Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí. Nghiên cứu rường hợp Trường Cao đẳng phát thanh-truyền hình TW1 năm 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 115 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Đỗ Văn Trọng





Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên
báo chí. Nghiên cứu trường hợp trường cao
đẳng phát thanh – truyền hình Trung Ương 1
năm 2007









Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng: 60.31.01

Nghd. : PGS.TS. Mai Quỳnh Nam












DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1. KHXH & NV = Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
2. TP.HCM = Thành phố Hồ Chí Minh
3. TTXVN = Thông tấn xã Việt Nam

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
4
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
9
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi
10

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
11
7. Giả thuyết nghiên cứu
13
8. Kết cấu của luận văn
13
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn

1.1. Cơ sở lý luận
20
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông đại chúng
20
1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng
23
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền thông đại
chúng
26
1.1.4. Lý thuyết của Marx Weber về đối tƣợng nghiên cứu của truyền
thông đại chúng
29
1.1.5. Học thuyết của Haold Lasswell và Claude Shannon về truyền
thông đại chúng
30
1.2. Các khái niệm công cụ
35
1.2.1. Truyền thông
35
1.2.2. Truyền thông đại chúng

36
1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng
37
1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng
38
1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí
38
1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu
39

2
1.3.1. Vài nét về địa điểm nghiên cứu

1.3.2. Một số đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu

Chương 2: Kết quả nghiên cứu

2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp nhận thông
tin của công chúng sinh viên báo chí.

2.1.1. Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
43
2.1.1.1. Báo in
43
2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình
45
2.1.1.3. Mạng internet
48
2.1.2. Cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công chúng Sinh viên
báo chí.

50
2.1.2.1. Thời gian và địa điểm và cách thức đọc báo
51
2.2.2.2. Thời gian và địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh
54
2.2.2.3. Thời gian và địa điểm và cách thức xem truyền hình
57
2.1.2.4. Thời gian và địa điểm và cách thức truy cập Interner
59
2.2. Nhu cầu và mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo
chí
62
2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công sinh viên báo chí
73
2.3.1. Những nội dung thông tin đƣợc quan tâm
72
2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị
74
2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ
80
2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí đƣợc quan tâm
82
2.3.2.1. Tin

2.3.2.2. Phóng sự

2.3.2.3. Phỏng vấn, toạ đàm

2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công chúng sinh viên
báo chí

85
2.4. Nhận diện dấu hiệu đặc trưng của một số phương tiện truyền thông


3
đại chúng
2.4.1. Tạp chí: Ngƣời làm báo
93
2.4.2. Báo: Nhà báo & công luận
95
2.4.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thƣ ký của thời đại )
97
2.5. Hiệu quả của những thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc học tập
và rèn luyện của sinh viên báo chí
100
2.5.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến việc học tập
và rèn luyện của sinh viên báo chí
101
2.5.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc học tập và rèn
luyện của sinh viên báo chí
102
PHẦN KẾT LUẬN

1. Một số đánh giá
108
2. Các khuyến nghị
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
113
























4
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng đƣợc sử dụng
trong “Lời nói đầu của Hiến chƣơng Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học và
giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng

lĩnh vực của xã hội.[3]
Hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là hệ
thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất
quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt
động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.
Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện
vai trò cũng nhƣ khả năng tạo sự tƣơng tác xã hội, hƣớng dẫn, định hƣớng hành
vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành
một thiết chế xã hội, nó đƣợc coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết
xã hội.
Hiện nay, truyền thông đại chúng có đƣợc sự hỗ trợ rất lớn của các
phƣơng tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đƣa hệ
thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện
đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tƣợng của báo chí mọi quốc gia,
không gian thông tin của nhân loại đang đƣợc thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền
thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào
thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng nhƣ là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới theo xu
hƣớng hội nhập và phát triển . Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nƣớc
nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền thông đại
chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp tích cực
vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nƣớc, thực hiện mục tiêu dân

5
giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đƣờng lối đổi
mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã hội;
Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin báo
chí ở nƣớc ta.
Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế đƣợc hình thức thông tin một chiều

đơn điệu và ngày càng thể hiện đƣợc vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.
Thông tin hai chiều đƣợc thực hiện trên báo chí : một mặt tuyên truyền, giải
thích đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đến với công
chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng
trong quá trình thực hiện đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó nhƣ : Báo in, báo ảnh,
phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin cơ bản
nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hƣớng vận động của
thông tin đại chúng.
Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những hạn chế
riêng , chẳng hạn nhƣ: báo in có khả năng lƣu trữ lâu, đồng thời đi sâu phân tích
chi tiết các sự kiện hiện tƣợng, công chúng của loại hình báo chí này có thể tiếp
nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế cơ bản của
loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công chúng ở
vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh, đồng thời,
rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin đồng thời với
thời điểm diễn ra sự kiện. Nhƣng hạn chế của nó là tính thoảng qua, khả năng
lƣu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình báo chí này
phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng, thời tiết …
Ở nƣớc ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,
chúng không những không loại trừ nhau, mà ngƣợc lại còn bổ khuyết, hỗ trợ
cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nƣớc.

