ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===***====
VÕ HUYỀN MAI CHÂU
Phong cách hài chính luận của nhà báo
Lý Sinh Sự
(Khảo sát trên Báo Lao Động năm 2012 - 2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===***====
VÕ HUYỀN MAI CHÂU
Phong cách hài chính luận của nhà báo
Lý Sinh Sự
(Khảo sát trên Báo Lao Động năm 2012 - 2013)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí
Mã số: 60.32.01.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái
Hà Nội - 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHONG CÁCH BÁO CHÍ VÀ
THỂ LOẠI TIỂU PHẨM 9
1. 1 Một số khái niệm cơ bản về phong cách 9
1. 2 Thể loại tiểu phẩm báo chí 19
1. 3 Mối quan hệ giữa phong cách hài chính luận và thể loại tiểu phẩm 27
Tiểu kết chƣơng 1 29
CHƢƠNG 2: CÁCH TỔ CHỨC NỘI DUNG CHUYÊN MỤC “NÓI
HAY ĐỪNG” CỦA LÝ SINH SỰ 31
2. 1 Vai trò và vị trí của chuyên mục “Nói hay đừng” trên Báo Lao Động. 31
2. 2 Những vấn đề chính luận trong chuyên mục “Nói hay đừng” từ góc
nhìn hài hước của Lý Sinh Sự 32
2. 3 Phong cách tổ chức nội dung chuyên mục “Nói hay đừng” của Lý Sinh
Sự từ góc nhìn hài hước 54
2. 4 Tác động xã hội từ chuyên mục “Nói hay đừng” 56
2. 5 Sự nhất quán của phong cách Lý Sinh Sự từ Báo Lao Động đến Tạp chí
Làng Việt và Báo Nông thôn ngày nay 62
Tiểu kết chƣơng 2 71
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT VIẾT TIỂU PHẨM HÀI CHÍNH LUẬN
TRONG CHUYÊN MỤC “NÓI HAY ĐỪNG” CỦA LÝ SINH SỰ 72
3. 1 Sự độc đáo của tên chuyên mục “Nói hay đừng” 72
3. 2 Nghệ thuật hài hước của Lý Sinh Sự trong chuyên mục “Nói hay đừng”
73
3. 3 Phương pháp dẫn chuyện hài hước của chuyên mục “Nói hay đừng” . 79
3. 4 Đặc trưng phong cách hài chính luận của Lý Sinh Sự qua chuyên mục
“Nói hay đừng” 81
3. 5 Cái tôi của Lý Sinh Sự trong chuyên mục “Nói hay đừng” 88
Tiểu kết chƣơng 3 91
KẾT LUẬN 93
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển khoa học – công nghệ, ngày nay, phương tiện
truyền thông đại chúng đang dần khẳng định vai trò trong việc tác động vào
quá trình xây dựng, hoạch định chiến lược của đất nước, định hướng dư luận
đồng thời phá vỡ mọi rào cản biên giới quốc gia.
Báo chí Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ 19 do nhu cầu thống trị và xâm
lăng văn hóa của chủ nghĩa thực dân. Mặt khác, sự phân hóa và phát triển của
báo chí lại theo sát từng bước đi của cuộc đấu tranh dân tộc diễn ra khá sâu
sắc trong lòng xã hội nước ta. Vì vậy lịch sử báo chí đồng thời là sự phản ánh
cuộc đấu tranh gay gắt giữa một nền báo chí thực dân với một nền báo chí yêu
nước và cách mạng. So với nhiều nước khác, báo chí Việt Nam đi sau các nước
Châu Âu khá lâu. Nhưng chỉ với hơn một thế kỷ tồn tại và phát triển, báo chí
Việt Nam đã có một bề dày lịch sử phong phú, mang những sắc thái riêng biệt và
bước trưởng thành của nó gắn chặt với những biến thiên của lịch sử dân tộc.
Ở một góc độ khác, lịch sử báo chí Việt Nam còn là sự phản ánh của lịch
sử văn hóa ngôn ngữ, văn học… Báo chí cách mạng của Đảng ta chẳng những
là phương tiện, là vũ khí quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến tri
thức cách mạng mà còn là một hình thức tổ chức nối kết giữa cơ quan của
Đảng với quần chúng. Luôn gắn liền với đời sống, là nhịp thở của xã hội, báo
chí ngày nay đã trở thành một món ăn tinh thần dành cho độc giả, là một món ăn
tất yếu không thể thiếu trong đời sống thường ngày.
Báo chí Việt Nam có 4 loại hình đặc trưng gồm: Báo in, báo nói (phát
thanh), báo hình (truyền hình) và báo mạng (điện tử). Đặc biệt sự ra đời cũng
như mức độ “phủ sóng” của báo mạng (chưa kể trang tin, mạng xã hội như
Facebook), đã đẩy báo in vào tình thế bi kịch là sự sút giảm rất đáng kể về tira
2
khi độc giả ngày càng “khó tính” và hiện đại hơn/nhiều quyền hơn trong lựa
chọn ngôn ngữ thông tin.
Trong các loại hình báo chí, thì báo in là loại hình cổ điển và căn cơ nhất
và cũng là loại hình mà tác phẩm báo chí được viết chữ bằng văn bản truyền
thông nên có thể còn gọi là báo viết, khác hẳn ngôn ngữ của các tác phẩm báo
chí truyền thanh, truyền hình và báo mạng điện tử. Cũng vì vậy, có nhiều nhà
báo nổi tiếng đã thành công khi tạo cho mình một phong cách viết riêng trên
tác phẩm báo in. Với cách viết báo độc đáo khác nhau, những nhà báo đó đã
gắn liền tên tuổi của mình vào tên của chuyên mục hay thể loại tác phẩm báo
chí.
