Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.57 KB, 122 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Đoàn Mai Anh





HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
QUA PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ


Chuyên ngành: Báo chí
Mã số: 5.04.03




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ HIỀN





HÀ NỘI - 2002
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
CHƢƠNG 1 10
VỊ TRÍ, VAI TRÕ VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM. ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁO CHÍ PHẢN ÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG. 10
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 10
1.1.1 Khái niệm, vị trí, vai trò của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế 10
1.1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trung ương 14
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại 18
1.1.4. Hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng 21
1.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG VÀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM 22
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THÔNG TIN BÁO CHÍ PHẢN ÁNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
VÀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG. 24
1.3.1. Ảnh hưởng của báo chí đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng 24
1.3.2. Đặc điểm của thông tin báo chí phản ánh hoạt động ngân hàng và các tổ chức tín
dụng 29
CHƢƠNG 2 35
NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 35
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÔNG TIN BÁO CHÍ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG 35
2.2. NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG 39
2.2.1 Văn bản và hoàn thiện các văn bản pháp luật 39

2.2.2. Hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 51
2.2.3 Vì một hệ thống ngân hàng lành mạnh hơn 62
2.2.4 Hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong khu vực và quốc tế 66
2.2.5 Hoạt động của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng 74
2.3. HÌNH THỨC CHUYỂN TẢI THÔNG TIN 78
2.3.1.Tin 78
2.3.2. Phỏng vấn 82
2.3.3. Bài phản ánh 84
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

3
2.3.4. Bài tiểu luận 88
2.3.5. Các thể loại khác 89
CHƢƠNG 3 90
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ 90
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 90
3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC PHẢN ÁNH 90
3.2. MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP 108
3.2.1 Đối với bản thân các toà soạn báo 108
3.2.2. Đối với các cơ sở đào tạo báo chí 113
3.2.3. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí 114
KẾT LUẬN 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
PHỤ
LỤC… 118
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

4
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Báo chí là sự phản ánh thực tiễn. Vị trí, tầm quan trọng của một sự kiện,
hiện tượng trong thực tế lớn đến đâu thì sẽ được phản ánh tương ứng trên báo
chí. Xuất phát từ vai trò thực tế của mình trong nền kinh tế và đời sống xã hội,
hoạt động của các tổ chức tín dụng đã được báo chí, đặc biệt là báo chí kinh tế
1
,
dành cho vị trí quan trọng.
Qua báo chí, người dân biết và hiểu về hoạt động của các tổ chức tín dụng,
trong đó chủ yếu là ngân hàng, về ảnh hưởng của những biến động tài chính, tiền
tệ đối với cuộc sống của mình. Ngược lại, báo chí là nguồn thông tin rất quan
trọng, giúp cho các nhà quản lý hoàn thiện chính sách. Vì vậy, quan hệ giữa báo
chí và kinh tế nói chung mang tính cộng sinh.
Trong xu hướng toàn cầu hoá, các hoạt động tài chính, ngân hàng ngày
một đa dạng và phức tạp hơn, đồng thời liên quan đến nhiều đối tượng hơn, do
đó nhu cầu thông tin về lĩnh vực này phải được đảm bảo đáp ứng đầy đủ. Tuy
nhiên, hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Nó đòi hỏi
thông tin trên báo chí không chỉ phải kịp thời, đầy đủ mà ở đây, yêu cầu về độ
chính xác và nhanh phải được đặt lên hàng đầu. Khác với các lĩnh vực khác của
kinh tế, một thông tin sai lệch về ngân hàng có thể dẫn đến sự sụp đổ của toàn hệ
thống, gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Do đó, thông tin về hoạt động ngân
hàng và các tổ chức tín dụng phải được thực hiện hết sức cẩn trọng.

1
Báo chí kinh tế ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp là các tờ báo lấy các vấn đề kinh tế làm nội dung phản ánh
chủ yếu.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

5
Bên cạnh những đóng góp to lớn đối với sự phát triển kinh tế, thông tin

trên báo chí về ngân hàng đang gặp nhiều rào cản mà vấn đề lớn nhất, theo
chúng
tôi, là mâu thuẫn giữa mong muốn mở rộng đối tượng độc giả và hạn chế thực tế
trong việc tìm phương pháp thông tin thích hợp. Muốn vậy, cần có một công
trình báo chí học nghiên cứu nguyên nhân các thành tựu báo chí đạt được trong
thông tin về hoạt động của các tổ chức tín dụng, đồng thời phân tích những mặt
hạn chế mà báo chí đang mắc phải nhằm bước đầu tìm một cách thông tin phù
hợp với bản chất và tính chất hoạt động của ngành. Việc này sẽ giúp báo chí
thông tin đầy đủ, chính xác hơn, đến được với nhiều người đọc hơn, tạo điều
kiện để họ tham gia nhiều hơn nữa vào hoạt động ngân hàng và do đó, giúp nền
kinh tế phát triển tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, mỗi ngành ngân hàng và báo chí học đều có nhiều công trình
nghiên cứu riêng trong lĩnh vực ngành mình. Tuy nhiên, một công trình nghiên
cứu khoa học ở cấp tương đương về phương pháp thông tin của báo chí trong
lĩnh vực ngân hàng và các tổ chức tín dụng hiện vẫn chưa được thực hiện. Trong
bối cảnh thị trường tài chính-tiền tệ phát triển nhanh và rộng khắp như hiện nay
thì việc báo chí thông tin hiệu quả và phù hợp với trình độ còn chưa cao của
người Việt Nam trong lĩnh vực này là điều hết sức cần thiết.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào lĩnh vực thông tin đặc biệt
này, chúng tôi đã chọn “Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của
báo chí” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

