1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ MINH TÂM
Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh
Giáo dục và đào tạo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam
(2005 – 2006)
Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số : 60.32.01
Luận văn Thạc sĩ báo chí
Hà Nội - 2006
2
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG I:
BÁO CHÍ VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
8
1.1
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới
8
1.1.1
Giáo dục và đào tạo nhằm phát triển toàn diện con
người
9
1.1.2
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
10
1.1.3
Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và của toàn dân
11
1.1.4
Phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội
13
1.1.5
Xã hội hoá giáo dục đào tạo, thực hiện công bằng
xã hội trong giáo dục và đào tạo
15
1.2
Vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp
đổi mới
17
1.3
Vai trò của báo chí trong việc phát triển giáo dục
và đào tạo
19
1.3.1
Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục và
đào tạo
21
1.3.2
Biểu dương các điển hình giáo dục tiên tiến (tập
23
3
thể, cá nhân)
1.3.3
Phát hiện, phê phán những biểu hiện, những việc
làm sai trái trong ngành giáo dục
25
1.3.4
Khơi dậy phong trào học tập trong nhân dân, xây
dựng một xã hội học tập
26
CHƢƠNG II:
CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO TRÊN SÓNG ĐÀI TIẾNG NÓI
VIỆT NAM (2005 – 2006)
29
2.1
Giới thiệu về chương trình phát thanh Giáo dục và
đào tạo (Đài Tiếng nói Việt Nam)
29
2.2
Nội dung chương trình
31
2.2.1
Tần số tuyên truyền về các ngành học, bậc học
32
2.2.2
Những đề tài cụ thể
34
2.2.3
Người viết
35
2.2.4
Tỷ lệ bài tích cực- tiêu cực (khen- chê) trên
chương trình
37
2.2.5
Thể loại
40
2.2.6
Cấu trúc đặc thù của chương trình
43
2.3
Ý kiến dư luận của công chúng về chương trình
43
2.3.1
Thư thính giả
43
2.3.2
Phỏng vấn An-két của tác giả
46
2.4
Những ưu điểm và hạn chế của chương trình
47
2.4.1
Về nội dung
47
4
2.4.2
Về hình thức
53
CHƢƠNG III:
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG CHƢƠNG TRÌNH
60
3.1
Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới
60
3.1.1
Về chất lượng đào tạo
60
3.1.2
Về chất lượng nguồn nhân lực
62
3.2
Một số đề xuất, kiến nghị nhằm tiếp tục nâng
cao chất lượng chương trình phát thanh Giáo dục
và đào tạo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam
64
3.2.1
Cải tiến về nội dung của chương trình
65
3.2.2
Cải tiến về hình thức của chương trình
67
3.2.3
Cải tiến về công tác tổ chức quản lý nhân sự, đào
tạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên
72
3.2.4
Cải tiến về cơ chế làm việc
77
3.2.5
Cải tiến Quy trình sản xuất chương trình phát
thanh
80
3.2.6
Tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bị kỹ thuật
81
KẾT LUẬN
86
Danh mục Tài liệu tham khảo
PHỤ LỤC
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức coi trọng vai trò, vị trí của
giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau khi khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Do đó, cùng với các mặt trận diệt giặc đói, diệt giặc ngoại xâm, thì giáo dục
phải là mặt trận diệt giặc dốt, góp phần nâng cao dân trí
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, vai trò, vị trí, cũng như
tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo lại càng được thể hiện rõ nét (đặc
biệt trong đào tạo nguồn nhân lực). Bởi như tất cả chúng ta đều đã biết, con
người là vốn quí nhất, đầu tư cho con người chính là đầu tư cho phát triển,
phát huy nguồn lực con người chính là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang trong quá trình phát triển và
chuyển đổi kinh tế rất nhanh, từ điểm xuất phát thấp tiến tới mục tiêu cao
Quá trình này đòi hỏi cung cấp nguồn lực cho đất nước, cũng có nghĩa là
ngành giáo dục cần phải lột xác, thay đổi về mọi mặt.