Trong đó, ở thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, nếu như phóng sự nổi
đình nổi đám bởi Xuân Ba, Huỳnh Dũng Nhân… thì ở thể loại tiểu phẩm hài
chính luận lại có những tên tuổi ít nhiều đã tạo nên hiệu ứng đặc biệt trong xã
hội, góp phần nâng cao chất lượng thông tin của báo chí như: Lê Thị Liên
Hoan, Hai Cù Nèo, Thảo Hảo và Lý Sinh Sự…
Ngoài việc đòi hỏi một nền báo chí phải có những sản phẩm báo chí tiên
tiến, người làm báo cần phải khẳng định bản sắc của riêng mình trong lĩnh
vực báo chí hiện đại. Chức năng cơ bản của báo chí là thông tin thời sự nhưng
thông tin cần được đưa như thế nào hay bằng cách nào nhằm đảm bảo tính
khách quan, trung thực song không gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội và
lợi ích quốc gia? Điều này đặt ra một loạt các vấn đề đối với nghĩa vụ và trách
nhiệm, đạo đức của từng nhà báo trong việc biểu dương, cổ vũ nhân tố mới
cũng như phê phán các hiện tượng tiêu cực. Bởi vậy, một mặt, mỗi nhà báo
phải tự rèn luyện cho mình phẩm chất chính trị, lập trường quan điểm vững
vàng, tâm – đức trong sáng, mặt khác, phải không ngừng nâng cao năng lực
nghề nghiệp, mài bút cho sắc, cho cứng, lựa chọn một phương thức truyền đạt
thông tin sao cho hiệu quả nhất. Nói về mặt nghề nghiệp của nhà báo, tác giả
3
Nguyễn Văn Chước cũng từng nhận xét “những người cầm bút đó vừa chuyên
nghiệp lại vừa tài tử” [4, tr.89].
Theo lập luận này, Nguyễn Văn Chước cho rằng, thế hệ làm báo từ giai
đoạn khởi thủy đều là những chiến sĩ xả thân, xây dựng cơ sở, nền tảng cho
báo chí cách mạng, sau đó là những nhà cách mạng đích thân cầm bút làm báo
kiểu như Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong hay Hà Huy Tập và nhất là Nguyễn
Ái Quốc v.v…
Phong cách của mỗi nhà báo được hình thành trong quá trình tác giả chọn
lựa những phương pháp thể hiện riêng nhằm phản ánh được các nội dung
thông tin, sự kiện một cách hiệu quả nhất. Họ thuộc những thế hệ khác nhau,
khác nhau có khi rất lớn về phương pháp tư tưởng, quan niệm, về báo chí,
nhưng về phương diện nghề nghiệp, tất thảy đều góp phần tạo nên ngôi nhà
báo chí Việt Nam. Chính họ đã đem lại cái thú đọc nhật trình vào đời sống
thường ngày. Điều này có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn để
kịp thời đánh giá, biểu dương các cá nhân nhà báo cũng như đưa ra những
thẩm định xu thế báo chí hiện đại của nước ta.
Trong nhiều năm, những cây bút viết tiểu phẩm báo chí hiện đại này đã trở
thành một lực lượng viết báo và đã định hình những phong cách viết chính
luận trên tinh thần hài hước, nên đã thành những cái tên quen thuộc, để lại ấn
tượng tốt trong lòng độc giả bằng các bài viết mang đậm chất hài, nhất là trên
những tờ báo lớn, như Báo Lao Động, An ninh thế giới cuối tháng, Thể
thao văn hóa, Tuổi trẻ cƣời
Mỗi người trong số họ đều xây dựng cho mình một “thương hiệu riêng”
và nổi lên như những điểm sáng xuyên suốt trong miền đất tiểu phẩm báo chí,
góp phần vào bức tranh muôn màu của báo chí Việt Nam hiện đại. Và nhà báo
Lý Sinh Sự (tên thật Trần Đức Chính) là một trong những cái tên nổi bật đó.
Có nền tảng kiến thức và vốn sống sâu rộng, mỗi khi đặt bút viết, ông đều phân
4
tích và lý giải các vấn đề xã hội một cách đầy thông tuệ, thuyết phục bằng chất
giọng hóm hỉnh, độc đáo mang đậm phong cách dân gian như chính con người
ông ngoài đời. Dưới cái tên Lý Sinh Sự trong chuyên mục “Nói hay đừng” trên
Báo Lao Động, ông đã khiến chuyên mục này có vị trí riêng và được độc giả
yêu thích từ khi ra đời đến tận ngày hôm nay. Lý Sinh Sự cũng là một điển
hình của “người sao văn vậy”.
Nghiên cứu phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự để thấy
được những đóng góp giá trị của ông cho thể loại báo chí hài chính luận –
bằng các tác phẩm hài chính luận, trong mục “Nói hay đừng” của Báo Lao
Động. Từ đó, đặng rút ra những bài học kinh nghiệm về ứng xử văn hóa với
tác phẩm báo chí hài chính luận cho những thế hệ nhà báo trẻ là một công
việc cần thiết, mang nhiều ý nghĩa. Chính vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn
thạc sĩ, tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
Phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự
(Khảo sát trên báo Lao Động năm 2012 - 2013)
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong số khóa luận, luận văn tốt nghiệp tại khoa Báo chí&Truyền thông
- ĐH Khoa học&Xã hội Nhân văn Hà Nội cũng đã từng có công trình nghiên
cứu về phong cách một cá nhân nhà báo như: “Phong cách ngôn ngữ nhà báo
Hữu Thọ” của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, “Tác phẩm ký báo chí của nhà
báo Phan Quang” của tác giả Hoàng Thu Hằng, “Tìm hiểu phóng sự Huỳnh
Dũng Nhân”của tác giả Nguyễn Thị Hồng Cúc v.v… Nhưng chưa thật sự có
công trình báo chí nào nghiên cứu chuyên sâu và kỹ càng về nhà báo Lý Sinh
Sự, như là một phong cách báo chí riêng biệt, đặc thù, độc đáo mà mới chỉ có
hai Khóa luận gồm “Phong cách báo chí Lý Sinh Sự” của tác giả Nghiêm Thị
Thu Hà hay “Chuyên mục “Nói hay đừng” trên báo Lao Động” của tác giả
Đào Thái Tư, đặt vấn đề nghiên cứu một cách khái quát trên phạm vi khóa
5
luận tốt nghiệp đại học. Riêng Luận văn thạc sĩ “Phong cách hài trong tiểu
phẩm báo chí hiện đại qua ba nhà báo Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo
Hảo”của Trần Xuân Thân đã cùng lúc phân tích, so sánh nhằm làm nổi bật
phong cách hài của ba nhà báo trên.
