân loại" (K. Matsura, Tổng giám đốc UNESCO).
Trong suốt hơn 20 năm qua, UNESCO đã đi đầu trong việc gìn
giữ các di sản phi vật thể và truyền khẩu bằng cách sử dụng các công cụ
pháp lý quốc tế, các chƣơng trình hoạt động và các ấn phẩm trong đó có:
- Khuyến nghị về việc bảo vệ văn hóa truyền thống và văn hóa dân

gian (1989)
- Hệ thống báu vật nhân văn sống (một danh hiệu đƣợc UNESCO
đƣa ra từ năm 1993 nhằm tôn vinh các cá nhân sở hữu những khả năng
hoặc kỹ xảo cần thiết cho việc thực hiện những khía cạnh nhất định của
đời sống văn hóa của một cộng đồng cũng nhƣ cho việc duy trì tính liên
tục của di sản văn hóa của cộng đồng đó)
- Sƣu tầm Âm nhạc truyền thống của thế giới
- Sổ tay sƣu tập Âm nhạc truyền thống và nhạc cụ ;
- Atlas về các ngôn ngữ có nguy cơ thất truyền của thế giới;
- Hội nghị liên chính phủ về chính sách ngôn ngữ châu Phi.

23
Sự cần thiết xây dựng một chiến lƣợc toàn cầu về bảo vệ và tôn
vinh các di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu càng trở nên cấp bách
khi thế giới còn thiếu một công cụ định chuẩn làm cơ sở cho hoạt động
của các quốc gia và cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực này. Đại hội đồng
lần thứ 31 của UNESCO xác định cần thiết thiết lập một công cụ định
chuẩn nhƣ vậy dựa vào hình thức của công ƣớc 1972 về bảo vệ các di
sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Công ƣớc 1972 thực sự là một thành
công lớn của UNESCO trong việc bảo vệ các di sản văn hóa vật thể và di
sản thiên nhiên trên thế giới. Đây là công ƣớc quốc tế có số thành viên
tham gia lớn thứ hai, chỉ sau Công ƣớc Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em.
Tuy nhiên, thực tế diễn ra trên thế giới cũng cho thấy nhiều hạn chế của
Công ƣớc. Chẳng hạn, nhiều quốc gia không có gì để bảo vệ nếu chỉ theo
công ƣớc 1972 (hiện tại có 47 quốc gia thành viên của Công ƣớc chƣa có
di sản nào đƣợc UNESCO công nhận là Di sản thế giới). Vấn đề nằm ở
chỗ, Công ƣớc 1972 chỉ đề cập đến vấn đề bảo vệ “các điển hình về di
sản có giá trị nổi bật toàn cầu" (thực chất là các di sản vật thể), mà không
nhấn mạnh đầy đủ đến tầm quan trọng của tính đa dạng trong các hình
thức biểu hiện của di sản văn hóa để từ đó, tất cả các loại hình di sản, cả

vật thể và phi vật thể , cùng đƣợc bảo vệ và tôn vinh.
Trƣớc yêu cầu của cộng đồng quốc tế cũng nhƣ để khắc phục hạn
chế của Công ƣớc 1972, UNESCO đã đề ra một “Chiến lƣợc toàn cầu"
cho việc bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể nhằm tái khẳng định cam
kết của tổ chức này đối với việ bảo vệ các di sản văn hóa, đồng thời tăng
cƣờng các mục tiêu chiến lƣợc trong lĩnh vực văn hoá của tổ chức này,
đó là:
- Thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện các công cụ định chuẩn
trong lĩnh vực văn hóa;

×