6
Luận văn của chúng tôi sẽ tập trung khảo sát nội dung và hình thức chuyển
tải thông tin về hoạt động của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước trên năm
tờ báo kinh tế lớn hiện nay là Đầu tư, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thời báo kinh tế
Việt Nam, Thời báo Ngân hàng và Thời báo Tài chính Việt Nam trong thời gian

từ năm 1998 đến năm 2000, lấy mốc từ khi Luật Các tổ chức tín dụng và Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997.
Do khác biệt về sự phát triển của các hệ thống tài chính-ngân hàng, khác
biệt và lý luận và thực tiễn báo chí nên chúng tôi không có dự định so sánh năm
tờ báo kinh tế nêu trên với các tờ báo nước ngoài về cùng lĩnh vực. Thực tế là thị
trường tài chính - tiền tệ của các nước phát triển đã đi trước chúng ta đến 2-3
thập kỷ. Vì vậy, thông qua các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, chúng tôi chỉ
muốn đưa ra những ý kiến tham khảo trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc về phương
thức phản ánh và xử lý thông tin tài chính - ngân hàng từ các báo này.
4. Mục đích và ý nghĩa của luận văn
Việc chọn làm luận văn với đề tài “Hoạt động của các tổ chức tín dụng
qua phản ánh của báo chí” xuất phát từ mong muốn tìm hiểu, học tập và đúc rút
kinh nghiệm làm báo kinh tế nói chung và báo ngân hàng nói riêng. Chúng tôi
cũng muốn thông qua việc nghiên cứu, khảo sát thực tế phản ánh của báo chí để
khái quát thành lý luận nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và tác nghiệp sau
này.
Dưới góc độ báo chí học, luận văn nhằm mục đích góp phần nâng cao chất
lượng thông tin báo chí trong lĩnh vực ngân hàng về nội dung phản ánh và hình
thức thể hiện. Để đạt được điều này, các biện pháp đưa ra trong luận văn tập
trung chủ yếu vào việc đào tạo một lực lượng làm báo kinh tế thực sự có trình độ
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

7
và tâm huyết với nghề. Đó cũng là mong muốn của chúng tôi đối với các cơ sở
đào tạo và cơ quan quản lý báo chí để họ chú trọng nhiều hơn đến vấn đề này.
Đối với lực lượng làm báo kinh tế, luận văn này sẽ giúp họ phần nào hiểu
rõ hơn về sự tác động của những bài viết về ngân hàng đối với công chúng, từ đó
giúp thúc đẩy họ nhanh chóng nâng cao trình độ cũng như trách nhiệm của mình
trong công việc.
Thông qua luận văn này, chúng tôi mong muốn các cơ quan quản lý và

chuyên môn (Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng) hiểu rõ hơn về hoạt động báo chí để giữa họ và những người làm báo thiết
lập được mối quan hệ gắn bó và vì lợi ích của hai bên. Chúng tôi muốn họ hiểu
rằng, để người dân tham gia tích cực hơn vào các hoạt động tài chính - ngân
hàng, báo chí là một kênh thông tin vô cùng quan trọng nhằm tác động và nâng
cao hiểu biết của công chúng. Sự hiểu biết đúng đắn và sự tham gia có hiệu quả
của công chúng là điều kiện để ngành tài chính - ngân hàng phát triển và mở
rộng hoạt động, đồng thời đó cũng là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi thực hiện sưu tầm, tập hợp tài liệu về
hoạt động của các tổ chức tín dụng từ khi hai luật ngân hàng được ban hành
tháng 12/1997, tức là từ năm 1998 đến năm 2000, phân tích và so sánh về nội
dung và hình thức thể hiện để làm rõ đặc điểm thông tin về lĩnh vực này trong
bối cảnh hiện nay.
Luận văn sẽ nêu bật vai trò của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế và
sự phản ánh của báo chí về hoạt động của các tổ chức này thông qua việc khảo
sát năm tờ báo nêu trên. Từ đó, luận văn sẽ rút ra những mặt thành công và hạn
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