Tuy nhiên, “lát cắt” riêng về Lý Sinh Sự như một phong cách báo chí
đặc sắc vẫn chưa được tìm hiểu, phân tích cụ thể chi tiết là các bài viết, cũng
như còn nhiều khía cạnh mới chưa được đề cập đến. Bên cạnh đó, một số bài
báo viết về chân dung nhà báo Lý Sinh Sự xuất hiện trên các tờ báo cũng chỉ
mang tính chất riêng lẻ, đơn độc, chưa mang tính nghiên cứu có hệ thống rõ
rệt về một phong cách viết báo đã được định hình, mang tên “phong cách hài
chính luận” của chính nhà báo Lý Sinh Sự.
Vì vậy, luận văn sẽ tập trung vào việc tiếp cận phong cách hài chính luận
của Lý Sinh Sự dưới cái nhìn tổng quát về một phong cách viết báo riêng,
thông qua việc phân tích nội dung và hình thức của tác phẩm hài chính luận
của chính tác giả này, trên một chuyên mục, cũng vì thế đã thành danh trên
Báo Lao Động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu, phân tích chuyên mục “Nói hay đừng” trên báo Lao
Động, từ đó luận văn nhận diện phong cách hài chính luận của nhà báo Lý
Sinh Sự để thấy được những đóng góp riêng biệt, độc đáo của một nhà báo
lão thành có nhiều năm gắn bó với nghề. Từ đó, luận văn cũng rút ra một số
bài học kinh nghiệm về cách ứng xử văn hóa với tác phẩm báo chí hài chính
luận từ nhà báo Lý Sinh Sự, đồng thời nêu lên một số giải pháp về việc nâng
cao chất lượng hài chính luận trong tác phẩm báo chí.
Đề tài hy vọng sẽ nghiên cứu và đánh giá thực tiễn việc tác động xã hội của
một phong cách báo chí độc đáo, nhằm bổ sung cho kiến thức lý luận báo chí về
6
phong cách viết của các nhà báo hiện đại. Thông qua đó góp phần thúc đẩy hơn
nữa quá trình gia tăng sự sáng tạo cá nhân trong hoạt động báo chí để việc thông
tin của báo chí hiệu quả hơn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích của luận văn, người nghiên cứu phải thực hiện
những nhiệm vụ sau:
- Giải thích một số khái niệm cơ bản được sử dụng thường xuyên trong
luận văn: phong cách, phong cách hài chính luận, tiểu phẩm báo chí, tiểu
phẩm hài và nhận thấy đặc điểm độc đáo: Một tiểu phẩm hài lại chính là toàn
thể chuyên mục “Nói hay đừng” của Lý Sinh Sự trên báo Lao Động.
- Hệ thống hóa các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, góp
phần làm rõ phần lý thuyết về phong cách báo chí cũng như nhận diện rõ
phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự.
- Phân tích các tác phẩm hài chính luận trên chuyên mục “Nói hay
đừng” trong 2 năm (từ năm 2012 đến 2013) và so sánh với tác phẩm của Lý
Sinh Sự trên một vài tờ báo khác, để khẳng định sự nhất quán của phong cách
báo chí Lý Sinh Sự, qua đó nhằm tìm ra những đặc điểm riêng biệt và nổi bật
phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự.
- Đánh giá tính hấp dẫn của chuyên mục “Nói hay đừng” đối với bạn
đọc Báo Lao Động.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là tất cả các bài viết trong chuyên mục nói
trên, mang đậm phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tác giả tập trung khảo sát phong cách hài chính luận qua chuyên mục
“Nói hay đừng” trên báo Lao Động (giai đoạn từ đầu năm 2012 đến hết năm
2013).
7
Khảo sát thêm các tác phẩm hài chính luận của Lý Sinh Sự đăng tải
trên một số tờ báo khác như Nông thôn ngày nay, Báo Hải Dương, Tạp chí
Làng Việt… – những tờ báo mà cây bút này xuất hiện khá thường xuyên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối chính sách, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ của báo chí.
Thực tế hiện nay những công trình nghiên cứu về lý luận báo chí nói
chung còn khá khiêm tốn, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về các tác
giả, các cây bút nổi tiếng như nhà báo Lý Sinh Sự là khan hiếm. Vì vậy, luận
văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của một vài công trình khoa học liên
quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích văn bản báo chí được tác giả luận văn xác định
là phương pháp cơ bản.
Phương pháp thống kê: Tư liệu tổng hợp loạt bài trên báo chí của Lý
Sinh Sự trong khoảng thời gian từ đầu năm 2012 đến cuối năm 2013 (gần 800
tiểu phẩm) cùng những tài liệu nghiên cứu khác về vấn đề liên quan.
Phương pháp phỏng vấn sâu được dùng để phỏng vấn nhà báo Lý Sinh
Sự và những người cộng tác lâu năm của Lý Sinh Sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn nghiên cứu phong cách của một nhà báo là Lý Sinh Sự đồng thời
làm rõ một số lý luận về phong cách hài chính luận trên báo chí, đặc biệt là
báo in. Từ đó, làm rõ hơn chức năng quản lý, phản biện xã hội của cá nhân
các nhà báo và báo chí truyền thông.
8
- Ý nghĩa thực tiễn:
Với đề tài này, luận văn góp phần phác họa những nét cơ bản nhấtvề
phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự để thấy được những đóng
góp của một nhà báo lão thành đã có gần 50 năm cầm bút.
Hiện các tác phẩm báo chí hài chính luận trên báo in của nước ta còn thiếu
và yếu, cũng như không có nhiều nhà báo gắn bó lâu dài với thể loại này. Vì
vậy, việc nghiên cứu phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự là
một công việc có ý nghĩa giúp ích cho việc đào tạo, tìm hiểu, học hỏi của các
nhà báo trẻ, đặc biệt là với những người luôn yêu mến và muốn học nghề từ
phong cách hài chính luận của nhà báo Lý Sinh Sự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, Luận văn gồm 03 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về phong cách báo chí và thể loại tiểu phẩm.