Trong những năm qua, quy mô giáo dục và đào tạo ở Việt Nam (cũng
như trên thế giới) có sự phát triển mạnh mẽ. Chúng ta cũng đã đạt được rất
nhiều thành tựu mới quan trọng Song, những kết quả đó vẫn còn thấp so
với yêu cầu ngày càng cao của đất nước cũng như những mong mỏi ngày
càng lớn của nhân dân. Mặt khác, Việt Nam là cộng đồng dân số trẻ (lao
động là nguồn lực phát triển), do đó vấn đề giáo dục đào tạo càng phải được
6
đặt ra hơn bao giờ hết. Có thể nói, giáo dục và đào tạo đã và đang thu hút sự
quan tâm đặc biệt của dư luận
Ra đời gần 10 năm nay, chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo
(Đài Tiếng nói Việt Nam) đã đạt được những thành công, đồng thời thu
được nhiều kinh nghiệm đáng ghi nhận (tham gia như người trong cuộc).
Tuyên truyền đầy đủ và sâu rộng các Nghị quyết, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo; luôn
luôn bám sát thực tiễn giáo dục, phát hiện những nhân tố điển hình, từ đó
làm sáng tỏ và phong phú hơn quan điểm giáo dục đúng đắn của Đảng ta;
phản ánh đầy đủ mối quan tâm của xã hội đối với ngành, kịp thời phát hiện
những sai lệch, góp phần giúp ngành đi đúng hướng và thực hiện tốt mục
tiêu đào tạo
Điều này đã cho thấy, báo chí (trong đó có phát thanh) đóng một vai
trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nước nhà
nói riêng, cũng như trong quá trình phát triển đất nước nói chung. Do đó,
việc tổng kết những mặt tích cực, hạn chế cũng như tìm kiếm những giải
pháp để nhằm nâng cao chất lượng chương trình Phát thanh Giáo dục và đào
tạo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam tại thời điểm này là rất cần thiết.
Đây cũng chính là lý do khiến tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo trên sóng Đài
Tiếng nói Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sỹ (chuyên ngành Báo chí) của
mình.
2/ Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tổng kết
kinh nghiệm về tuyên truyền phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam,
song đề tài nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm về phát triển giáo dục và đào
tạo trên sóng phát thanh thì hầu như chưa có. (Mới chỉ có 01 đề tài khoa
7
học cấp Đài mang tên: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo”, do nhóm phóng viên Ban
Văn hoá- xã hội Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện năm 2003). Ở đề tài này,
người viết chủ yếu tập trung nghiên cứu về thực trạng giáo dục Việt Nam
qua các giai đoạn: thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn 1975- 1995, và
giai đoạn 1996- 2003 (năm 1996 là năm thành lập chương trình phát thanh
Giáo dục và đào tạo- Đài Tiếng nói Việt Nam), trên cơ sở đó nêu lên một số
đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng chương trình Phát thanh cho
phù hợp với sự phát triển chung của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà
trong thời kỳ mới.
Từ đề tài khoa học này, các phóng viên, biên tập viên của Ban Văn
hoá- xã hội đã được bổ sung một lượng kiến thức không nhỏ về lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, để từ đó ngày càng hoàn thiện mình trong công tác
chuyên môn, từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng chương trình
Tuy nhiên, với đề tài này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu, tổng kết các giai
đoạn lịch sử trước đây, mặt khác, những người thực hiện chưa chỉ ra được
những hướng đi cụ thể để chương trình có thể tự đổi mới mình theo xu thế
Phát thanh hiện đại, hạn chế đến mức tối đa khoảng cách giữa thính giả với
chương trình, làm sao để chương trình phải thực sự là kênh thông tin bổ ích
và cần thiết đối với thính giả, phải nói được những điều mà thính giả muốn
nghe chứ không phải là những điều mà phóng viên có
3/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn này là trên cơ sở đánh giá, phân tích thực
trạng của chương trình, rút ra được những nguyên nhân thành công cũng
như hạn chế để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
8
năng lực và hiệu quả tác động của chương trình phát thanh Giáo dục và đào
tạo- Đài Tiếng nói Việt Nam trong tình hình và điều kiện mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được những mục tiêu như vậy, nhiệm vụ của luận văn
là:
- Hệ thống hoá những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới.
- Nghiên cứu, xác định vai trò, vị trí quan trọng của báo chí (đặc biệt
là phát thanh) đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung.
- Khảo sát thực trạng chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo
(Đài Tiếng nói Việt Nam) trong khoảng thời gian 2 năm (2005- 2006).
- Phân tích những nguyên nhân ưu điểm và hạn chế của chương trình.
- Trên cơ sở những nguyên nhân đã được phân tích đó tìm kiếm giải
pháp để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như hiệu quả tác động
của chương trình.