8
chế cũng như đánh giá các tờ báo này để bước đầu đưa ra một số đề xuất nhằm
nâng cao chất lượng thông tin về hoạt động của các tổ chức tín dụng trên báo chí.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, theo đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta.
Để làm luận văn, chúng tôi đã thực hiện sưu tầm các tư liệu, văn kiện, chỉ
thị của Đảng và Nhà nước về chiến lược phát triển ngành ngân hàng cũng như
chiến lược thông tin, đặc biệt là về thông tin kinh tế trong từng giai đoạn.
Chúng tôi tập hợp, thống kê, phân loại theo dòng thời gian, theo từng báo,

từng nội dung phản ánh, từng hình thức thể hiện. Sau đó, chúng tôi tiến hành
phân tích các vấn đề về nội dung và hình thức của các bài báo viết về hoạt động
của các tổ chức tín dụng trên năm tờ báo này, thực hiện so sánh giữa các tờ báo
với nhau để tìm ra sự khác biệt giữa chúng, từ đó có thể đưa ra những nhận xét
khái quát về đặc trưng của nội dung thông tin và hình thức thông tin của hoạt
động các tổ chức tín dụng trên báo chí.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương. Chương 1
nêu vị trí, vai trò của các tổ chức tín dụng và định hướng phát triển ở Việt Nam.
Cũng trong chương này, chúng tôi khái quát một số đặc điểm của báo chí viết về
lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong chương 2, luận văn khái quát tình hình
phát triển của báo chí về hoạt động của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 1998
- 2000, đi sâu vào phân tích các nội dung và hình thức phản ánh trên các lĩnh
vực, các loại hình tổ chức tín dụng. Chương 3 sẽ tiếp nối bằng những nhận xét về
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

9
những mặt làm được và chưa làm được của báo chí trong lĩnh vực này, trong đó
nhấn mạnh đến những mặt còn tồn tại. Trong phần 2 của chương 3, chúng tôi
cũng sẽ đưa ra một số nhóm giải pháp bước đầu nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả thông tin về hoạt động của các tổ chức tín dụng trên báo chí.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

10
CHƢƠNG 1

VỊ TRÍ, VAI TRÕ VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM. ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁO CHÍ
PHẢN ÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG.


Để có thể khái quát tầm quan trọng của các tổ chức tín dụng trong nền
kinh tế (và do đó chiếm vị trí tương ứng trên các tờ báo), trong chương 1 chúng
tôi giới thiệu đôi nét về vị trí, vai trò và chức năng của các tổ chức này. Hệ thống
các ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam, định hướng phát triển ngành tài
chính - ngân hàng qua các đại hội Đảng (từ Đại hội 6 đến Đại hội 9) cũng sẽ
được tóm lược. Báo chí với tư cách là phương tiện truyền tải nội dung thông tin
đặc biệt này sẽ mang những đặc điểm riêng, và cũng được đề trong chương 1.
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm, vị trí, vai trò của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm
Các tổ chức tín dụng được hiểu là “ doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Ngân hàng là “loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

11
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác”.
Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là “loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường
xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh
toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính và tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác”
1
.

1.1.1.2. Kết cấu của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng

NHTW cấp I

Các NH Các TCTD phi NH cấp II

Hầu hết các nước đều có hệ thống ngân hàng hai cấp là ngân hàng trung
ương và các tổ chức tín dụng, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý
Nhà nước về tiền tệ- tín dụng, còn các tổ chức tín dụng là các tổ chức thực thi
các chính sách của ngân hàng trung ương và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.
Ở Việt Nam, từ khi Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời ngày 6/5/1951
thì chỉ có hệ thống ngân hàng một cấp hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá

1
Các khái niệm “tổ chức tín dụng”, “ngân hàng”, “tổ chức tín dụng phi ngân hàng” được định nghĩa theo
khoản 1, 2, 3 Điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

12
tập trung, vừa làm chức năng quản lý, vừa kiêm hoạt động kinh doanh. Tháng
3/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra nghị định thành lập các ngân
hàng chuyên doanh để bắt đầu thực hiện hạch toán kinh doanh trên các lĩnh vực
tiền tệ. Nhưng phải đến 11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới ban hành
một loạt quyết định thành lập các ngân hàng thương mại, hoạt động cơ bản theo
các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Các quy định cụ thể về các ngân hàng
thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty cho thuê tài
chính lần lượt được ban hành và hệ thống ngân hàng Việt Nam đã hoạt động
theo mô hình ngân hàng hai cấp.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trụ sở chính ở Hà Nội và chi
nhánh ở 61 tỉnh, thành phố. Hệ thống các tổ chức tín dụng gồm 6 ngân hàng

thương mại Nhà nước, 47 ngân hàng thương mại cổ phần, 7 công ty tài chính, 8
công ty cho thuê tài chính và 959 quỹ tín dụng nhân dân. Ngoài ra, hoạt động tại
Việt Nam còn có 31 chi nhánh của 26 ngân hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên
doanh.
1.1.1.3. Vị trí, vai trò của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng được coi là “trái tim” của nền kinh tế.
“Trái tim” này có vận hành tốt thì sức khoẻ nền kinh tế mới ổn định và phát
triển. Việc báo chí dành nhiều diện tích cho hoạt động của các tổ chức tín dụng
(mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại) xuất phát chính từ vai trò thực tế của
các tổ chức này trong đời sống kinh tế cũng như đời sống xã hội. Ở các ngành
khác, sự tham gia của nước ngoài có thể được nới rộng nhưng riêng trong lĩnh
vực ngân hàng thì hoạt động của các tổ chức này luôn được đặt dưới sự kiểm
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