- Chương 2: Cách tổ chức nội dung chuyên mục “Nói hay đừng” của Lý
Sinh Sự.
- Chương 3: Nghệ thuật viết tiểu phẩm hài chính luận trong chuyên mục
“Nói hay đừng” của Lý Sinh Sự.
9
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHONG CÁCH BÁO CHÍ VÀ THỂ LOẠI
TIỂU PHẨM
1.1 Một số khái niệm cơ bản về phong cách
1.1.1 Phong cách
Trước khi tìm hiểu về khái niệm phong cách chính luận và phong cách
hài chính luận trong tiểu phẩm báo chí, chúng ta cần khẳng định phong cách
là gì?
Có rất nhiều cách hiểu khách nhau về khái niệm phong cách và phong
cách thường được dùng chủ yếu trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật. Theo
Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2000 chú thích định nghĩa:
- Phong cách được hiểu là những lối, những cung cách sinh hoạt, làm
việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào
đó. Ví dụ: Phong cách lao động mới. Phong cách lãnh đạo. Phong cách quân
nhân. Phong cách sống giản dị.
- Phong cách là những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ
thuật, biểu hiện trong sáng tác của một nghệ sĩ hay trong các sáng tác nói
chung thuộc về cùng một thể loại.Ví dụ: Phong cách của một nhà văn. Phong
cách văn học phong cách nghệ thuật.
Nhìn vào lịch sử vấn đề, từ xa xưa cho đến hiện đại, trên phạm vi toàn
thế giới, vấn đề phong cách chung bao giờ cũng được xem xét bên cạnh
phong cách cá nhân, thậm chí là mẫu số chung để nhìn nhận ra phong cách cá
nhân. Kết cấu đòi hỏi bài văn phải có bố cục gồm nhiều phần liên kết hợp lý,
còn phong cách đòi hỏi phải có các phẩm chất chung, cơ bản và các phẩm
chất cá nhân.
10
Khái niệm phong cách cá nhân thực sự được đề xuất từ thế kỷ XVIII.
Nhà văn nổi tiếng thế giới M.Gorki nêu quan điểm: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là
riêng của mình, làm sao cho nó phát triển tự do. Một người mà không cái gì là
riêng của mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết” [17, tr.483].
Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, khái niệm phong cách không phải chỉ
nhấn mạnh vào phong cách cá nhân. Nói tới phong cách bao giờ cũng dựa vào
những nét đặc trưng, tiêu biểu nhất, độc đáo nhất. Tùy theo mỗi con người cụ
thể, phong cách có thể tập trung thể hiện ở bất kỳ điểm nào hay một vài yếu tố
nào đó trong tác phẩm của mình. Tuy nhiên, cái vẻ riêng, độc đáo ấy không
chỉ xuất hiện một lần mà phải xuất hiện thường xuyên, bền vững, đa dạng và
luôn đổi mới. Bên cạnh đó, phong cách phải có phẩm chất thẩm mỹ, nghĩa là
nó phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mỹ cảm dồi dào. Chính vì
thế, “không phải nhà văn nào cũng có phong cách, mặc dù xét cho cùng, nhà
văn nào cũng có đặc điểm riêng” [17, tr.485]. Có thể khẳng định: Có bao
nhiều yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách thể hiện.
Phong cách có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài, ở cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm, ở việc xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật. Phong cách cũng biểu
hiện ở thể loại, ở ngôn ngữ, ở phương thức diễn đạt v.v… của tác giả.
Theo GS. Hà Minh Đức: “Vấn để lý luận về phong cách thường được
vận dụng quen thuộc trong phạm vi sáng tác nghệ thuật hơn là ở báo chí vì ở
dây dấu ấn sáng tạo của người viết in đậm nét. Và ở mức độ rõ rệt hơn là tính
nhất quán của một bản sắc được thể hiện trong một cấu trúc, một hệ thống
những yếu tố về nội dung và hình thức nghệ thuật [6, tr.102].
Các công trình lý luận đầu thế kỷ XX như của tác giả V.Girmunski,
E.Utitz đều đặt khái niệm phong cách thời đại vào vị trí quan trọng của lý
luận về phong cách.
11
Công trình “Lý luận phong cách” (1968) mà tác giả N.Sokolov viết có
thể coi là tác phẩm đầu tiên của các nước xã hội chủ nghĩa khi ông đặt lại vấn
đề phong cách. N.Sokolov khẳng định phong cách là một hiện tượng nghệ
thuật, thể hiện quy luật của nghệ thuật, là phạm trù thẩm mỹ trong tất cả mọi
nghệ thuật. Bản chất sự thống nhất của các thành tố nghệ thuật theo những
quy luật đặc thù. Ông không xem cá tính sáng tạo cá nhân là nhân tố tạo thành
phong cách, bởi vì theo tác giả N.Sokolov, nếu đã xem phong cách là một quy
luật của nghệ thuật thì không được xem nó như là biểu hiện của cá tính sáng
tạo vốn là một hiện tượng tâm lý, bởi hai phương diện đó nằm ở hai bình diện
khác nhau.
Nói tóm lại phong cách là gì? Và nó có những đặc điểm gì?
Phong cách, đặc biệt là phong cách thời đại là sự thể hiện của trình độ
kỹ thuật biểu hiện, của trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã
hình thành nên phong cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế
giới và con người, cảm thụ bản thân nghệ thuật. Khi nào nội dung và hình
thức cuộc sống thay đổi thì nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó
cũng thay đổi, và sự đổi thay đó “chính là đổi thay phong cách”.
Một yếu tố quan trọng nữa của phong cách là cách bố cục, kết cấu, tổ
chức nội dung tác phẩm, thể hiện cách cảm thụ của tác giả là người đọc kiểu
mới.