6
Hiện nay, cả nƣớc ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp đang hoạt
động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một đội ngũ
đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở các
phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã…

Cả nƣớc hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp chí và
khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong tổng số
hơn 10.359 xã đƣợc đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1 ngƣời là 7,5
bản báo. 70% lƣợng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố.
Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu
vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ
thuật số VTC của bộ bƣu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ƣơng đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình
phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát
thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn
10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất
trong cả nƣớc.
Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều đƣợc truyền qua vệ tinh.
Theo con số thống kê chƣa đầy đủ cả nƣớc hiện có hơn 10 triệu máy thu hình,
với gần 85% số hộ gia đình xem đƣợc truyền hình. Sóng phát thanh hiện đã tới
5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nƣớc ta.
Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí
mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhƣng đƣợc sự hỗ trợ mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định đƣợc vai trò cũng nhƣ
sức mạnh vƣợt trội của mình.
Ở nƣớc ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7
năm phát triển, đến nay cả nƣớc ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt
động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.
Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng thì : “

7
Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn :
Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).
Hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng ở nƣớc ta hiện nay

đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nƣớc. Chính
vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều đƣợc
dựa trên những cơ sở thống nhất nhƣ :
- Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân dân, Ngƣời
làm báo )
- Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Ngƣời cao tuổi…)
- Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà tây, Hà
nam…)
- Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)
1)

- Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ sinh …)
- Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ, tạp chí
Văn nghệ… )
*

Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát hành đối
với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí trung ƣơng và địa phƣơng. Tất cả
các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã hội, do đó các đối
tƣợng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù hợp từ hệ thống
truyền thông đại chúng.
Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về những
ảnh hƣởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp công
chúng ở nƣớc ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và thực tiễn.

*
Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp
thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá
tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên,

Viện Xã hội học.


8
Gần đây, một số tác giả cũng đã đƣa vấn đề nhận diện công chúng
truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng
những công trình xem xét dƣới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hƣớng
nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung
và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.
Sinh viên là nhóm dân số xã hội tƣơng đối lớn trong hệ thống cơ cấu xã
hội . Nhóm sinh viên đƣợc xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
- Có trình độ học vấn tƣơng đối cao
- Đang học nghề, trong một tổ chức trƣờng học .
Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lƣợng lao động của
xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nƣớc.
Lực lƣợng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các
hoạt động giao tiếp với các phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong
môi trƣờng văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận
lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.
Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là
sinh viên báo chí cần đƣợc lƣu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trƣớc hết, họ là lực lƣợng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là
những chủ nhân của đất nƣớc trong tƣơng lai. Và đặc biệt sau khi ra trƣờng họ
sẽ trở thành những nhà báo - những ngƣời sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hƣởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng nhƣ
tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí
trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai

đoạn hiện nay.

9
Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trƣờng Cao
đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 ( Trực thuộc đài Tiếng nói Việt Nam ) tại
Hà nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí .
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ thống tri
thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo đƣợc sự quan tâm của
cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng.
Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại chúng với
xã hội, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau tuỳ
thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định .
Năm 1905, nhà bác học ngƣời Nga Pôpốp phát minh ra vô tuyến điện kéo
theo nó là sự ra đời của đài phát thanh – đây là một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử
phát triển các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với
những ƣu điểm vƣợt trội về tốc độ thông tin cũng nhƣ sự quảng đại trong việc
truyền bá nên đã đƣợc công chúng hào hứng, say sƣa tiếp nhận.
Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho
khuynh hƣớng này là quan điểm của trƣờng phái Frankfurt, họ cho rằng với khả
năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin
tƣởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó đƣợc truyền trên
sóng phát thanh. Nhận xét này đƣợc đƣa ra từ sự quan sát số lƣợng công chúng
bị tác động và sự ảnh hƣởng của nội dung thông điệp truyền tải, chƣa dựa trên
những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông.
Năm 1944, Paul Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu thực
nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận động
tranh cử thông qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng hầu nhƣ chỉ làm
tăng thêm sự tin tƣởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm thay

đổi quyết định của họ[403, 404].

