Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Quảng bá văn hóa Việt Nam cho người Việt Nam ở nước ngoài qua kênh VTV4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.92 MB, 147 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ THANH THỦY



QUẢNG BÁ VĂN HÓA VIỆT NAM CHO NGƯỜI
VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI QUA KÊNH VTV4



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học



Hà Nội-2012

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ THANH THỦY



QUẢNG BÁ VĂN HÓA VIỆT NAM CHO NGƯỜI
VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI QUA KÊNH VTV4

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thanh Bình



Hà Nội-2012


5
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

1. CNHHĐH: Công nghiệp hóa hiện đại hóa
2. NVNONN: Người Việt Nam ở nước ngoài
3. THVN: Truyền hình Việt Nam
4. NGVN: Ngoại giao văn hóa
5. UBNNVNVNONN: Ủy ban nhà nước Việt Nam về người Việt Nam ở
nước ngoài



6
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 11
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 15
5. Đóng góp mới về khoa học đề tài 16
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 16
7. Kết cấu của luận văn 17
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢNG BÁ VĂN HÓA VIỆT
NAM 18
1.1. Một số khái niệm về văn hóa và quảng bá văn hóa Việt Nam 18
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa, truyền thống văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc 18
1.1.2. Đặc trưng văn hóa Việt Nam 24
1.1.3. Quảng bá văn hóa và các hình thức quảng bá văn hóa Việt Nam 28
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc quảng bá văn
hóa Việt Nam cho người Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.1. Một số vấn đề về người Việt Nam ở nước ngoài
1.2.1.1. Lịch sử hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.1.2. Báo chí và nhu cầu thông tin về tình hình đất nước, văn hóa
Việt Nam của cộng đồng NVNONN
1.2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc
quảng bá văn hóa Việt Nam cho người Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.2.1. Tầm quan trọng của việc quảng bá văn hóa Việt Nam cho
NVNONN
1.2.2.2. Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về việc
quảng bá văn hóa Việt Nam cho NVNONN

7
1.3.Vai trò của VTV4 trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam cho
NVNONN
1.3.1. VTV4 – Chương trình truyền hình dành cho cộng đồng

NVNONN
1.3.2. Vai trò của VTV4 trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam cho
NVNONN 48
Tiểu kết chương 1 50
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢNG BÁ VĂN HÓA VIỆT NAM
TRÊN VTV4 51
2.1. Khảo sát về số lượng, tần suất các chương trình giới thiệu, quảng bá về
văn hóa trên kênh VTV4. 51
2.1.1. Khảo sát số lượng các chương trình về văn hóa trên kênh VTV4 51
2.1.2. Khảo sát tần suất các chương trình có nội dung về bản sắc văn
hóa Việt Nam 54
2.2. Nội dung chương trình về quảng bá văn hóa Việt Nam trên VTV4. 58
2.2.1. Giới thiệu tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam, góp phần nâng
cao nhận thức, đáp ứng nhu cầu thông tin của NVNONN. 58
2.2.2. Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc VN trong cộng
đồng NVNONN 63
2.2.3. Tăng cường khối đại đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong
cộng đồng NVNONN. 67
2.2.4. Phát huy vai trò của cộng đồng NVNONN làm cầu nối, quảng bá
hình ảnh nền văn hoá độc đáo, đa dạng của Việt Nam với thế giới. 71
2.3. Hình thức phản ánh chương trình văn hóa trên VTV4. 74
2.3.1. Kết cấu chương trình VTV4 74
2.3.2. Về thể loại 77
2.3.3. Ngôn ngữ truyền hình 79
2.4. Một số nhận xét, đánh giá về nội dung, hình thức của chương trình 81
2.4.1. Tổng hợp ý kiến của khán giả VTV4 81

8
2.4.2. Ưu điểm và hạn chế của các tác phẩm trong việc giới thiệu,
quảng bá nền văn hóa Việt Nam trên VTV4. 85

2.4.2.1. Những ưu điểm 85
2.4.2.2. Những hạn chế 87
Tiểu kết chương 2 89
CHƯƠNG 3: KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH QUẢNG BÁ VĂN HÓA
DÀNH CHO NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI 91
3.1.Kinh nghiệm quảng bá văn hóa 91
3.2.Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc quảng bá văn hóa
Việt Nam 93
3.2.1. Đối với các cơ quan chức năng nhà nước 93
3.2.2. Đối với cơ quan báo chí 91
3.2.3. Đối với phóng viên, biên tập viên. 100
Tiểu kết chương 3 102
KẾT LUẬN 103