13
soát chặt chẽ của Nhà nước. Tại sao lại có sự đối xử đặc biệt này? Có thể hiểu
vấn đề này một cách giản lược vì bốn lý do sau đây:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng chi phối hầu như toàn bộ các khía cạnh
của đời sống kinh tế. Hầu như không có một ngành nào lại không quan tâm đến
sự ổn định của đồng tiền (để đảm bảo giá trị tài sản của mình), đến nguồn vốn
(một trong bốn yếu tố đầu vào của sản xuất), đến tỷ giá hối đoái (liên quan mật
thiết đến xuất nhập khẩu) v.v
Thứ hai, ngân hàng là ngành kinh doanh chủ yếu dựa vào lòng tin. “Tín
dụng”, khái niệm cơ bản của ngân hàng, có nguồn gốc tiếng Latinh “creditum”
có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng. Nếu không có lòng tin thì không ai lại mang
tiền của mình gửi vào ngân hàng. Khi lòng tin bị mất đi thì không những một mà
hàng loạt các ngân hàng sẽ bị phá sản.
Thứ ba, các hoạt động của ngân hàng liên quan đến tiền: giá trị đồng tiền,
quá trình tạo tiền Đây là vấn đề mà không một nhà nước nào có thể bỏ ngỏ.
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997-1998 cho ta nhiều bài

học sâu sắc về quản lý tiền tệ và cái giá của “viện trợ cải cách kinh tế” đối với
các vấn đề xã hội.
Cuối cùng, ngân hàng còn là trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Ở Việt
Nam, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông còn cao khiến vai trò này của các ngân hàng
bị mờ nhạt. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế phát triển, các giao dịch thanh toán
của các tổ chức và cá nhân đều được thực hiện thông qua ngân hàng. Nếu trung
tâm này bị đình trệ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác.
Trong đổi mới kinh tế, vai trò của ngân hàng được ví như “bà đỡ”. Nói về
vai trò này, C.Mác cho rằng: “ngân hàng ra đời với vai trò môi giới tài chính
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

14
trung gian đã tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các
nhà doanh nghiệp và công chúng vay. Do đó, khi một ngân hàng cho khách của
mình vay, bằng cách đó, tạo nên sức mua cho họ thì không làm giảm sức mua
của bất kỳ ai. Đó chính là nét nổi bật nhất trong vai trò của ngân hàng tạo điều
kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ” [17,54].
Ngoài vai trò tập trung vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế vào mục đích cho
vay, hoạt động của ngân hàng còn góp phần cải biến cơ cấu nguồn vốn. Mặt
khác, sự có mặt của ngân hàng đã góp phần giải quyết căn bản các mâu thuẫn về
cung - cầu tiền tệ xuất hiện trong quá trình chu chuyển vốn.
1.1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trung ương
1.1.2.1. Nghiệp vụ phát hành tiền
Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất được phép phát hành tiền.
Việc phát hành tiền nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu chi trả của nền kinh tế, giúp
các ngân hàng thương mại hoạt động tốt và đồng thời để thực hiện vai trò quản
lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Phát hành tiền không thể tuỳ tiện mà phải có cơ sở
đảm bảo. Trước đây, phát hành tiền vào lưu thông phải có kim loại qúy để đảm
bảo. Nhưng chế độ này đã chấm dứt vào khoảng sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất và các nước chuyển sang phát hành trên cơ sở tín dụng. Ngân hàng trung

ương có thể đưa tiền vào lưu thông thông qua bốn con đường là: cho vay đối với
các ngân hàng thương mại (dưới hình thức tái cấp vốn), thông qua nghiệp vụ thị
trường mở, dự trữ ngoại hối và cho ngân sách Nhà nước vay
1
.

1
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn
và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn do Ngân hàng Nhà nước thực hiện
trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

15
Lượng tiền cung ứng vào lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lãi
suất thị trường, các cuộc khủng hoảng ngân hàng, sự tích luỹ của cải trong xã
hội
Việc bơm thêm tiền vào lưu thông hay rút tiền về (được thực hiện thông qua các
kênh trên) sẽ phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ để
đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng trung ương
Một trong các kênh để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông là cấp
tín dụng ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại. Thông qua việc cho vay này,
NHTW kiểm soát được khả năng tạo tiền của họ.
Trong các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trung ương thì cho vay tái
cấp vốn là nghiệp vụ quan trọng nhất. Ngân hàng trung ương thực hiện tái cấp
vốn thông qua việc cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu và tái chiết khấu
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; và cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Ngân hàng trung ương còn cho vay theo chỉ định nhằm thực hiện các yêu

cầu của Nhà nước như trợ giúp thiên tai, thu mua lương thực, nguyên liệu
Ngoài ra, trong trường hợp các ngân hàng thương mại bị thiếu khả năng thanh
toán, ngân hàng trung ương sẽ cho vay tạm thời để bù đắp thiếu hụt, giúp các
ngân hàng thương mại đứng vững và thông qua đó tạo cơ sở để bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng của mình.