10
Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại chúng”
cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là tác
động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là yếu tố
duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng[40,144]”. Nói cách khác,
truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải là tác
nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng.
Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bƣớc tiến dài trong sự
phát triển của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của truyền
hình đƣợc khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại hình
báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ XX,
truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm nghi ngờ
về sức mạnh của truyền thông đại chúng đƣợc đặt ra xem xét lại. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng nhƣ sự tác động to lớn của
loại hình này.
Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng lƣu trữ
thông tin , thời lƣợng, sự đơn điệu, sự tƣơng tác … của các phƣơng tiện truyền
thống đã đƣợc giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định đƣợc vai trò cũng nhƣ
sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng.
Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát
triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới
xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá, tăng cƣờng khả năng giao lƣu, hội nhập, hợp tác, trên
mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Sự ra đời của mạng Internet với những ƣu điểm vƣợt trội và phạm vi tác
động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng nhƣ nhiều hƣớng nghiên
cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội.

Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã
hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hƣớng nghiên cứu hiệu

11
quả truyền thông đại chúng của mạng Internet đƣợc đặc biệt chú trọng và phạm
vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới.
Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đƣa ra khái niệm “không gian cộng
đồng” trong đó các phƣơng tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian
liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng nhƣ nội bộ xã hội xã hội
dân sự và các thiết chế nhà nƣớc. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng
không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền
thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con ngƣời. Truyền thông
đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã
hội[351, 352].
Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hƣớng nghiên cứu
cơ bản của xã hội hiện đại. Các nƣớc có truyền thống nghiên cứu xã hội học rất
coi trọng hƣớng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà các
quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu hóa. Truyền
thông đại chúng đƣợc coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên các liên kết xã
hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng bắt đầu
từ những năm 20 của thế kỷ trƣớc, bao giờ xã hội học cũng hết sức đƣợc coi
trọng, nó đƣợc coi là hƣớng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã hội
của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá
hiệu quả xã hội của hệ thống này.
Ngay từ năm 1910, M.Weber ngƣời đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã
hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng
đầu trong các vấn đề cần phải ƣu tiên của xã hội học truyền thông đại chúng.
Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng chỉ
ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tƣơng tác xã hội để hình thành hành

động xã hội phù hợp với định hƣớng xã hội.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng với
công chúng bƣớc đầu đã tạo đƣợc sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ năm

12
1990 đến nay đã có một số những công trình theo hƣớng nghiên cứu lý thuyết
và thực nghiệm về công chúng.
Trƣớc hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam đăng
trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đƣa ra những cơ sở lý thuyết cho việc
nghiên cứu truyền thông đại chúng và dƣ luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hƣớng
nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính chất
của truyền thông đại chúng”[55], tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa giao tiếp
các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên cơ sở
phân tích mối quan hệ này, tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp đến hiệu
quả của hoạt động báo chí; Thứ nhất là sự tác động từ hệ thống pháp luật và
quyết định quản lý của các cơ quan quản lý báo chí. Thứ hai là sự tác động từ
công chúng báo chí. Thực tế cho thấy rằng, trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá hiện nay sự tác động của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng dẫn đến
sự thay đổi ứng xử xã hội của công chúng là tƣơng đối rõ nét; Đặc biệt trong đó
có nhóm công chúng là sinh viên báo chí.
Bài viết “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng” trên
tạp chí Xã hội học số 4 – 2001[56], tác giả đã tổng hợp một số hệ thống chỉ tiêu
định tính và định lƣợng làm cơ sở để phân tích hiệu quả của các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng.
Các bài nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về báo chí cũng của tác giả
này đã in trên tạp chí Tâm lí học số 1- 2004 nhƣ: “ Sinh viên Hà nội trong giao
tiếp đại chúng” [55], “ Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân tộc”
[48], “ Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn” – Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà nội…tác giả cùng các cộng sự đã khảo sát mối quan hệ giữa các nhóm

công chúng này với hệ thống truyền thông đại chúng trong môi trƣờng chính trị
- xã hội. Đặc biệt, các nghiên cứu này chú ý tới đặc điểm quá trình tiếp nhận
thông tin, xử lí thông tin, cơ chế lây lan thông tin và các thức sử dụng thông tin