9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo ước tính hiện nay có khoảng hơn 4 triệu người Việt Nam đang
sinh sống và làm việc ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới.
Đó là một con số không nhỏ. Cũng như mọi cộng đồng dân cư khác, cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) có nhu cầu rất lớn được thu
nhận thông tin hàng ngày bên cạnh thông tin về tình hình quốc tế là những
thông tin về tình hình đất nước, quê hương. Dù ra đi dưới nhiều hoàn cảnh,
thời điểm khác nhau nhưng cộng động NVNONN vẫn luôn hướng về cội
nguồn, gìn giữ và phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc.
Nguyện vọng chung của tuyệt đại đa số NVNONN là ổn định cuộc
sống, hòa nhập và thành đạt trong xã hội, đồng thời tiếp tục củng cố và phát
triển cộng đồng giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc và đẩy mạnh
các hoạt động hướng về cội nguồn, cùng nhân dân trong nước tham gia tích

cực vào sự nghiệp xây dựng CNHHĐH đất nước. Tuy nhiên, tại một số nơi,
tính liên kết cộng đồng gắn bó tương trợ giúp đỡ nhau của người Việt Nam
chưa cao, thế hệ trẻ người VN được sinh ra và lớn lên ở nước ngoài có xu
hướng xa dần nguồn gốc dân tộc và những giá trị văn hóa VN, nhiều người
không nói được tiếng Việt, một số khác thậm chí có hành động đi ngược lại
với lợi ích của đất nước, của dân tộc. Do vậy, công tác thông tin đối ngoại
hiện nay đặc biệt là thông tin văn hóa tới cộng đồng NVNONN không những
đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tinh thần trong mối liên hệ với đất nước, mà còn
thông qua họ quảng bá một cách sinh động về hình ảnh văn hóa Việt Nam tới
bạn bè thế giới.
Nhận biết được nhu cầu đó, Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc luôn quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài; thường xuyên đề ra chủ trương, chính sách tích cực nhằm củng cố khối

10
đại đoàn kết dân tộc. Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị
về công tác đối với NVNONN khẳng định: “Người Việt Nam ở nước ngoài là
bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt nam, là
nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
nước ta với các nước”. Đồng thời nhấn mạnh: “Công tác đối với người Việt
nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn
dân. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương ở trong và
ngoài nước và toàn dân ta”. [14]
Là một trong những kênh thông tin riêng dành cho đồng bào nước
ngoài được xây dựng và hoạt động khá hiệu quả, sự ra đời của Kênh truyền
hình đối ngoại VTV4 chính là nhằm đáp ứng kịp thời việc đưa thông tin một
cách “chính thống”, nhanh nhạy, trung thực về mọi mặt đời sống xã hội của
Việt Nam đến với thế giới và NVNONN. Qua đó, giúp cho công đồng hiểu
một cách đầy đủ, chính xác hơn về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà

nước, những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới trên đất nước ta.
Đồng thời, với sứ mạng “Mang giá trị Việt ra khắp thế giới” VTV4 tôn vinh
nền văn hóa, lịch sử, đất nước, con người Việt Nam tới với thế giới, mà đặc
biệt là cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của VTV4 trong việc quảng
bá hình ảnh văn hóa Việt Nam tới với cộng đồng NVNONN, tác giả đã mạnh
dạn chọn và nghiên cứu đề tài “Quảng bá văn hóa Việt Nam cho người Việt
Nam ở nước ngoài qua kênh truyền hình VTV4” nhằm làm sáng tỏ hơn nữa
vai trò và tầm quan trọng của việc quảng bá văn hóa Việt Nam cho NVNONN
trên kênh VTV4. Cũng như tổng kết lại những ưu điểm và các mặt còn hạn
chế trong các chương trình về văn hóa trên VTV4.