4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu:
Khảo sát các chương trình, các bài viết đã được phát sóng trên Đài
Tiếng nói Việt Nam và nhóm công chúng của chương trình này.
* Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này nhằm vào các chương trình phát
thanh Giáo dục và đào tạo của Đài Tiếng nói Việt Nam (đã được phát sóng
trong 2 năm 2005- 2006).
9
Cụ thể: Chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo, phát từ 19h45
đến 20h00 hàng ngày (phát lại từ 7h15 đến 7h30 sáng hôm sau) trên Hệ
VOV2 (Hệ Văn hoá và đời sống xã hội).
Tần số các khu vực:
- Miền núi phía Bắc: 9875KHz và 5925KHz
- Hà Nội: 549KHz
- Quảng Bình, Huế: 729KHz
- Đà Nẵng: 702KHz
- Quy Nhơn: 738KHz
- Khánh Hoà: 576KHz
- Tây Nguyên: 102,7MHz (sóng FM)
- TP Hồ Chí Minh: 558KHz
- Nam Bộ: 783KHz
5/ Phƣơng pháp nghiên cứu:
* Phương pháp luận:
- Dựa vào những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về giáo dục
và đào tạo trong thời kỳ đổi mới (các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và các
chính sách của Nhà nước về lĩnh vực giáo dục và đào tạo…).
- Các quan điểm của Đảng ta về báo chí và vai trò của báo chí trong
sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
- Những kiến thức được trang bị từ Nhà trường.
* Phương pháp công cụ:
- Phương pháp hệ thống hoá: dùng để hệ thống hoá những quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách… của Đảng và Nhà nước ta; cũng như vai
trò của báo chí đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
10
- Phương pháp phân tích ngữ văn: phân tích các chương trình, các bài
viết… đã được phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam trong khoảng thời
gian lựa chọn (hai năm 2005- 2006).
- Phương pháp phỏng vấn An-két: dùng để phỏng vấn những nhóm
công chúng của chương trình (điều tra thính giả).
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn các nhà khoa học, các
chuyên gia, các nhà báo… những người am hiểu sâu và quan tâm đến lĩnh
vực giáo dục và đào tạo.
- Phương pháp thống kê phân loại: Được dùng trong quá trình khảo
sát chương trình…
6/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng giới thiệu, phân tích một
cách có hệ thống các quan điểm, đường lối phát triển giáo dục đào tạo của
Đảng ta (đặc biệt là những quan điểm về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
đổi mới), từ đó nêu lên được thực trạng giáo dục hiện nay ở Việt Nam.
- Xác định rõ vai trò, vị trí của báo chí nói chung, của chương trình
phát thanh Giáo dục và đào tạo (Đài Tiếng nói Việt Nam) nói riêng đối với
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, nêu bật những ưu điểm cũng như
những mặt còn hạn chế của chương trình trong quá trình thực hiện công tác
tuyên truyền.
- Trên cơ sở đó phân tích những nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp
hữu hiệu cho công tác tuyên truyền
- Đề xuất, kiến nghị nhằm từng bước nâng cao chất lượng chương
trình phát thanh Giáo dục và đào tạo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
11
7/ Bố cục của Luận văn:
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận
văn gồm 3 chương sau:
Chƣơng I: Báo chí với sự nghiệp phát triển Giáo dục- đào tạo
Chƣơng II: Chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo trên
sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (2005- 2006)
Chƣơng III: Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng chương
trình
12
CHƢƠNG I:
BÁO CHÍ VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc về giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ đổi mới:
Thời gian qua- đặc biệt từ năm 1986 cho đến nay- khi mà đất nước ta
bước vào giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều
chủ trương đổi mới giáo dục trên các bình diện, ở các cấp, bậc, ngành học
nhằm đưa ngành giáo dục vượt qua những khó khăn, thách thức, vươn lên
hoà nhịp với quá trình đổi mới kinh tế- xã hội chung của đất nước
Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam (12/1986) đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội- trong đó có đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo. Đường lối
đó được Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển qua các kỳ Đại hội VII,
Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4
khoá VII (1/1993) “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” và
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12/1996) “Về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ” đã thể hiện những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đổi mới
giáo dục và đào tạo trong công cuộc phát triển đất nước.
Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X- Đảng cộng sản Việt
Nam cũng đã xác định mục tiêu phát triển của giáo dục Việt Nam là: Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung,
13
phương pháp dạy và học, thực hiện: “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”,
chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Và trong Chiến lược phát triển giáo dục
giai đoạn 2001- 2010 do Chính phủ phê duyệt cũng đã nêu rõ mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phấn đấu đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo nước
nhà ngày một phát triển
Những định hướng, chủ trương đó của Đảng, Nhà nước đã trở thành
kim chỉ nam, hướng dẫn, chỉ đạo, động viên, khuyến khích toàn thể cán bộ,
đảng viên trong ngành và mọi lực lượng, mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội
quyết tâm đổi mới, đưa giáo dục đào tạo phát triển lên tầm cao mới:
1.1.1. Giáo dục và đào tạo nhằm phát triển toàn diện con người
Quan điểm nhất quán và cũng là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới là coi con người là vốn quý nhất, đầu tư cho con
người là đầu tư cho phát triển, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nghị quyết
Trung ương 2 (khoá VIII) đã khẳng định: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học
và công nghệ hiện đại, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa có tài vừa có đức
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì
vấn đề cơ bản nhất, nổi bật nhất cũng chính là vấn đề xây dựng và hoàn
thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Đối với
Người, nhân tố con người- với những hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu
tố then chốt, có tính quyết định đối với thành công của cách mạng, sự tiến
14
bộ của xã hội và hạnh phúc của nhân dân. Người từng nói: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”; và
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Chính vì
vậy, cần phải giáo dục toàn diện trên các mặt: đạo đức, văn hoá, kỹ thuật,
lao động sản xuất đồng thời coi trọng giáo dục nhân cách, lý tưởng, đạo
đức, trí tuệ, thể dục và mỹ dục. Giáo dục đào tạo phải gắn liền dạy người
với dạy chữ và dạy nghề- trong đó dạy người là mục tiêu cao nhất. Coi trọng
trí tuệ, tài năng nhưng phải lấy đạo đức làm gốc.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước ta gặp
không ít những khó khăn, thách thức. Để có thể nhanh chóng bắt kịp các
nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, thì con đường tốt nhất chúng ta
có thể thực hiện đó là: “Phát triển giáo dục- phát triển toàn diện con
người” (theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá,
phấn đấu xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, từng bước làm chủ
và tiến tới sáng tạo các công nghệ hiện đại ). Có như vậy, chúng ta mới có
được môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện con người- đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước.
1.1.2. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, con người cũng luôn
được coi là nhân tố quan trọng nhất. Con người vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của sự phát triển bền vững của xã hội (và ngược lại). Nghị quyết Trung
ương 2 (khoá VIII), kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) đều coi phát
triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy,
Nhà nước luôn coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và thường có
những chính sách ưu tiên, phát huy tiềm lực sẵn có của ngành giáo dục và
huy động sự đóng góp của toàn xã hội.
15
Một điều đáng mừng là: yêu cầu tăng cường đầu tư cho giáo dục đúng
với vai trò quốc sách hàng đầu đã được thể hiện cụ thể trong Chiến lược
giáo dục: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các
ngành khác ”. Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX còn nêu rõ: “Tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, bảo
đảm tốc độ tăng chi ngân sách cho giáo dục hàng năm cao hơn tốc độ tăng
chi ngân sách Nhà nước. Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục đào tạo sẽ tuỳ
thuộc vào điều kiện cụ thể mà quyết định, nhưng không được thấp hơn tỷ lệ
chi ghi trong chiến lược giáo dục ”.
Từ nhiều năm nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang tìm mọi cách để
tăng thêm nguồn lực về tài chính đầu tư cho giáo dục. Ngân sách Nhà nước
vẫn là nguồn cung cấp chính cho quá trình phát triển và hiện đại hoá giáo
dục ở tất cả các bậc học cũng như các nhóm mục tiêu của ngành giáo dục.
Trong những năm gần đây, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đã tăng
lên đáng kể. Năm 2004, ngân sách cho giáo dục chiếm trên 17% tổng ngân
sách Nhà nước; và năm 2005 là 18%. (Dự kiến đến năm 2010, ngân sách
dành cho giáo dục sẽ chiếm khoảng 20% tổng ngân sách Nhà nước). Ngoài
ra, Chính phủ cũng đã huy động từ trái phiếu, vay vốn nước ngoài và vận
động các khoản viện trợ không hoàn lại dành cho giáo dục
Điều đó khẳng định: trong bất kỳ thời điểm nào, giáo dục và đào tạo
cũng luôn được coi là quốc sách hàng đầu.