Dự trữ ngoại hối bao gồm dự trữ tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ
thanh toán bằng tiền nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên thị trường
trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. (Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

16
Nếu việc cho vay ở trên được thực hiện trên cơ sở có đảm bảo bằng giấy
tờ có giá thì hình thức bảo lãnh và tái bảo lãnh là việc ngân hàng trung ương
dùng chữ ký của mình làm đảm bảo. Ngân hàng trung ương đứng ra bảo lãnh để
các tổ chức tín dụng vay vốn lẫn nhau. Nghiệp vụ bảo lãnh là nghiệp vụ ngân
hàng trung ương bảo lãnh hoặc ký bảo lãnh lần đầu cho các tổ chức tín dụng để
đảm bảo các khoản vay. Nghiệp vụ tái bảo lãnh là việc ngân hàng trung ương ký
bảo lãnh lại những khoản vay mà tổ chức tín dụng đã bảo lãnh cho khách hàng
của mình.
1.1.2.3. Nghiệp vụ quản lý ngoại hối
Nội dung cơ bản nhất của nghiệp vụ này là quản lý tỷ giá hối đoái. Tỷ giá
hối đoái là sự so sánh giá trị giữa hai đồng tiền với nhau, hay nói cách khác, tỷ
giá là giá cả tiền tệ nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ nước khác. Tỷ giá hối
đoái là một công cụ quản lý rất quan trọng để điều tiết các hoạt động kinh tế
trong nước cũng như kinh tế đối ngoại. Tỷ giá có tác động tới nhiều mặt của nền
kinh tế, trong đó rõ nhất là tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá giảm, tức là
đồng nội tệ tăng giá trị, sẽ khuyến khích nhập khẩu vì nhập khẩu rẻ nhưng lại
gây bất lợi đối với xuất khẩu vì hàng xuất khẩu trở nên đắt đỏ. Không những thế,
dự trữ ngoại tệ của quốc gia giảm vì xu hướng nhập khẩu gia tăng (ngoại tệ chảy

ra nước ngoài nhiều) và xuất khẩu giảm làm ngoại tệ thu về giảm. Và ngược lại,
khi tỷ giá tăng thì sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, lượng ngoại
tệ chuyển vào có xu hướng tăng, dự trữ ngoại tệ dồi dào, tạo điều kiện cho ổn
định cán cân thương mại quốc tế.
Không những thế, khi đồng tiền trong nước lên giá, hàng hóa nhập khẩu sẽ
rẻ hơn, làm lạm phát giảm. Ngược lại, khi đồng tiền mất giá thì giá những mặt
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

17
hàng tư liệu sản xuất, vật tư nhập khẩu lại tăng, làm cho giá thành sản phẩm tăng
khiến mặt bằng giá cả trong nước lên cao, gây áp lực lạm phát.
Vì ảnh hưởng to lớn của tỷ giá hối đoái nên trong từng thời kỳ, ngân hàng
trung ương sẽ thực hiện chính sách hối đoái của mình cho phù hợp. Ngoài ra,
ngân hàng trung ương còn dùng quỹ bình ổn hối đoái hay lãi suất chiết khấu để
can thiệp khi cần thiết.
Ngân hàng Nhà nước quản lý việc chuyển ngoại hối ra nước ngoài và
ngược lại của các tổ chức kinh tế, xã hội, dân cư theo quy định cụ thể.
1.1.2.4. Nghiệp vụ thanh toán và thống kê
Ngân hàng trung ương mở tài khoản và thực hiện các giao dịch, các dịch
vụ thanh toán cho các tổ chức tín dụng trong nước, các ngân hàng nước ngoài và
tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế để đảm bảo sự vận động về vốn giữa các ngân
hàng thương mại diễn ra trôi chảy và nhanh chóng. Thanh toán ở đây bao gồm cả
thanh toán tiền mặt và không dùng tiền mặt (thanh toán séc, chuyển khoản, uỷ
nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng) Thông qua nghiệp vụ này, các chi phí lưu
thông, vận chuyển tiền mặt được hạn chế ở mức thấp, đồng thời cũng điều hoà
được nguồn vốn giữa các ngân hàng.
Để làm tốt chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và
ngoại hối, ngân hàng trung ương phải có các số liệu chính xác về lĩnh vực này.
Vì vậy, ngân hàng trung ương tiến hành thống kê số liệu theo các tiêu thức riêng
biệt để phục vụ cho công tác quản lý. Nghiệp vụ thống kê của ngân hàng trung

ương được thực hiện theo các nội dung của bảng tổng kết tài sản.
1.1.2.5. Nghiệp vụ thanh tra và kiểm soát
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