11
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đối với cộng đồng NVNONN, Đảng ta đã khẳng định đây là một bộ
phận không tách rời, là nguồn lực quan trọng của các dân tộc Việt Nam và là
cầu nối hữu nghị, hợp tác có ý nghĩa của nhân dân Việt Nam với bạn bè quốc
tế. Chính vì vậy trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ
thị, nghị quyết, quyết định về vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài cũng như
công tác thông tin đối ngoại cho NVNONN. Đồng thời, cũng có nhiều cuốn
sách nghiên cứu về NVNONN như: “Về người Việt Nam định cư ở nước
ngoài” của tác giả Nguyễn Ngọc Hà, NXB TPHCM, 1990, “ Người Việt nam
ở nước ngoài” của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn, NXB Chính trị quốc gia
năm 1997 hay cuốn “ Người Việt ở nước ngoài không chỉ có Việt kiều” Trần
Trọng Đăng Đàn, NXB Chính trị quốc gia năm 2005. Dựa trên công tác khảo
cứu về người Việt Nam ở nước ngoài theo từng vùng kiểu cư: Tây Âu, Bắc
Mỹ, Liên Xô trước đây và Đông Âu ; theo từng nhóm người: trí thức, sinh
viên, doanh nghiệp, văn nghệ sĩ, lao động… Những công trình này đã nghiên
cứu một cách công phu với hệ thống tư liệu phong phú, sinh động đề cập đến
nhiều vấn đề trên các mặt, các lĩnh vực khác nhau trong đời sống kinh tế,

chính trị, tư tương, văn hóa, xã hội…của NVNONN. đưa ra cái nhìn tổng quát
về đời sống, những đặc trưng cá nhân, đặc trưng văn hóa của cộng đồng
NVNONN.
Nghiên cứu về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác đối với NVNONN đã có một số đề tài, đề án như: Đề tài cấp
bộ về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới
giai đoạn từ nay đên 2020 vì sự nghiệp phát triển đất nước” năm 2007 của Ủy
ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài; Đề tài luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Bảo Chung, Học viện Ngoại giao năm 2008 về “Chính sách của Việt
Nam đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ đổi mới”. Đặc biệt

12
là bài viết của Thứ trưởng Ngoại giao, chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về
NVNONN Nguyễn Thanh Sơn về “Kết quả 6 năm triển khai Nghị quyết
36/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác đối với NVNONN” đã đánh giá
những kết quả đạt được trên cả ba lĩnh vực: thông tin tuyên truyền, xây dựng
chính sách và vận động cộng đồng. Trong đó, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn
đã nhấn mạnh về vai trò quảng bá văn hóa Việt Nam và gìn giữ bản sắc văn
hóa dân tộc trong cộng đồng NVNONN là việc vô cùng quan trọng, đặc biệt
là trong giai đoạn toàn cầu hóa thông tin hiện nay [30].
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện những công trình nghiên cứu
cụ thể về tình hình báo chí dành cho NVNONN. Có thể kể đến một số công
trình như sau: “Truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại của
Việt Nam hiện nay” của TS. Phạm Minh Sơn và TS. Nguyễn Thị Quế, NXB
Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2009; Đề tài cấp Bộ “ Đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới” của
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW (nay là Ban tuyên giáo TW), năm 2007, “ Báo
chí và ngoại giao” do TS Dương Văn Quảng biên soạn, NXB Thế Giới năm
2002…tập trung nghiên cứu về công tác thông tin đối ngoại nói chung trên
các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong nghiên cứu của TS Dương

Văn Quảng đã khẳng định vai trò quan trọng của thông tin đối ngoại đối với
công tác quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt Nam ra thế
giới. Tác giả cũng đã chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và rút ra bài học
kinh nghiệm trong công tác thông tin đối ngoại cho NVNONNN trên các
phương tiện truyền thông đại chúng.
Ở phạm vị hẹp hơn, tập trung làm rõ vai trò của kênh truyền hình đối
ngoại VTV4 trong công tác chuyển tải thông tin tới kiều bào ở nước ngoài
cũng đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả như:

13
Khóa Luận “ Công tác biên tập các chuyên mục dành cho người Việt
Nam ở nước ngoài trên kênh VTV4 – Đài THVN” của tác giả Hoàng Hồng
Hạnh, khoa Báo chí – Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Thông qua khảo sát
hai chuyên mục “Gặp gỡ khán giả VTV4” và “Kết nối cộng đồng”, tác giả tập
trung nghiên cứu về công tác biên tập các chuyên mục dành cho NVNONN
của các phóng viên, biên tập viên và đưa ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng biên tập nội dung các chuyên mục trên VTV4.
Với đề tài “Nâng cao hiệu quả chương trình thời sự đối ngoại của Đài
Truyền hình Việt Nam” trong luận văn thạc sỹ báo chí, tác giả Đào Huy Hoàng
đã đi sâu vào nghiên cứu các bản tin thời sự bằng tiếng nước ngoài phát trên
kênh VTV1, VTV2 và VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra
nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng là NVNONN. Từ đó nhấn mạnh vai
trò của các bản tin, đặc biệt là các bản tin thời sự trên VTV4. Được phát sóng
bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng Anh, Pháp, Trung…các bản tin thời
sự của VTV4 là chiếc cầu nối hơn 4 triệu kiều bào đang sinh sống, học tập và
làm việc tại nước ngoài với các sự kiện thời sự, chính trị, văn hóa ở trong nước.
Ngoài ra, Đề án “Nâng cao chất lượng kênh truyền hình VTV4” của
Ban tuyền hình đối ngoại – Đài THVN, đánh giá những hoạt động nổi bật của
VTV4 cũng như những hạn chế còn tồn đọng, từ đó đề án cũng đã đưa ra
phương hướng, chiến lược tổng quát phát triển dài hạn của VTV4 trong giai

đoạn mới.
Tuy nhiên, về đề tài quảng bá văn hóa cho đối tượng là NVNONN thật
sự chưa có nhiều đề tài đi sâu về vấn đề này. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu như:
Luận văn “ Công tác thông tin văn hóa phục vụ cộng đồng NVNONN
trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp” của tác giả Hồ Thị Bích
Ngọc khoa Báo chí – Học viên Báo chí và Tuyên truyền. Trong luận văn này,

14
tác giả đã khảo sát thực trạng công tác thông tin văn hóa trên cả 3 loại hình
báo chí : Báo in, báo điện tử và Truyền hình (Kênh VTV4, Hệ phát thanh đối
ngoại VOV5, Tạp chí Quê hương điện tử). Trong tiết 2.2.3. của luận văn
“Thực trạng thông tin về bản sắc văn hóa Việt Nam”, tác giả đã có khảo sát và
có sự so sánh về nội dung văn hóa Việt Nam đăng tải trên ba phương tiện
truyền thông. Tuy nhiên, luận văn chưa phân tích chuyên sâu nội dung
chương trình về văn hóa cũng như nghiên cứu về hiệu quả trên kênh VTV4
đối với NVNONN.
Trong buổi Hội thảo “ Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam
trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững” được
tổ chức vào tháng 10/2008, đã có một số bài phát biểu ít nhiều cũng đã đề cập
tới công tác thông tin văn hóa trên các phương tiện thông tin đại chúng như:
“Vai trò của truyền thông trong công tác Ngoại giao Văn hóa” của tác giả
Bạch Ngọc Chiến, Quyền Trưởng ban VTV4, Đài Truyền hình Việt Nam;
“Xu hướng văn hóa-truyền thông thế giới tác động đến báo chí, ngoại giao
văn hóa quốc tế đương đại và khuyến nghị cho Việt Nam” của PGS.TS. Lê
Thanh Bình, Trưởng Khoa Truyền thông và Văn hóa Đối ngoại, Học viện
Ngoại giao; “Thúc đẩy quảng bá hình ảnh Việt Nam thông qua cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài” Vụ Thông tin-Văn hóa, Uỷ ban nhà nước về
người Việt Nam ở nước ngoài. Các bài viết đã đưa ra cái nhìn tổng quát về
vai trò của truyền thông trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam, cũng như một

số giải pháp thúc đẩy quảng bá văn hóa Việt Nam tới NVNONN.
Và mới đây nhất là công trình luận văn thạc sỹ báo chí của tác giá Lý
Thị Hải Yến với đề tài “ Kênh VTV4, báo trực tuyến và công chúng người
Việt Nam ở nước ngoài” đã nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về nhu
cầu tiếp nhận của công chúng NVNONN ( cụ thể ở Hàn Quốc, Nga, Mỹ), chỉ
ra sự quan tâm của công chúng với các vấn đề trong nước để truyền tải, đồng