13
của họ, coi đó nhƣ những dấu hiệu tin cậy để đánh giá hiệu quả hoạt động của
hệ thống này.
Ngoài ra, tác giả này cũng đƣa ra hàng loạt các nghiên cứu về dƣ luận xã
hội trong các bài viết trên tạp chí Xã hội học nhƣ “Dƣ luận xã hội - mấy vấn đề
lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu” ( Tạp chí Xã hội học số 1- 1995), “Dƣ luận
xã hội về con số” ( Tạp chí Xã hội học số 3 – 1996), “ mấy vấn đề về dƣ luận xã
hội trong công cuộc đổi mới” ( Tạp chí Xã hội học số 2 – 1996), “ Vai trò của
dƣ luận xã hội trong cơ chế “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ( Tạp
chí Tâm lí học số 2 – 2000). Trong bài “ Truyền thông đại chúng và dƣ luận xã
hội” ( Tạp chí Xã hội học số 1 – 1996) tác giả đi sâu phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện dƣ
luận xã hội.
Các tác giả khác cũng công bố những công trình nghên cứu về xã hội học
báo chí nhƣ: luận án tiến sĩ xã hội học của tác giả Trần Hữu Quang năm 2000 “
Chân dung công chúng báo chí Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án đi sâu khảo
sát cách thức và mức độ sử dụng các phƣơng tiện truyền thông đại chúng của
công chúng. Trên cơ sở phân tích các hình thức tiếp nhận thông tin từ các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng của công chúng, để nhận diện công chúng
trong bối cảnh đổi mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác nhƣ: luận án tiến sĩ Xã
hội học của tác giả Trƣơng Xuân Trƣờng năm 2002 “ Hiện trạng và vai trò tác
động của truyền thông dân số đối với ngƣời nông dân”, PGS.TS. Nguyễn Văn
Dững “Đối tƣợng tác động của báo chí” trên tạp chí Xã hội học số 4 – 2004,
luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Thị Phƣơng Thảo “ Hiệu quả của truyền thông
đại chúng đối với công chúng thanh niên đô thị” nghiên cứu trƣờng hợp thành

phố Hải Phòng năm 2006…
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Truyền thông đại chúng với công
chúng thanh niên đô thị - nghiên cứu trƣờng hợp thành phố Hải Phòng, do Viện

14
Xã hội học chủ trì PGS.TS Mai Quỳnh Nam chủ nhiệm đề tài có thể đƣợc coi là
công trình đầu tiên theo hƣớng nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu công chúng.
Việc nghiên cứu đề tài Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên
báo chí có thể là một đóng góp để bƣớc đầu hình dung đƣợc hiệu quả xã hội của
báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí, trong đó có công chúng là sinh
viên Trƣờng Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Xuất phát từ góc nhìn của báo chí học, xã hội học báo chí; nghiên cứu
vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí để đánh giá tác
động của hệ thống báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí đƣợc chọn
làm đối tƣợng nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu để tìm hiểu, nhận diện sự lựa
chọn nguồn tin cũng nhƣ sự tiếp thu, sử dụng những nguồn tin nhận đƣợc, đồng
thời tìm hiểu dƣ luận xã hội trong sinh viên báo chí về hoạt động của báo chí
trong hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng có thể góp phần vào việc nghiên cứu
hiệu quả của báo chí với công chúng nói chung, và đặc biệt là đối với công
chúng là sinh viên, trong đó có một bộ phận là sinh viên báo chí.
Kết quả nghiên cứu từ đề tài này có thể là tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí học và xã hội học truyền thông đại chúng.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo
chí, chúng tôi hi vọng sẽ đƣa ra đƣợc những khuyến nghị để các nhà quản lí
truyền thông, các cơ quan truyền thông nắm đƣợc thực trạng sự tác động của hệ
thống truyền thông đối với bộ phận công chúng này. Từ đó tạo cơ sở khoa học

cho những giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả của báo chí đối với công chúng
sinh viên báo chí.