18
Hoạt động ngân hàng là đi vay để cho vay, vì vậy, các ngân hàng thương
mại nắm trong tay một khối lượng tài sản khổng lồ dưới dạng giá trị nhưng phần
lớn lại không thuộc sở hữu của họ mà họ chỉ có quyền sử dụng với mục đích
kinh doanh. Đồng thời, hoạt động ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro và do đó phải
tìm các biện pháp để hạn chế những rủi ro này ở mức thấp nhất. Mặt khác, đồng
tiền là đối tượng của các tổ chức tín dụng không có giới hạn về không gian và
thời gian. Nếu một tổ chức tín dụng gặp khủng hoảng sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng trong phạm vi quốc gia và thế giới. Vì những lý do trên, công tác thanh tra,
kiểm soát của ngân hàng luôn được ngân hàng trung ương coi trọng để đảm bảo
an toàn cho nền kinh tế và lợi ích cho người dân.
Nội dung của công tác thanh tra của ngân hàng trung ương bao gồm thanh
tra vốn, hiệu quả sử dụng vốn, năng lực quản lý của các tổ chức tín dụng, khả
năng sinh lời của đồng vốn và khả năng thanh toán của các tổ chức này.
Nghiệp vụ kiểm soát tập trung vào việc kiểm soát hoạt động của các vụ,
cục thuộc ngân hàng Nhà nước trung ương, các chi nhánh ngân hàng Nhà nước
tỉnh, thành phố nhằm đảm bảo an toàn cho các tài sản mà ngân hàng nắm giữ.
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Bảng tổng kết tài sản của một ngân hàng thương mại gồm hai cột, trong đó
cột bên trái - tài sản Có - thống kê các hoạt động sử dụng vốn; còn cột bên phải
tài sản Nợ - thống kê các hoạt động huy động vốn và nguồn vốn của ngân hàng
thương mại.
Nghiệp vụ tài sản Có - Sử dụng vốn
Nghiệp vụ tài sản Nợ - Nguồn vốn
1. Nghiệp vụ ngân qũy
1. Vốn huy động

Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

19
2. Nghiệp vụ kinh doanh tín dụng
2.1 Cho vay ngắn hạn
2.2 Cho vay trung và dài hạn
3. Nghiệp vụ hùn vốn, góp vốn
4. Nghiệp vụ kinh doanh khác
5. Tài sản cố định
1.1 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
1.2 Tiền gửi tiết kiệm
2. Vốn đi vay
2.1 Vay của các NHTM khác
2.2 Vay của NHTW
2.3 Vốn điều hoà
2.4 Vốn nhận uỷ thác
3. Vốn tự có

1.1.3.1. Nghiệp vụ tài sản Nợ và vốn của ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại có thể chia làm ba loại là vốn huy
động (từ các tổ chức kinh tế và dân cư), vốn đi vay (của các tổ chức tín dụng
khác và của ngân hàng trung ương), và vốn tự có của của ngân hàng.
Các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục
đích chủ yếu là bảo quản an toàn tài sản và nhờ ngân hàng thực hiện các dịch vụ
thanh toán cho mình. Vì vậy, ngân hàng thường mở cho họ tài khoản tiền gửi
thanh toán. Vì khách hàng có thể yêu cầu thanh toán bất cứ lúc nào nên đối với
loại tài khoản này, ngân hàng thương mại có thể không trả lãi mà thay vào đó
bằng cách không thu phí dịch vụ. Ngược lại, ngân hàng có thể vừa trả lãi, vừa
thu phí dịch vụ.
Đối với người dân muốn gửi tiền tiết kiệm nhằm mục đích hưởng lãi, ngân

hàng mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (khách hàng có thể rút ra bất
cứ lúc nào) hoặc tiền gửi có kỳ hạn (thường là 3, 6, 9, 12 tháng). Vì khách hàng
gửi nhằm mục đích tiết kiệm nên lãi suất trả cho loại tiền gửi này tương đối cao.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

20
Ngoài ra, để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh
tế, ngân hàng thương mại còn được phép phát hành trái phiếu, kỳ phiếu hoặc
chứng chỉ tiền gửi. Các loại giấy tờ có giá này thường có thời hạn lớn hơn một
năm.
Tuy nhiên, nguồn vốn của một ngân hàng thương mại đôi lúc có thể không
đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán của ngân hàng đó, vì vậy, ngân hàng thương mại
đi vay vốn của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác (trên thị
trường liên ngân hàng), hoặc vay vốn của ngân hàng trung ương (dưới hình thức
tái cấp vốn). Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại còn nhận vốn điều chuyển
từ ngân hàng cấp trên (do có ngân hàng thừa và có ngân hàng thiếu vốn nên ngân
hàng cấp trên của hệ thống ngân hàng đó căn cứ vào tình hình này để điều
chuyển vốn).
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có loại vốn do ngân hàng nhận
làm đại lý hoặc uỷ thác cho các tổ chức trong và ngoài nước. Ngân hàng không
mất chi phí huy động nguồn vốn này và tìm khách hàng vay mà được hưởng
chênh lệch giữa việc nhận và giải ngân vốn theo chỉ định của tổ chức tài trợ.
Cũng giống như các tổ chức kinh tế khác, để được phép thành lập và có
thể hoạt động, ngân hàng phải có đủ mức vốn pháp định cần thiết. Tuy nhiên, để
tăng quy mô hoạt động (vì nhiều chỉ tiêu kinh doanh được tính trên cơ sở nguồn
vốn này), khi thành lập, các ngân hàng thương mại thường có mức vốn cao hơn
vốn này, gọi là vốn điều lệ. Ngoài ra, theo quy định của ngân hàng Nhà nước,
các ngân hàng thương mại phải trích lập các quỹ như quỹ phòng ngừa rủi ro, quỹ
phúc lợi, quỹ đổi mới công nghệ và phần này cũng được coi như vốn tự có.
1.1.3.2. Nghiệp vụ tài sản Có

Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

21
Với các khoản tiền của mình, ngân hàng phải trích một tỷ lệ nhất định để
nộp dự trữ bắt buộc (tỷ lệ này khác nhau đối với các loại tiền gửi và các loại hình
tổ chức tín dụng) và lập quỹ đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Việc
trích lập các quỹ này trong nghiệp vụ tài sản Có được gọi là nghiệp vụ ngân quỹ.
Bản chất của hoạt động ngân hàng là đi vay để cho vay nên nghiệp vụ tài
sản Có chủ yếu của ngân hàng là cho vay. Các khoản cho vay thường được phân
chia theo thời hạn thành ngắn hạn và trung - dài hạn. Các khoản cho vay ngắn
hạn là những khoản vay chủ yếu đầu tư vào tài sản lưu động của khách hàng, tức
là cho khách hàng vay để duy trì hoạt động kinh doanh bình thường của họ. Còn
cho vay trung và dài hạn là để đầu tư vào các tài sản cố định của doanh nghiệp.
Các khoản vay này thường có giá trị lớn và thời gian lưu chuyển vốn chậm.
Ngoài ra, ngân hàng còn có thể dùng số vốn khả dụng của mình (vốn được
phép sử dụng) để kinh doanh chứng khoán, hoặc hùn vốn, góp vốn, liên doanh,
liên kết hay kinh doanh vàng bạc, đá quý
1.1.4. Hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Về bản chất, hoạt động của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng cũng tương
tự như các ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Tuy nhiên, các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng không được huy động vốn không kỳ hạn và không được
thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Mỗi loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng có
nghiệp vụ và mục đích hoạt động riêng. Đối với các tổ chức tín dụng hợp tác
(các Quỹ tín dụng nhân dân), nghiệp vụ đi vay và cho vay được nhằm thực hiện
mục đích tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên của quỹ trên địa bàn. Trong khi
đó, các công ty tài chính ở Việt Nam hiện nay đều trực thuộc các tổng công ty
lớn, làm nhiệm vụ huy động và cho vay giữa các công ty thành viên của tổng
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

22

công ty. Cũng như các Qũy tín dụng nhân dân, công ty tài chính thuộc tổng công
ty hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà đặt mục đích hỗ trợ lên hàng đầu.
Còn các công ty cho thuê tài chính được hình thành nhằm giúp đỡ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ về vốn để mua sắm máy móc, thiết bị.
Vì hoạt động của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
còn ở quy mô nhỏ, và vì vậy chiếm vị trí khiêm tốn trên báo chí nên chúng tôi
không đi sâu vào nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng này mà chỉ muốn nhấn
mạnh là về bản chất hoạt động, các tổ chức này cũng đi vay để cho vay.
1.2. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG VÀ CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM
Nền kinh tế nước ta trước khi đổi mới, về cơ bản là một nền kinh tế tự
nhiên, trao đổi khép kín. Trong nền kinh tế đó, vai trò của động lực kinh tế tiền
tệ không đáng kể. Điều này có thể nhận thấy rõ ở nông thôn, nơi cấu trúc kinh tế
tự nhiên chưa được biến đổi nhiều. Có nơi kinh tế hàng hóa được khơi dậy bằng
biện pháp hành chính, sau một thời gian bị tự nhiên hoá trở lại. Hơn nữa, đối với
loại hình kinh tế hiện vật gắn với cơ chế bao cấp và kế hoạch hoá tập trung thì
vai trò tiền tệ hầu như chỉ mang tính hình thức. Cơ chế vận hành, cơ chế mà qua
đó động lực tiền tệ có thể phát huy tác động đến nền kinh tế, tức hệ thống tiền tệ-
tín dụng-ngân hàng cũng phải thích ứng với môi trường đó [17,52].
Vì vậy, muốn đổi mới nền kinh tế sang kinh tế thị trường thì phải thiết lập
hệ thống tiền tệ-tín dụng-ngân hàng tương ứng. Nhận thức sớm điều này, ngay từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đại hội của đổi mới, Đảng ta đã yêu cầu
“NH phải cải tiến các hoạt động nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời các yêu cầu hợp lý
của các cơ sở, khắc phục mọi hiện tượng cửa quyền, gây phiền hà, tiêu cực.”
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

23
Nhiệm vụ của ngân hàng lúc này là tập trung ổn định giá trị tiền tệ, huy động tiền
nhàn rỗi trong dân và tăng cường thanh toán bằng chuyển khoản qua NH, lập lại
vị trí trung tâm thanh toán của ngân hàng.