1.1.3. Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà
nước và của toàn dân
Giáo dục- đào tạo không chỉ là công việc của nhà trường mà còn là
công việc chung của toàn xã hội. Toàn Đảng, toàn dân có trách nhiệm chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục- đào tạo. Từng người dân, từng gia đình, từng tập
thể, tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức kinh tế- xã hội, các tổ
16
chức quần chúng cùng xây dựng cộng đồng trách nhiệm đối với sự phát
triển giáo dục- đào tạo và phối hợp tạo dựng môi trường giáo dục lành
mạnh. Gia đình phối hợp với nhà trường và xã hội trong sự nghiệp trồng
người
Điều này cũng đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII): “Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức kinh tế- xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có
trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo, đóng
góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục đào tạo. Kết hợp giáo dục
nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo
dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể ”.
Như vậy, trong xã hội hiện đại, mọi người đều được học tập, học ở
mọi nơi, mọi lúc, học bằng mọi cách Xã hội hiện đại sẽ tiến tới một xã hội
học tập. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng ta: “Thực hiện một
nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là
quyền lợi, là trách nhiệm của mỗi công dân”, là sự phát triển của quan
điểm: “Ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trên thực tế, tư tưởng: “Ai cũng được học hành” của Bác đã và đang
có sức sống mạnh mẽ trong thực tiễn đời sống giáo dục nước ta. Hàng năm,
Nhà nước đã tạo cơ hội học tập cho biết bao người thông qua các lớp xoá
mù chữ, bổ túc trung học và hàng trăm ngàn người theo học các lớp ngoại
ngữ, tin học, cao đẳng, đại học tại chức, học nghề Đặc biệt, năm 2000,
chúng ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trong phạm vi cả nước và
đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở
Có thể nói, trong bất kỳ thời điểm nào- ngay cả khi mà ngân sách cho
giáo dục còn hạn hẹp, cơ sở vật chất trường, lớp còn thiếu thốn, thì sự
nghiệp giáo dục vẫn luôn được coi trọng.
17
Cùng với việc Nhà nước tăng cường đầu tư từ ngân sách cho giáo dục
và đào tạo, thì người học, người sử dụng lao động, các tổ chức kinh tế- xã
hội cũng cần hăng hái đóng góp nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, coi đó
là trách nhiệm và nghĩa vụ đối với xã hội.
Có như vậy, giáo dục đào tạo mới thực sự là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân
1.1.4. Phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế- xã hội
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 đã cụ thể hoá quan điểm
giáo dục này như sau: đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và
hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng đã khẳng định: trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian từ nay đến khoảng năm
2010 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có những con người có học vấn, có
năng lực chuyển đổi nghề nghiệp, tiếp cận nhanh với tiến bộ của công nghệ,
thích ứng nhanh với những thay đổi trong sản xuất và có điều kiện tham gia
nhiều và tích cực hơn vào mọi mặt sinh hoạt xã hội Với Việt Nam- một
đất nước đang trên đà phát triển, thì vai trò của giáo dục- khoa học công
nghệ lại càng có tính quyết định. Giáo dục phải đi trước một bước, nâng cao
18
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để thực hiện thành công các
mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Thực tế cho thấy, công tác đào tạo nhân lực của ngành giáo dục và
đào tạo Việt Nam thời gian qua đã đảm bảo cung cấp được nguồn nhân lực
qua đào tạo, đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. Một điều dễ cảm nhận là: thành tựu của sự tăng trưởng
kinh tế đất nước trong những năm gần đây là kết quả đóng góp quan trọng
của đội ngũ người lao động- trong đó phần lớn do nền giáo dục đào tạo
trong nước cung cấp, đồng thời bước đầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
xuất khẩu
Có thể nói, quá trình phát triển giáo dục đào tạo chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố kinh tế và ngược lại, việc phát triển giáo dục góp phần quan
trọng cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Theo đánh giá của Chương
trình Phát triển Liên hợp quốc, phát triển giáo dục nước ta đã có những tác
động tích cực đến công tác phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu
phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo- đặc biệt đối với khu vực miền núi,
dân tộc, vùng sâu vùng xa với nền kinh tế chưa phát triển và trình độ dân
trí còn thấp.