15
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo
chí nhằm tìm hiểu :
- Công chúng sinh viên báo chí tiếp cận thông tin nhƣ thế nào?
- Những vấn đề nào truyền tải trên báo chí đƣợc công chúng sinh viên báo
chí quan tâm?
- Dƣ luận xã hội trong tầng lớp công chúng sinh viên báo chí và cách thức
xử lí những thông tin tiếp nhận đƣợc từ báo chí.
- Hiệu quả của việc sử dụng những thông điệp tiếp nhận đƣợc đối với việc
học tập và rèn luyện.
- Góp phần đề xuất những khuyến nghị về giải pháp tăng cƣờng hiệu quả
thông tin tới nhóm công chúng này.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cách thức tiếp nhận thông tin và hiệu quả việc sử dụng nội dung
các thông điệp đƣợc thông tin trên báo chí.
- Phân tích các hình thức trao đổi thông tin trong nhóm công chúng sinh
viên báo chí.
- Phân tích hiệu quả của báo chí qua hoạt động tiếp nhận và sử dụng thông
tin từ cac phƣơng tiện truyền thông đại chúng của sinh viên báo chí.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí
5.2 Khách thể nghiên cứu

Là nhóm công chúng sinh viên báo chí Trƣờng Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1
5.3 Phạm vi nghiên cứu

16
Trng Cao ng Phỏt thanh - Truyn hỡnh TW1 trc thc i ting núi
Vit Nam ( nm trờn a bn th xó Ph Lý, tnh H Nam ). Kho sỏt thi im
thỏng 06 nm 2007.
6. Phng phỏp nghiờn cu
6.1 Phng phỏp lun
Dựa trên quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc th-ợng tầng
và cơ sở hạ tầng trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, t- t-ởng của C.Mác về vai
trò của ý thức xã hội trong đời sống xã hội, về mối liên hệ giữa truyền thông đại
chúng và d- luận xã hội đ-ợc lấy làm cơ sở cho việc nghiên cứu sự tác động của
truyền thông đại chúng và d- luận xã hội. C.Mác cho rằng : Lý luận có thể trở
thành lực l-ợng vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng, sản phẩm của
truyền thông là d- luận xã hội
*
.

Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ trong
những thập niên vừa qua và trở thành một chủ đề cơ bản của xã hội hiện đại.
Năm 1910, M.Weber đã đề xuất h-ớng nghiên cứu này có nhiệm vụ phát triển
mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với xã hội theo các h-ớng :
- Nghiên cứu công chúng
- Nghiên cứu tổ chức truyền thông và các nhà truyền thông với vai trò là
một tầng lớp xã hội nghề nghiệp
- Phân tích nội dung thông điệp truyền tải
Nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng là một vấn đề cấp bách và
phức tạp, điều đó xuất phát từ chỗ ng-ời ta ngày càng nhận thấy khả năng tác

động to lớn của hoạt động truyền thông . Mặt khác, tính phức tạp của h-ớng
nghiên cứu này lại phụ thuộc bởi tính chất đa chức năng của thông tin đại chúng
và các mối quan hệ nhiều chiều ở sự t-ơng tác với hệ thống thông tin đại chúng
trong thực tế
Trên cơ sở áp dụng lí luận báo chí, quan điểm lý thuyết xã hội học chuyên
ngành xem xét hiệu quả tác động của báo chớ với nhóm công chúng là sinh
viên báo chí đ-ợc đặt trong các t-ơng tác xã hội cụ thể.

*
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập T.1, tr.206. Dẫn theo Mai Quỳnh Nam, "Truyền thông đại chúng và d- luận
xã hội", Tạp chí Xã hội, số 1 (53), 1996, tr.3

17
Quan điểm lý thuyết xã hội học đ-ợc dùng làm cơ sở nghiên cứu ở đây
gồm: Cách phân loại hiệu quả truyền thông đại chúng đối với công chúng do
Weiss (1988) đ-a ra về tác động định l-ợng của truyền thông đại chúng; Những
l-u ý của Moll (1993) khi phân tích chỉ báo độ ghi nhớ của công chúng về nội
dung thông điệp; Nhng vấn đề tạo nên mối quan tâm của giới chuyên môn
trong phân tích hiệu quả của truyền thông đại chúng (liên quan tới:
1. Việc tách giải quyết hoạt động của từng kênh truyền thông cụ thể.
2. Nhận xét của Sechcô (1986) về sự sai lầm khi tách tác động truyền thông đại
chúng ra khỏi ảnh h-ởng từ các cơ sở xã hội khác cùng tác động hàng ngày đối
với công chúng truyền thông.
3. Sự đan xen và t-ơng hỗ giữa giao tiếp đại chúng và giao tiếp cá nhân d-ới tác
động của các ph-ơng tiện truyền thông đại chúng).
4. Lý luận về cơ chế lây lan thông tin; về dòng phản hồi thông tin.
5. Lập luận của M.Weber về tác động của truyền thông đại chúng đối với việc
hình thành ý thức quần chúng và d- luận xã hội [7]