Đến Đại hội Đảng VII, yêu cầu đối với ngành ngân hàng đã được nâng
lên, đòi hỏi ngân hàng phải làm tốt chức năng tiền tệ, tín dụng và thanh toán,
đồng thời phải phân định rõ chức năng ngân hàng Nhà nước và ngân hàng kinh
doanh. Lần đầu tiên, áp dụng chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng và Nhà
nước đã cho phép thành lập ngân hàng thương mại cổ phần và cho phép ngân
hàng nước ngoài vào hoạt động theo luật pháp của Việt Nam. Quản lý ngoại tệ
được chú trọng hơn, yêu cầu các giao dịch ngoại tệ phải thông qua ngân hàng và
dần xây dựng một thị trường hối đoái.
“Lĩnh vực tài chính, tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn
được nạn lạm phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát”. Đó là một trong nhiều mặt
chúng ta đã làm được sau 10 năm đổi mới và được khẳng định trong văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đại hội này cũng khuyến nghị phát triển
thị trường tiền tệ và thị trường vốn, tăng khả năng chuyển đổi của đồng Việt
Nam. Một lần nữa, việc kiểm soát và hạn chế sử dụng ngoại tệ trong nước lại
được đề cập, trong đó yêu cầu ổn định một tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua
thực tế của đồng tiền.
Chưa có một văn kiện đại hội Đảng nào mà các vấn đề NH lại được đề cập
nhiều như trong văn kiện đại hội IX. Văn kiện không chỉ đánh giá thành tựu mà
ngành NH đạt được trong 5 năm qua, chỉ ra mặt hạn chế mà còn đưa ra định
hướng phát triển và giải pháp xử lý. Việc phát triển vốn và tiền tệ với các hình
thức đa dạng, thích hợp nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội được coi là
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

24
nhiệm vụ hàng đầu. Đồng thời, Nhà nước sẽ “giảm mạnh các hình thức bao cấp
về vốn, tín dụng. Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín
dụng chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại
quốc doanh, đặt các ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động trong môi
trường cạnh tranh; lành mạnh hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại cổ
phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Hiện đại hoá và đổi mới công nghệ

thông tin, phấn đấu để hệ thống tài chính - ngân hàng đạt trình độ trung bình của
khu vực”.
Như vậy, văn kiện đại hội lần này đã đi sâu hơn vào công tác quản lý để
củng cố và ổn định hệ thống ngân hàng thương mại, kiên quyết xoá bỏ bao cấp
đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Vai trò của công nghệ thông tin
trong hoạt động ngân hàng cũng được nhận thức rõ ràng và đầy đủ hơn và được
coi là một trong những yếu tố hàng đầu để hội nhập khu vực. Các vấn đề này
được báo chí đề cập và phản ánh như thế nào và đóng góp gì cho sự phát triển
của ngành, chúng tôi xin trình bày trong chương tiếp theo.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THÔNG TIN BÁO CHÍ PHẢN ÁNH HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG VÀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1.3.1. Ảnh hưởng của báo chí đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng
Theo Phạm Thị Thắng [29,129], thị trường thông tin thường bao gồm các
nhóm khách hàng sử dụng thông tin với mục đích khác nhau và có thể chia thành
hai nhóm:
- Nhóm khách hàng sử dụng thông tin để tạo ra và hoàn thiện, nâng cao các kỹ
năng, khả năng thực hiện các hoạt động kinh tế khác nhau. Những khách hàng
Hoạt động của các tổ chức tín dụng qua phản ánh của báo chí

25
này là cá nhân đang hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau hoặc những
người chuẩn bị tham gia vào các lĩnh vực hoạt động này.
- Nhóm khách hàng sử dụng thông tin để thực hiện các quyết định kinh tế. Khách
hàng sử dụng thông tin vì mục đích này là tất cả các đơn vị kinh tế cũng như các
cơ quan của chính phủ Các khách hàng này, bên cạnh hệ thống thông tin nội bộ
của mình còn muốn tìm kiếm các thông tin ở thị trường để giảm bớt độ bất định
của môi trường, thực hiện việc ra quyết định kinh tế trong các điều kiện chắc
chắn hơn. Các thông tin này cũng giúp cho việc thực hiện hoạt động kinh tế
trong các điều kiện chắc chắn hơn.
Ở cả hai nhóm, tác giả đều liệt kê báo chí là kênh thông tin quan trọng.

Các thông tin, các dịch vụ truyền tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
như các thông tin trên các chuyên mục kinh tế, khoa học, công nghệ trên báo
hàng ngày, phương tiện truyền hình, truyền thanh, các dịch vụ quảng cáo, thông
báo không mất tiền v.v đều là các sản phẩm thông tin cần thiết. Đồng thời, tác
giả cũng cho biết, theo kết quả điều tra 300 doanh nghiệp có nhu cầu về sử dụng
các thông tin thị trường, có tới 203 doanh nghiệp thu thập thông tin từ các
phương tiện thông tin đại chúng, 171 doanh nghiệp mua và sử dụng các thông tin
từ các tạp chí, ấn phẩm. “Tuy kết quả này không phải là phổ biến đối với tất cả
khách hàng của thị trường thông tin nhưng cũng cho thấy vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng, các xuất bản phẩm trong hoạt động thông tin là
rất lớn.”
Như vậy, thông tin báo chí kinh tế đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Để có thể phân tích kỹ hơn về thông tin báo chí trong
lĩnh vực ngân hàng, chúng tôi chia đối tượng độc giả của thông tin hoạt động

×