Phong cách thời đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất,
nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hóa theo các yếu tố khác nhau như
phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm
mỹ. Nhưng phong cách thời đại đó được xây dựng trên nền tảng trạng thái
văn hóa xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
12
Xét về bản chất của phong cách, cho đến nay có nhiều cách thể hiện
khác nhau. Tuy nhiên có thể nhìn phong cách theo ba phương diện liên quan
chặt chẽ với nhau như sau:
1. Phong cách là dấu hiệu độc đáo, không lặp lại, đánh dấu phẩm chất
thẩm mỹ riêng biệt của một hiện tượng văn học nào đó. Phong cách hoặc là
“con người”, là sự sáng tạo, sự mới mẻ làm nên vẻ riêng biệt ít thấy hiện
tượng văn học khác nhưng lại nhất quán, xuất hiện thường xuyên ở hiện
tượng văn học cụ thể.
2. Phong cách là phẩm chất của chính thể. Khi định nghĩa về phong
cách, dù có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, nhưng các định
nghĩa đó đều đề cập đến “tính hệ thống”, “tính thống nhất”, “tính tổng hòa”…
Điều này chứng tỏ, phong cách là phẩm chất của hệ thống thể hiện qua các
yếu tố chứ không phải phẩm chất do tổng cộng các thuộc tính của các bộ phận
của tác phẩm. Phong cách là phẩm chất xuyên suốt qua các yếu tố tác phẩm,
qua các tác phẩm của một tác giả hoặc các tác giả của một trào lưu nghệ thuật.
3. Phong cách là hình thức của chủ thể. Phong cách là gương mặt tinh
thần được khẳng định: phong cách là bản thân con người. Dĩ nhiên, người ở
đây không phải là con người trừu tượng, chung chung mà là người với những
phẩm chất trí tuệ, tình cảm, cá tính cụ thể. Như vậy có thể hiểu, bản chất nghệ
thuật, thẩm mỹ của phong cách là: không phải mọi hình thức của chủ thể tạo
thành phong cách mà là các hình thức chủ thể tạo thành giá trị nghệ thuật.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, khi đề cập đến vấn đề phong
cách nhà văn hay phong cách nhà báo là đề cập tới một cái nhìn tổng quát
phong cách viết của một cá nhân người cầm bút.
Phong cách nhà báo có thể hiểu là phong cách sáng tạo của những
người hoạt động trong ngành báo chí. Hiểu theo nghĩa này để phân biệt với
phong cách của nhà văn, phong cách nhà điêu khắc v.v… Phong cách nhà báo
13
là chân dung tinh thần một con người trên lĩnh vực báo chí được nhận diện
thông qua các đặc điểm của bài báo.
Phong cách tác giả là sự thống nhất từ đề tài, thể loại đến các phương
pháp diễn đạt. Tất cả các yếu tố này phải có tính chất đặc sắc, riêng biệt để
phân biệt được giữa phong cách nhà báo này với phong cách nhà báo khác.
PGS.TS.Vũ Quang Hào từng cho rằng: “Đối với một nhà báo, sự sáng tạo ở
phương diện ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần khẳng định phong
cách của họ” [12].
Như vậy, thuật ngữ phong cách là khái niệm chung, khái quát được sử
dụng trong nhiều lĩnh vực, địa hạt khác nhau. Nó chỉ ra những đặc điểm
riêng của con người trong các hoạt động, hành động sống. Nó cũng có thể
chỉ về nội dung và hình thức của từng sản phẩm trong lĩnh vực hoạt động
sáng tạo khác nhau mà ở đó dấu ấn cá nhân tác giả được thể hiện rõ nét.
14
1.1.2 Phong cách văn học
Trong các vấn đề về phong cách văn học ở ta, cho đến nay, giáo trình lý
luận phần lớn đều nói tới vấn đề phong cách thời đại, phong cách cá nhân của
nhà văn. Các khía cạnh khác của phong cách như phong cách thời đại, phong
cách trào lưu, phong cách dân tộc tuy cũng có được nhắc tới nhưng hầu như
chưa được bàn bạc và vận dụng vào thực tiễn. Theo nhịp độ phát triển và giao
lưu, hội nhập của cuộc sống hiện nay, vấn đề phong cách chung được nhìn
nhận rõ hơn và đã đến lúc cần xem, xét cụ thể vấn đề rất phức tạp này. Phong
cách hiện đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất, nghĩa là bên
trong nó vẫn có sự phân hóa theo các yếu tố khác nhau như phương pháp sáng
tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm mỹ. Nhưng phong
cách hiện đại lại xây dựng trên nền tảng trạng thái văn hóa xã hội rộng lớn
nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
Việc phân chia phong cách văn học nói chung, phong cách văn học hiện
đại nói riêng theo thời gian là cần thiết. Trong phong cách văn học hiện đại có
chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực, thì việc xem xét các đặc điểm loại
hình của văn học hiện đại có ý nghĩa như nguyên tắc chung, quy luật chung
chi phối chứ không nhắm vào việc tìm hiểu tính đặc thù cá biệt. Mặt khác, do
đặc điểm của những tại lịch sử xã hội khác nhau tạo nên những môi trường
văn hóa khác nhau trong thời hiện đại của mỗi dân tộc, vì vậy ngoài các tính
chung của loại hình văn học hiện đại thế giới, văn học hiện đại mỗi dân tộc lại
có hệ thống đặc điểm đặc trưng cho riêng mình.
15
Phong cách văn học không đơn giản chỉ là tính độc đáo về đề tài, chủ thể,
ngôn ngữ, thể loại mà còn là quy luật riêng của sáng tạo nghệ thuật. Phong
cách văn học qua các thời kỳ đều có sự đổi thay và phát triển đồng thời nó
bao gồm các yếu như hệ thống các hình tượng, các phương thức biểu hiện
nghệ thuật. Phong cách văn học cũng làm cho quá trình phát triển của văn học
không phải là sự lặp lại nhàm chán mà là sự tiếp nối của những phát hiện
nghệ thuật mới mẻ, giàu ý nghĩa. Trong đó, phong cách văn học hiện đại chủ
trương tự do sáng tạo, đề cao vai trò của chủ thể sáng tạo, của cá tính sáng tạo
và coi nguyên tắc sáng tạo cao nhất là phát hiện cái mới, khẳng định cái mới,
cái độc đáo phù hợp với sự phong phú, phức tạp và tính chất không ngừng
biến đổi của cuộc sống và tinh thần con người. Vì thế có thể lý giải tại sao
phong cách văn học hiện đại không ngần ngại phá vỡ các quy phạm, quy tắc
đã có để tìm những nội dung mới, hình thức mới.