Ng-ời nghiên cứu cũng đặc biệt chú ý đến các khía cạnh lý luận và lịch sử
của vấn đề mà các tác giả đi tr-ớc đã đặt ra, coi đó nh- những tiền đề lý luận để
triển khai đề tài của mình.
6.2 Phng phỏp thu thp thụng tin
Nhng thụng tin chỳng tụi thu thp c qua vic s dng kt hp cỏc
phng phỏp :
- Phng phỏp nghiờn cu nh lng thụng qua vic iu tra chn mu.
iu tra c tin hnh vi 400 bng hi vi sinh viờn bỏo chớ Trng
Cao ng Phỏt thanh - Truyn hỡnh TW1 trc thuc i Ting núi Vit
Nam ( nm trờn a bn th xó Ph Lý, tnh H Nam ). Mu nghiờn cu
c da trờn cỏc ch bỏo v gii tớnh, nm hc, ngnh hc ca sinh viờn.
- Phng phỏp iu tra nh lng thu thp thụng tin c tin hnh vi sinh
viờn ti trng nm 2007.
Ngoi ra, thụng tin cũn c thu thp da trờn cỏc t liu sn cú liờn quan
n ch nghiờn cu, qua h thng bỏo chớ c cp nht thng xuyờn.

18
Chúng tôi tiến hành xử lí thông tin theo phƣơng pháp :
- Sử dụng phƣơng pháp phân tích thống kê đối với những số liệu định
lƣợng.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Đề tài đƣợc triển khai để đánh giá và kiểm nghiệm các giả thuyết nghiên
cứu sau:
1. Vai trò, ý nghĩa của những thông tin đƣợc tiếp nhận từ báo chí, nhƣ sự đối
với việc học tập, rèn luyện và tác nghiệp của sinh viên báo chí .
2. Dƣ luận xã hôi của công chúng sinh viên báo chí, thể hiện những đề xuất
về phƣơng thức thông tin cũng nhƣ hiệu quả tác động đến nhóm công chúng
này.
3. Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, hệ thống báo chí đã phát
triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới đất

nƣớc. Tuy nhiên, trong hoạt động thông tin cũng đã xuất hiện những xu hƣớng
bất cập, hạn chế nhƣ tính thƣơng mại hóa và có cả những sai lệch trong thông
điệp truyền thông. Điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến công chúng sinh viên
báo chí.
8. Kết cấu của luận văn
8.1 Phần mở đầu
Luận văn giới thiệu: Giả thuyết nghiên cứu; Phƣơng pháp nghiên cứu;
Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu; Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu; Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài; Tính cấp thiết của đề tài nghiên
cứu.
8.2 Phần nội dung luận văn gồm 2 chƣơng
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Phần 1: Đƣa ra các lí luận về truyền thông đại chúng, trên cơ sở của báo
chí học và xã hội học báo chí. Đặc biệt là các quan điểm lí thuyết về công
chúng của truyền thông và hiệu quả của truyền thông đại chúng. Vài nét về vấn
đề nghiên cứu và hệ thống các khái niệm công cụ phục vụ nghiên cứu.

19
Phần 2: Giới thiệu địa điểm khảo sát, và một số đặc điểm cơ bản của khách
thể nghiên cứu.
Chương 2: Hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí
Phần 1: Trình bày kết quả nghiên cứu về hiệu quả tác động của thông tin tiếp
nhận từ báo chí với công chúng là sinh viên báo chí. Thông qua mức độ và các
hình thức tiếp nhận thông tin.
Phần 2: Trình bày kết quả những phân tích về những vấn đề đăng tải trên báo
chí đƣợc sịnh viên báo chí quan tâm.
Phần 3: Trình bày kết quả những phân tích về những dấu hiệu để nhận diện nội
dung của một số phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Phần 4: Trình bày kết quả phân tích về sự tác động của những thông tin tiếp
nhận đƣợc từ báo chí với việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí.

8.3 Phần kết luận
Từ các kết quả phân tích, tác giả tiến hành luận giải các giả thuyết nghiên
cứu, đồng thời đƣa ra các giải pháp nhằm mở rộng khả năng tiếp nhận thông tin
của công chúng sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng. Mặt khác,
nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng và
đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học về truyền thông đại chúng và công chúng
của truyền thông đại chúng.