Định hướng phát triển kinh tế- xã hội nước ta đến năm 2020 và các
năm tiếp theo dự kiến đẩy mạnh quá trình tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá
cao (từ 8 đến 10%), chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế và phân công lao động
xã hội Điều đó đòi hỏi phải phát triển giáo dục với quy mô lớn, chất lượng
cao và bền vững, đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho quá trình phát triển các
ngành kinh tế.
Do đó, việc quán triệt và thực thi các quan điểm phát triển giáo dục,
phối hợp chặt chẽ giáo dục với phát triển kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
19
1.1.5. Xã hội hoá giáo dục đào tạo, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục và đào tạo
Xã hội hoá giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân
dân, của các tổ chức kinh tế- xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư
vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình
độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập. Điều này cũng có nghĩa là
mọi người trong xã hội đều phải được đảm bảo quyền hưởng một mức giáo
dục tối thiểu (phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở )
phù hợp với trình độ phát triển và khả năng đáp ứng chung của xã hội.
“Gắn xây dựng xã hội học tập với phát triển kinh tế- xã hội”- đó là
nội dung chính của Đề án: “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-
2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hồi tháng 5/2005. Trong đó,
xác định tiêu chí cơ bản là: xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập,
tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để người dân ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ
được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi nơi, mọi lúc,
mọi cấp, mọi trình độ; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham
gia xây dựng và phát triển giáo dục; mọi người, mọi tổ chức đều có trách
nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập và tham gia tích cực xây dựng xã hội học
tập. Cụ thể là: nâng cao kết quả xoá mù chữ, phấn đấu tỷ lệ người biết chữ
trong độ tuổi từ 15 trở lên tăng từ 94% (năm 2000) lên trên 98%. Đặc biệt
tăng nhanh tỷ lệ xoá mù chữ trong các dân tộc ít người. Huy động trẻ em vì
hoàn cảnh khó khăn không được đến trường đi học theo các chương trình
phổ cập đạt trên 65% (đối với trẻ trong độ tuổi từ 6 đến 10) và 55% (đối với
trẻ trong độ tuổi từ 11 đến 14). Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 80% số cán bộ cấp
xã, phường, thị trấn được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
cập nhật kiến thức về nghiệp vụ, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ
20
Và ngay trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã xác định vấn đề cốt lõi của đường lối đổi
mới giáo dục là: Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo
dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên
tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ
thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh
hoạt, đáp ứng nhu cầu giáo dục thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội
học tập khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng trong giáo dục
Thực tế cho thấy, việc học tập để cập nhật tri thức, nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp đã và đang trở thành nhu cầu phổ biến của hầu hết người dân
trong xã hội. Các trung tâm giáo dục thường xuyên được duy trì, phát triển.
Ngành giáo dục và đào tạo cũng đã thử nghiệm thành công việc xây dựng
các trung tâm học tập cộng đồng ở nông thôn, tăng khả năng cung ứng cơ
hội học tập cho nhân dân. (Từ 15 trung tâm học tập cộng đồng được thành
lập năm 1999, đến nay cả nước đã có gần 6000 trung tâm học tập cộng
đồng, thu hút hàng triệu lượt người theo học mỗi năm).