Trong hoàn cảnh hiện tại, phong cách văn học Việt Nam sẽ tiếp tục xây
dựng nền văn học hiện đại, tiếp tục phát triển theo con đường hiện đại hóa.
Để hiện đại hóa phong cách văn học một cách đúng hướng và lành mạnh cần
đạt được những thành tựu mới trong văn học, chắc chắn phải xử lý đúng đắn
các mối liên hệ sống còn bên trong và bên ngoài văn học, giữa văn học và
cuộc sống, văn và đời, cá nhân và cộng đồng, người viết và người đọc, sáng
tác và tiếp nhận, truyền thống và cách tân, nội dung và hình thức v.v…
1.1.3 Phong cách báo chí
Báo in là một trong những loại hình của báo chí, là phương tiện truyền
thông cổ điển và quan trọng của đời sống xã hội. Báo in còn được hiểu là
những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự kiện vấn đề thời sự, phát
hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng - nhóm đối tượng nào đó với mục
đích nhất định. Hay hiểu một cách đơn giản nhất, “Báo in là một loại hình báo
chí, chuyển tải nội dung các vấn đề, sự kiện bằng văn bản, chữ viết, ký tự,
16
hình ảnh thông qua trang giấy cung cấp thông tin cho độc giả”. Báo in bao
gồm báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn (theo Luật báo chí). Báo in
chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản bao gồm chữ in, hình vẽ,
tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Đây cũng là thế mạnh mà không loại hình báo chí
nào có thể so sánh được với báo in. Và nó là điều kiện để cho báo in tồn tại và
phát triển. Chính vì khả năng phát tán thông tin chưa cao mà báo in đang tận
dụng triệt để lợi thế này nhằm giữ chân độc giả.
Sự tồn tại lâu dài của một tác phẩm báo chí đó là sự kết hợp hoàn hảo
giữa nội dung và nghệ thuật. Một tác phẩm báo chí hay phải có phong cách
viết chặt chẽ, biện luận sắc sảo, phân tích rõ ngọn nguồn của sự kiện vấn đề,
từ những nguyên nhân chủ quan đến khách quan để lý giải cho 5W (What,
Where, When, Who, Why) và một H (How). Thêm vào đó ngôn từ chọn lọc và
gây ấn tượng. Từ một thông tin đơn lẻ có thể phân tích cách viết nhằm có một
bài xã luận, bình luận.
Nhiều bài báo của Hồ Chí Minh đến nay vẫn tồn tại nguyên vẹn giá trị
của nó. Đó chính là phong cách viết biện luận sắc sảo của chủ tịch Hồ Chí
Minh, người luôn đi sâu vào phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề một cách có
căn cứ. Đối với báo in, khi người ta đọc tác phẩm, với sự phân tích, bình luận
qua phong cách viết của tác giả sẽ giúp công chúng hiểu rõ được vấn đề, từ đó
định hướng cho độc giả những phán đoán, suy nghĩ đúng đắn về vấn đề, sự
kiện. Vì vậy, để có được một bài báo in hay, đầy đủ, súc tích, có biện luận sắc
sảo, bản thân tác giả phải là người am hiểu về cuộc sống và nắm rõ được sự
kiện vấn đề thì mới phản ánh được một cách khách quan như thế. Chính tác giả
bài viết cũng là người có năng lực về phân tích, bình luận và sử dụng ngôn từ
sao cho phù hợp với vẫn đề và lĩnh vực. Đồng thời, tác giả luôn là người biết
lựa chọn vấn đề và khía cạnh, góc độ để phản ánh, bình luận. Một tác phẩm hay
và có giá trị bên vững thì trước hết tác phẩm báo chí phải phản ánh được hết
17
mực chân thực nhất và hoàn thiện nhất bức tranh xã hội của một thời và chân
dung của những số phận và tính cách khác nhau. Không cần đến những tô điểm
màu sắc mà sự thực điển hình, trần trụi từ cội nguồn, từ cuộc sống… Qua
những luận điểm trên, ta có thể rút ra kinh nghiệm rằng để có một bài báo nói
chung và một bài phân tích, bình luận trên báo in nói riêng đòi hỏi mỗi một nhà
báo, tác giả cần có cách viết nhạy bén trong thu thập thông tin, linh hoạt và tinh
tường trong quan sát và lựa chọn vấn đề để phản ánh. Và sự sáng tạo trong tác
phẩm báo chí là hết sức quan trọng, đó là cả một vấn đề mà mỗi tác giả phải
tích lũy và trau dồi không ngừng.
1.1.4 Phong cách chính luận báo chí
Chính luận là một thể loại báo chí, có nội dung phản ánh các vấn đề có
tính thời sự về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng… Cố nhà báo
Hoàng Tùng – cây bút viết chính luận báo chí tên tuổi của báo chí nước ta
nhấn mạnh rằng, “chính luận là hướng dẫn tư tưởng, suy nghĩ, phân tích tình
hình, sự kiện trên một dòng biến đổi, phát triển không ngừng. Người viết luận
phải nắm được đường lối chính sách, lý luận, am hiểu sâu công việc, phải
truyền sức sống vào những điều mình cho là nguyên lý” [3].
Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng, cách hiểu về chính luận hiện nay vẫn
chưa thật sự thống nhất ý kiến. PGS.TS. Lê Xuân Thại cho rằng: “Chính luận
là loại văn bản trình bày ý kiến về những vấn đề thời sự nóng hổi trong đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Chức năng của chính luận là thông
tin, tuyên truyền cổ động Tuyên truyền và cổ động là tác động vào trí tuệ,
tình cảm của người đọc, người nghe để mọi người hiểu, tin và làm theo” [47].