20
PHẦN NỘI DUNG
HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ VỚI CÔNG CHÚNG SINH
VIÊN BÁO CHÍ
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về truyền thông đại chúng
C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lê nin là những nhà tƣ tƣởng vĩ đại của giai cấp
vô sản thế giới – là ngƣời đặt nền móng cho lí luận báo chí cách mạng[32, 42].
Là những ngƣời trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều tờ báo, đồng thời là những nhà

báo lỗi lạc, luôn rất quan tâm đến hoạt động báo chí, xuất bản. Tƣ tƣởng về
công tác báo chí và hoạt động báo chí xuất bản của những nhà kinh điển này vô
cùng đồ sộ và phong phú – là một bộ phận quan trọng trong hình thái ý thức xâ
hội mác xít.
Từ nhãn quan duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích sự ra đời cũng nhƣ bản chất của
báo chí.
Bằng những bài báo, những tác phẩm của mình các nhà cách mạng vô sản
đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình: báo chí là vũ khí sắc bén đề chiến đấu
bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, bác bỏ và vạch trần
luận điệu của những thế lực thù địch. Báo chí cách mạng vô sản phải thực sự là
vũ khí chiến đấu hữu hiệu của giai cấp công nhân, là cơ quan tuyên truyền, tham
gia vào việc tổ chức phát triển xã hội bằng hoạt động ngôn luận. Trọng trách
của báo chí cách mạng là phục vụ lợi ích của nhân dân, vì sự tiến bộ và giải
phóng con ngƣời [36, 18].
Trong thực tế, C.Mác – Ph. Ăng ghen là những ngƣời sáng lập ra nền báo
chí cách mạng mà đấu mốc quan trọng là sự ra đời của tờ báo “Sông Ranh mới”

21
trong những năm 1848 – 1849. Tờ báo này do do C.Mác làm tổng biên tập và
Ph. Ăng ghen là cộng tác viên đắc lực[31, 39]. Tờ báo này gắn liền với phong
trào cộng sản ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ thứ XIX.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có phân chia
giai cấp thì mỗi con ngƣời phải thuộc về một giai cầp, tầng lớp nhất định và
quyền lợi của các giai cấp trong xã hội là khác nhau thậm chí đối lập nhau. Các
giai cấp tầng lớp trong xã hội đều sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu để bảo
vệ địa vị chính trị và quyền lợi kinh tế của mình. Chính vì vậy, báo chí của giai
cấp nào thì phản ánh tôn chỉ mục đíc đƣờng lối tƣ tƣởng, tình cảm, nguyện vọng
của giai cấp đó [31, 99].
Báo chí của các Đảng Cộng Sản đƣợc xác định là cơ quan ngôn luận của

Đảng, là sợi dây liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân, là vũ khí đấu tranh
của gia cấp vô sản. Ph.Ăng ghen chỉ ra rằng: “ Đối với Đảng nhất là Đảng của
giai cấp công nhân thì việc lập ra tờ báo hàng ngày đầu tiên là cái mốc quan
trọng để tiến lên phía trƣớc. Đó là nhận định ban đầu, từ đó Đảng sẽ tiến hành
cuộc đấu tranh với những đối thủ của mình bằng vũ khí tƣơng xứng. Báo hàng
ngày là công cụ tuyên truyền,cổ động quần chúng không có gì thay thế đƣợc”
[36, 18].
C.Mác nhận định: “ Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ
với nhân dân niềm hi vọng và sự lo lắng của họ. Trong hi vọng và lo lắng, có
điều gì báo chí nghe đƣợc từ cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi
ngƣời đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó
một cách gay gắt, hăng say, phiến diện nhƣ những tình cảm và tƣ tƣởng bị xúc
động thầm bảo nó vào lúc đó. Điều sai lầm hôm nay nằm trong các sự kiện mà
nó đƣa tin, hoặc trong những lời nhận xét mà nó nêu lên thì ngày mai sẽ đƣợc
bản thân nó bác bỏ” [3, 237]. Từ nhận định trên cho thấy: báo chí cách mạng là
công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, coi phong trào quần chúng là
cơ sở thực tiễn để phản ánh, chỉ có nhƣ vậy báo chí mới có thể bảo vệ đƣợc
quyền lợi của quần chúng một cách thiết thực.