Xã hội hoá giáo dục cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện chính
sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng
và Nhà nước ta. Ở đây, công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo không
chỉ có nghĩa là người dân được xã hội và Nhà nước chăm lo, mà còn biểu
hiện cả về mặt đóng góp, cống hiến của người dân đối với hoạt động này
(tuỳ theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương). Và tất nhiên,
thực hiện công bằng trong chính sách xã hội nhất thiết phải có sự ưu tiên: ưu
tiên đối với người có công, trợ giúp người nghèo, vùng nghèo Những
người thuộc diện chính sách xã hội phải được miễn, giảm phần đóng góp
trong các hoạt động giáo dục
21
Công tác xã hội hoá giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua được thể hiện trên
những mặt sau:
- Bảo đảm công bằng xã hội trong việc thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, thực hiện tốt các chính sách,
nhằm tạo cơ hội cho mọi người dân đều đạt trình độ giáo dục phổ cập. (Đã
có hình thức giáo dục và biện pháp hỗ trợ phù hợp với những vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người )
- Tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người có nhu cầu học tập theo chế độ
tuyển sinh. (Với những chính sách ưu tiên phù hợp trong tuyển sinh, nhằm
tạo ra sự công bằng)
- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, phương thức đào tạo, cho phép
mở các trường, lớp ngoài công lập, hình thức đào tạo không chính quy Đó
cũng chính là cách để bảo đảm công bằng về giáo dục và đào tạo cho mọi
người
Tóm lại: Những chủ trương của Đảng về đổi mới phát triển giáo dục
và đào tạo trong công cuộc đổi mới đất nước là một thể thống nhất, xác định
rõ mục tiêu, vị trí của sự nghiệp giáo dục và đào tạo; cũng như các nguyên
tắc, phương châm cơ bản chỉ đạo đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo
Những chủ trương đó đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục
khẳng định, làm sao để sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta ngày càng có
sự đổi mới, phát triển, phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước
1.2. Vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp đổi mới:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống giáo dục đóng vai trò
định hướng giá trị đúng đắn cho sự phát triển nhân cách của người học. Nhà
22
nước đảm bảo điều kiện cho các hoạt động giáo dục phục vụ những mục
tiêu trọng điểm của quốc gia và đảm bảo cung cấp giáo dục cho mọi người ở
trình độ tối thiểu
Đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì vai trò của giáo dục-
khoa học và công nghệ lại càng có tính quyết định. Giáo dục phải đi trước
một bước, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để thực
hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giáo dục và đào tạo đã không
còn là công việc riêng của Nhà nước, mà mọi thành phần đều có thể tham
gia, làm cho đào tạo ngày càng gắn với sử dụng. Lúc này, bên cạnh các
trường công lập còn có cả các trường ngoài công lập như dân lập, tư thục.
Để phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất nước, giáo dục và đào tạo phải huy
động nguồn lực từ mọi thành phần, mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội làm
cho giáo dục trở thành sự nghiệp của toàn dân và xã hội hoá là một trong
nhiều chính sách đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp phát triển đất
nước.
Trong nền kinh tế thị trường, giáo dục và đào tạo không chỉ có vai trò
đáp ứng mà còn có vai trò kích thích. Người học ngoài việc nắm vững kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo và rèn luyện phẩm chất liên quan đến nghề nghiệp
còn lĩnh hội được khả năng tìm kiếm việc làm gắn với nghề nghiệp của
mình, khiến cho những sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường trở nên năng
động hơn trong thị trường lao động, nảy sinh nhiều ý tưởng sáng tạo
Cùng với sự đổi mới không ngừng về mọi mặt của đất nước, thì sự
phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại cũng đã mở ra cơ hội cho đất
nước ta tiến tới những lĩnh vực khoa học mới, công nghệ cao Điều này
phụ thuộc nhiều vào năng lực học hỏi của toàn dân, kỹ năng tinh xảo của
đội ngũ công nhân, kỹ sư, đầu óc sáng tạo và tinh thần hợp tác của các nhà
nghiên cứu
23
Đây là một thách thức to lớn đối với Việt Nam, bởi ngay cả khi đã có
một số cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ tương đối hiện đại mà thiếu
một đội ngũ nhân lực đáp ứng các yêu cầu kể trên, ta cũng không thể tiến
hành một cách hiệu quả các hoạt động nghiên cứu và triển khai trong các
lĩnh vực công nghệ cao. Vì vậy, giáo dục- đào tạo nhằm phát triển nguồn
nhân lực được coi là một trong những yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Sự phát triển khoa học và công nghệ đòi hỏi phải cải tiến quá trình giáo dục
và đào tạo, đổi mới nội dung và phương pháp đầu tư lớn, như vậy mới đào
tạo được đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu mới.
Tiềm lực kinh tế của Việt Nam không cho phép Nhà nước đầu tư cao
cho giáo dục- mặc dù đã nhận thức rõ được vị trí đặc biệt quan trọng của
giáo dục Giáo dục Việt Nam phải khắc phục sự mất cân đối giữa yêu cầu
phát triển nhanh về quy mô và nguồn lực còn rất hạn chế, giữa yêu cầu phát
triển nhanh về quy mô và đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng Hiện nay,
giáo dục Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn và cả những thuận lợi.
Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải tiếp
cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi trước một bước
đón đầu sự phát triển của xã hội, nhằm xây dựng một nền giáo dục tiên tiến,
hiện đại, hướng tới một xã hội học tập, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực, nâng cao phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại
mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội
1.3. Vai trò của báo chí trong việc phát triển giáo dục và đào tạo:
Lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh rằng: báo chí cách mạng
luôn gắn với những bước thăng trầm của lịch sử đất nước, là người hướng
dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường mà
nhân dân, Đảng, Bác Hồ đã chọn. Báo chí không chỉ là phương tiện chủ yếu
để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là công
24
cụ đắc lực nhằm giáo dục ý thức chính trị, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, phát huy sức mạnh toàn dân để tập
trung giải quyết các nhiệm vụ của cách mạng Báo chí cũng chính là người
châm ngòi và thổi bùng lên các phong trào cách mạng có tính quần chúng
rộng rãi như: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “ Phụ nữ
ba đảm đang” rồi đến các phong trào: “Thanh niên lập nghiệp”, “Xoá đói
giảm nghèo”, “ Kế hoạch hoá gia đình”
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, thực tế những năm qua cho thấy,
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng Quy mô giáo dục phát
triển mạnh mẽ, các loại hình học tập được mở ra phong phú Tuy nhiên,
những kết quả đó vẫn còn thấp so với yêu cầu ngày càng cao của đất nước
và những mong mỏi ngày càng lớn của nhân dân, nhất là trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, công tác tuyên truyền
về lĩnh vực giáo dục- đào tạo ở giai đoạn mới này cần hết sức tỉnh táo,
khách quan và linh hoạt. Có thể thấy trên bất kỳ một tờ báo nào, một đài
phát thanh, truyền hình nào vấn đề này cũng luôn được quan tâm, chú
trọng Nó luôn là một trong những đề tài không thể thiếu của các cơ quan
báo chí
Riêng đối với phát thanh, (mà điển hình là Đài Tiếng nói Việt Nam),
kể từ ngày thành lập cho đến nay vẫn luôn giữ một hướng chỉ đạo nhất
quán, coi quan điểm của Đảng về giáo dục- đào tạo là kim chỉ nam, là linh
hồn của các tác phẩm báo chí phát thanh.
Mặc dù mãi đến sau này (năm 1996), Đài Tiếng nói Việt Nam mới
thành lập chương trình phát thanh Giáo dục và đào tạo, song từ trước đó, nội
dung truyền thông về giáo dục- đào tạo đã luôn được Lãnh đạo Đài quan
tâm và chiếm một thời lượng khá lớn. Từ chương trình phát thanh Thời sự
cho đến các chương trình phát thanh Văn hoá- xã hội, phát thanh Thanh
niên, Thiếu niên đều thường xuyên chú trọng đến việc chuyển tải những
25
hoạt động thuộc lĩnh vực giáo dục- đào tạo cũng như các vấn đề mà sự
nghiệp giáo dục đặt ra. Một mặt, các chương trình phát thanh tiếp tục cổ vũ
cho thành tựu giáo dục đã đạt được, phân tích kỹ nguyên nhân của các thành
tựu đó đồng thời có tiếng nói khách quan, thẳng thắn phê phán những mặt
yếu kém, những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo.
Với hướng chỉ đạo đó, nội dung tuyên truyền về giáo dục- đào tạo
trên sóng phát thanh thời gian qua luôn đảm bảo đúng định hướng tư tưởng
và đạt được tính hấp dẫn, phong phú
1.3.1. Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính
sách… của Đảng, Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, nội dung tuyên truyền
về lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên các phương tiện truyền thông đại chúng
đã luôn đáp ứng được yêu cầu: tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục- đào tạo
đến với các tầng lớp nhân dân, các nhà trường đồng thời phản ánh kịp thời
những diễn biến đời sống của các nhà trường, những tâm tư, nguyện vọng
của nhà giáo, của học sinh và của mọi tầng lớp nhân dân giúp cho người
dân thấm sâu những quan điểm, đường lối giáo dục sáng tạo của Đảng ta-
đó là: xây dựng nền giáo dục nhân dân, của dân, coi trọng giáo dục toàn
diện, đào tạo nguồn lực có chất lượng về đức- tài để phụng sự nhân dân,
phụng sự đất nước
Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực khoa học thực tiễn đang rất sôi
động, một vấn đề vô cùng nhạy cảm đối với xã hội (vì như đã nói ở trên- sản
phẩm của giáo dục chính là con người), cho nên công tác tuyên truyền về
lĩnh vực này phải rất thận trọng. Chính vì vậy, các tác phẩm báo chí trước
đây cũng như sau này, đều luôn đảm bảo tính định hướng, tính xây dựng,
tính giáo dục theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước Đặc