Bên cạnh đó, tài liệu của Thư viện tư liệu Giáo dục Lâm Đồng lại cho
rằng: “Chính luận là khái niệm chỉ một phong cách ngôn ngữ văn bản nhằm
trình bày những quan điểm chính trị của một đảng phái, đoàn thể, những
18
tuyên bố, tuyên ngôn của các nguyên thủ quốc gia, những bài xã luận nêu rõ
lập trường, quan điểm chính trị…” [50].
Chính vì vậy, quan niệm dưới đây được cho là “chuẩn mực” về khái niệm
chính luận báo chí: “Chính luận là một loại văn bản bàn luận đến các vấn đề
thời sự nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội thu hút sự quan tâm, theo dõi
của đông đảo công chúng đồng thời hướng công chúng có suy nghĩ đúng,
nhận thức đúng và hành động đúng”.
Trong cuốn “Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt”,
tác giả Hữu Đạt viết rằng, phong cách chính luận là phong cách được dùng để
bày tỏ thái độ, quan điểm của người viết (nói) về một vấn đề nào đó thuộc
lĩnh vực chính trị, xã hội nhằm lôi kéo người đọc (nghe) về phía mình, hành
động theo mình. Cũng theo tác giả, mục đích của phong cách chính luận là tạo
một loại văn bản có tác dụng lôi kéo được người tham gia giao tiếp. Trước kết
quả nghiên cứu phân chia phong cách chức năng tiếng Việt, đa phần đều đồng
thuận coi phong cách chính luận độc lập trong hệ thống 5 phong cách chức
năng bao gồm: Phong cách khẩu ngữ, Phong cách văn chương, Phong
cáchkhoa học, Phong cách hành chính, Phong cách chính luận [12].
Phong cách chính luận thuyết phục người đọc bằng những luận điểm, luận
cứ vững chắc, đồng thời cũng sử dụng những yếu tố tạo hình làm tăng thêm
sức thuyết phục. Chính vì vậy mà trong một số văn bản chính luận ta có thể
tìm thấy cái vẻ riêng của phong cách cá nhân từng tác giả. Có người viết rắn
rỏi, hùng hồn, có người viết trong sáng, chặt chẽ, có người viết sâu sắc, súc
tích, có người viết giản dị, thấm thía Không phải người viết chính luận nào
cũng có phong cách. Như vậy có thể khẳng định rằng, “phong cách chính
luận được dùng trong văn bản chính luận để bày tỏ chính kiến của tác giả về
một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực chính trị, xã hội nhằm tạo dư luận xã hội và
định hướng dư luận xã hội”.
19
1.2 Thể loại tiểu phẩm báo chí
a) Khái niệm và lịch sử phát triển của thể loại tiểu phẩm:
Trong lịch sử báo chí thế giới, người ta ghi nhận tiểu phẩm xuất hiện từ
hơn 200 năm trong thời gian diễn ra Cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp lần
thứ nhất – cuối thế kỷ 18. Tiểu phẩm (tiếng Pháp là Feuileton gốc ở từ Feuille
– nghĩa là tờ giấy rời) lúc bấy giờ là những bài văn ngắn, có tính chất châm
biếm, đăng trên những tờ phụ của số báo hoặc bên dưới dòng kẻ đậm ở cuối
các tờ báo.
Cũng như loại tác phẩm báo chí khác, tiểu phẩm ra đời do yêu cầu
khách quan của xã hội. Phẩm chất tiêu biểu tạo nên tính chiến đấu của tiểu
phẩm chính là cái cười. Khi mới ra đời, cái cười trong tiểu phẩm vạch mặt,
lên án bản chất xấu xa, sự lạc hậu, thối nát của chế đội xã hội phong kiến đã
mục ruỗng, suy tàn. Về sau, cái cười trong tiểu phẩm nhằm vào cái cũ, cái xấu
nói chung, kể cả những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ nhân dân. Cười là vũ
khí của kẻ mạnh!
Nhiều nhà văn, nhà báo lớn có tư tưởng tiến bộ ở Châu Âu trước đây,
đã sử dụng tiểu phẩm trên diễn đàn báo chí công khai để châm biếm, giễu cợt,
lên án sự thối nát, bất công của xã hội đương thời, những biểu hiện giả dối,
lừa bịp để thực hiện những mục tiêu chính trị vụ lợi, ích kỷ. Có thể thấy, từ
C.Mac, Ph.Angghen đến V.I.Lenin – những nhà lãnh tụ vĩ đại của giai cấp
công nhân thế giới, cũng đã sử dụng tiểu phẩm báo chí như một vũ khí sắc
bén trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp.
Trong các thể loại báo chí, tiểu phẩm được đánh giá là một thể loại tạo
sức hấp dẫn, phong phú trong cách làm báo. Vốn là một thể loại báo chí độc
lập, được thể hiện bằng bút pháp châm biếm và đả kích, tiểu phẩm ngày càng
chứng minh được vai trò vị trí của mình trong việc phản ánh xã hội. Với
20
những đặc trưng riêng, tiểu phẩm đã đi sâu vào việc phê phán, đả kích châm
biếm những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội
Tiểu phẩm là một thể loại nằm trong vùng giao thoa giữa văn học và
báo chí. Đó là thể loại kết hợp giữa những đặc điểm của văn học và những
đặc trưng của báo chí dưới hình thức ngắn gọn mang đến cho người đọc cách
cảm nhận nhẹ nhàng, sâu sắc và thâm thúy, thể hiện được tính chiến đấu của
tác giả. Trong báo chí, tiểu phẩm có dung lượng nhỏ và xuất hiện ít hơn so
với các thể loại khác: tin tức, phóng sự, bình luận v.v Nhưng với sự ra đời
và phát triển của mình, tiểu phẩm ngày càng khẳng định vai trò là một loại vũ
khí sắc bén, một phương tiện có tác dụng tự phê bình, góp phần giúp xã hội
phát triển tốt đẹp và tích cực hơn. PGS.TS. Dương Xuân Sơn cho rằng, “tiểu
phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận – nghệ thuật, mang tính văn
học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một
sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể
hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó” [20]. Với quan điểm này,
PGS.TS. Dương Xuân Sơn đã xếp tiểu phẩm đứng độc lập trong hệ thống thể
loại báo chí.