22
V.I.Lê nin - ngƣời cộng sản ƣu tú, kế thừa tƣ tƣởng chủ nghĩa C.Mác đã
đặc biệt nhấn mạnh vai trò của báo chí trong phong trào cách mạng: “ Chúng ta
cần trƣớc hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành đƣợc một cách có
hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức nguyên tắc và toàn diện” [37, 10], “
Tờ báo không chỉ là ngƣời tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là
ngƣời tổ chức tập thể …Nhờ có tờ báo, một tổ chức cố định tự nó hình thành, nó
không chỉ làm các công tác địa phƣơng mà còn làm cả công tác chung thƣờng
xuyên nữa, nó giúp cho những nhân viên của nó quen việc theo dõi chăm chú
những biến cố chính trị, đánh gia ý nghĩa của những biến cố ấy đến các tầng lớp
khác nhau trong nhân dân, và vạch ra cho đảng cách mạng những phƣơng pháp

hợp lí để tác động đến những biến cố ấy” [37, 12]
Báo chí một mặt cung cấp thông tin cho công chúng, mặt khác nó phản
ánh những tâm tƣ nguyện vọng, ý kiến… của công chúng về những vấn đề thời
sự nóng bỏng của xã hội. Chính vì vậy, nó đƣợc xác định là một trong những
nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho những nhà quản lí xã hội. Những
quyết định quản lí chỉ thực sự phù hợp và hiệu quả khi nó dựa trên những thông
tin chính xác từ thực tế cuộc sống. V.I. Lênin đã yêu cầu thành lập một uỷ ban
đặc biệt để thu thập và xử lí thông tin ngay từ những ngày đầu cách mạng: “ Có
thể và nhất thiết phải tổ chức một văn phòng nhƣ vậy, nó có thể đem lại lợi lớn;
Không có nó, chúng ta sẽ không có mắt, không có tai, không có tay để tham gia
các phong trào quốc tế” [39, 156]
V.I. Lênin đề cao sự phù hợp giữa các yếu tố nội dung và hình thức thể
hiện của tác phẩm báo chí. Nó sẽ không đem lại hiệu quả cao với công chúng
khi nội dung thông tin tốt nhƣng cách thể hiện không gần gũi, xa rời với đời
sống nhân dân: “Sự đơn giản, dễ hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tƣ liệu
đƣa ra sẽ đảm bảo cho những tƣ tƣởng của báo chí đi sâu vào lòng ngƣời đọc
thuộc mọi tầng lớp nhân dân” [38, 92].
Từ những quan điểm trên cho thấy: chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá rất
cao vai trò, cũng nhƣ hiệu quả của báo chí trong việc tác động vào xã hội, nó

23
làm thay đổi nhận thức, cũng nhƣ hành vi ứng xử của con ngƣời trong thực tiễn
cuộc sống. Hiệu quả của báo chí sẽ là một sức mạnh to lớn, góp phần hình thành
dƣ luận xã hội, định hƣớng dƣ luận xã hội tích cực trong công chúng.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng
Ở Việt Nam, nền báo chí cách mạng đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời của tờ
báo “Thanh niên” ngày 21 – 6 – 1925 do Hồ Chí Minh sáng lập.
Hồ Chí Minh - ngƣời chiến sĩ cộng sản ƣu tú, nhà báo cộng sản đầu tiên ở
đã sáng lập ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản ở nƣớc ta. Là ngƣời kế
thừa những tinh hoa của chủ nghĩa Mác – Ăng ghen, Lênin về báo chí vô sản,

áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, quan điểm về báo chí của Hồ Chí
Minh rất cụ thể và sâu sát. Trƣớc hết, đối với báo Đảng, Ngƣời cho rằng: tờ báo
của Đảng có nhiệm vụ làm cho tƣ tƣởng và hành động thông suốt và thống nhất.
Cụ thể là tuyên truyền lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đƣờng lối chính sách đối
nội và đối ngoại của Đảng và của Chính phủ. Thông tin về tình hình trong nƣớc
cũng nhƣ thế giới, những kinh nghiệm tốt, xấu của các nghành các địa phƣơng,
phản ánh công tác học tập, công tác, tinh thần phê bình, tự phê bình, cũng nhƣ
đời sống và ý nguyện của nhân dân…Mỗi tờ báo Đảng là những lớp huấn luyện
đơn giản, thiết thực và rộng khắp: “Những tờ báo Đảng cung cấp cho chúng ta
những điều cần biết làm về công tác tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công
tác…nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của chúng ta”
[336, 337]. Hồ Chí Minh luôn xác định và đề cao vai trò của báo chí, coi nó nhƣ
một vũ khí sắc bén chiến đấu để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc: “Cán bộ
báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén cuả
họ” [377]. Đối với mỗi tờ báo để phúc vụ đƣợc nhân dân tốt hơn đều phải xác
định nội dung, tôn chỉ mục đích cũng nhƣ đối tƣợng phục vụ rõ ràng:
Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ
chức dân chúng dể đƣa dân chúng tới mục đích chung.
Tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái quốc.

×