Từ điển “Bách khoa toàn thư” Liên Xô năm 1987 lại định nghĩa: “Tiểu
phẩm là một bài báo ngắn mang tính văn học được thể hiện bằng bút pháp
châm biếm, đả kích sự việc, sự kiện. Thông qua đó tác giả thể hiện quan điểm
của mình trước những sự kiện, sự việc xảy ra trong xã hội”. Vì vậy, tiểu phẩm
có nghĩa là tác phẩm nhỏ, có ngôn từ ít nhưng có sự lựa chọn, chắt lọc tạo nên
giá trị nội dung lớn. Theo từ điển tiếng Việt năm 2002, tiểu phẩm được định
nghĩa là “một bài báo ngắn về một vấn đề thời sự có tính chất châm biếm”.
Một nghĩa khác: “Tiểu phẩm là một màn kịch nhỏ có tính châm biếm đả kích
hài hước”.
21
Ở nước ta, do báo chí hình thành và phát triển chậm nên tiểu phẩm cũng
ra đời muộn hơn so với các nước phương Tây. Vào những năm 20, tiểu phẩm
đã bắt đầu xuất hiện trên mặt báo, tuy không nhiều và chưa tạo được sự chú ý
của dư luận xã hội. Trên thực tế, có lẽ phải đến những năm 30 của thế kỷ XX,
khi mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm mới thực sự khẳng
định vai trò vị trí của mình là một thể loại báo chí có uy lực. Đặc biệt trong thời
kỳ Mặt trận dân chủ (1936 – 1939), khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều
kiện phát triển công khai, tiểu phẩm thực sự mới có đất để cắm rễ và nở rộ.
Vào giai đoạn này, tác giả tiểu phẩm đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt sâu
đậm trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố (1892 – 1954). Có thể nói, các
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố làm thành một bộ biên niên sử của giai đoạn này,
trong đó phản ánh đầy đủ những biến cố chính trị quan trọng, phơi bày bộ mặt
thật sinh động và cụ thể của những kẻ thực dân tồi tệ, những tên quan trường
phong kiến thối nát. Sau đó, đầu những năm 20, Hồ Chí Minh dưới bút danh
Nguyễn Ái Quốc đã viết một loạt tiểu phẩm bằng tiếng Pháp. Trong giai đoạn
mới, những thế hệ tiếp theo viết thành công ở thể loại tiểu phẩm phải kể đến
các tác giả như: Vũ Quang Lưu, Hữu Thọ, Trần Đức Chính, Dương Huy,
Trần Dĩ Hạ, Vũ Ba Lan…
b) Tiểu phẩm báo chí:
Là kiểu loại tiểu phẩm có bề dày lịch sử khá lâu cũng như có vị trí
không kém phần quan trọng trong các thể loại báo chí, nhưng ở nước ta, việc
nghiên cứu tiểu phẩm vẫn chưa phát triển mạnh. Hiện vẫn chưa có nhiều công
trình nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ về tiểu phẩm. Các ý kiến về
tiểu phẩm nằm rải rác ở một số tác phẩm nghiên cứu của những nhà nghiên
cứu văn học, nhà nghiên cứu báo chí hoặc trong bài phát biểu của các nhà báo
có kinh nghiệm đăng tải trên các tờ báo, tạp chí.
22
Từ góc độ báo chí, tiểu phẩm chỉ được sử dụng với tần suất dày đặc
nhưng về mặt lý luận lại ít được xem xét và đánh giá. Xích Điểu, với kinh
nghiệm của một nhà báo viết tiểu phẩm báo chí nhận xét như sau: “Là thể loại
vừa cho phép phát triển tính chất điển hình của văn học, vừa mang tính chất
chân thật, khoa học và kịp thời của báo chí, tiểu phẩm vốn mang một tính
chiến đấu cao, có khả năng vạch bản chất tàn bạo của kẻ thù một cách trực
tiếp sâu cay, châm biếm làm cho người đọc vừa căm thù vừa khinh ghét cười
vào mũi chúng” [28].
Như vậy, theo ý kiến của Xích Điểu, cả về nội dung và phương pháp thể
hiện, tiểu phẩm đều mang những tính chất chiến đấu đặc trưng của tiểu phẩm
báo chí. Tính chất điển hình hóa của tiểu phẩm không được tạo nên do hư cấu
mà nó được hình thành theo quy luật sáng tạo của từng nhà báo, nghĩa là qua sự
chọn lọc, phân tích khách quan những sự kiện, vấn đề có thực trong cuộc sống
để phản ánh trong tác phẩm trên cơ sở ưu tiên nội dung chính trị, tư tưởng.
Tất nhiên, mỗi thể loại tác phẩm báo chí ra đời đều tiếp thu những yếu tố
tích cực, có lợi trong nền báo chí để làm tăng khả năng, thông tin hiệu quả của
nó. Tiểu phẩm báo chí trong quá trình ra đời vận động cũng tiếp thu các yếu
tố, thủ pháp châm biếm, giễu cợt của văn học và văn hóa dân tộc.
Hơn nữa, dù nhà văn hay nhà báo đều viết tiểu phẩm theo yêu cầu, “đơn
đặt hàng” của báo chí nhưng hầu như, không có tiểu phẩm nào không được
bắt đầu số phận của mình bằng sự có mặt trên mặt báo hay tạp chí. Như vậy,
rõ ràng là không có lý do tồn tại ranh giới giữa “tiểu phẩm báo chí” và “tiểu
phẩm văn học”, mà chỉ có một thể loại được gọi với những cái tên khác nhau
như “tiểu phẩm”, “tiểu phẩm báo chí” hay “tiểu phẩm văn học” và tính chất,
mức độ khả năng biểu hiện khác nhau của mỗi tiểu phẩm. Vấn đề đặt ra là cần
gọi tên thể loại này như thế nào cho hợp lý. Căn cứ vào nội dung và hình thức
thể hiện của các tiểu phẩm, căn cứ vào thực tế tiểu phẩm được công bố đến