15
thời luận văn cũng đã đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông
tới đối tượng là NVNONN.
Đây là những tài liệu hết sức quý giá cho công trình nghiên cứu về quảng
bá hình ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa thật sự có 1 đề tài nào đi
sâu vào nghiên cứu thực trạng hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam trên
kênh VTV4. Vì vậy, đề tài mong muốn làm rõ hơn các kết quả của các nghiên
cứu trước đó và phát hiện một số vấn đề mới phục vụ cho công tác quảng bá
hình ảnh văn hóa Việt Nam tới cộng đồng NVNONN.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn chương
trình truyền hình dành cho NVNONN của kênh truyền hình VTV4. Qua đó
rút ra những ưu nhược điểm của các chương trình, đề xuất kiến nghị một số
giải nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình truyền hình phù hợp
với đối tượng công chúng là NVNONN.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Khảo sát, tổng hợp, phân tích giá chất lượng hiệu quả
của các chương trình truyền hình về văn hóa dành cho NVNONN trên sóng
VTV4, Đài THVN. Khảo sát hoạt động nghề nghiệp của những người tham gia
vào quy trình tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình dành cho
NVNONN; tổng kết, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Chương trình quảng bá văn hóa Việt
Nam cho NVNONN trên kênh truyền hình VTV4
Phạm vi nghiên cứu: là một số chương trình văn hóa trên kênh VTV4,

trong đó đi sâu nghiên cứu các chuyên mục: Văn hóa Việt, Du lịch và ẩm
thực, Văn hóa - Hội nhập, Dạy tiếng việt trên Truyền hình từ tháng 5 năm
2011 đến tháng 5 năm 2012.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

16
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác –Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước ta về công tác thông tin đối ngoại; một số lý thuyết về thông tin đối
ngoại, ngoại giao văn hóa trong thời kỳ mới.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp phân tích tài liệu: đọc, tìm hiểu và phân tích tài liệu có liên
quan tới NVNONN, nghiên cứu văn kiện, nghị quyết chính sách của Đảng và
Nhà nước trong việc thông tin văn hóa trên các phương tiện truyền thông đại
chúng tới NVNONN
Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn, trao đổi với một số cán bộ trực tiếp
tham gia hoạt động văn hóa đối ngoại, một số phóng viên, biên tập viên trực
tiếp sản xuất biên tập các chương trình trên kênh truyền hình VTV4
Phương pháp quán sát và khảo sát: Tác giả đã quan sát, phân tích thời
gian, số lượng các chương trình liên quan đến văn hóa được phát trên kênh
VTV4, trong đó nghiên cứu sâu về một số chương trình trong phạm vi khảo
sát: Văn hóa Việt, Du lịch và ẩm thực, Văn hóa - Hội nhập, Dạy tiếng việt
trên Truyền hình.
5. Đóng góp mới về khoa học đề tài
Làm rõ vai trò, vị trí tầm quan trọng của các chương trình văn hóa dành
cho NVNONN phát sóng trên VTV4 của Đài THVN trong hệ thống thông tin
đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng chất lượng cả về nội dung và
hình thức thể hiện của các chương trình truyền hình văn hóa dành cho
NVNONN trên VTV4 một cách tương đối toàn diện, có hệ thống.

Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình
truyền hình dành cho đối tượng công chúng là NVNONN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.

17
Trên cơ sở tổng hợp, khảo sát ý kiến khán gải qua thư điện tử gửi về
chương trình nhằm rút ra những kinh nghiệm thực tiễn và một số vấn đề lý
luận nhằm nâng cao chất lượng các chương trình trên VTV4 nói chung, các
chương trình thông tin về văn hóa Việt Nam nói riêng.
Làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong việc hoạch định những
chính sách và xây dựng quy trình sản xuất phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
chương trình truyền hình dành cho NVNONN.
Làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp và sinh viên báo chí
7. Kết cấu của Luận Văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quảng bá văn hóa Việt Nam
Chương 2: Thực trạng quảng bá văn hóa Việt Nam trên kênh truyền hình
VTV4 – Đài truyền hình Việt Nam
Chương 3: Kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng
hiệu quả chương trình quảng bá văn hóa Việt Nam dành cho người VNONN













18
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ VĂN HÓA CỦA QUẢNG BÁ VĂN HÓA
VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm về văn hóa và quảng bá văn hóa Việt Nam
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa, truyền thống văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc
Dù có ý thức hay vô thức, con người đã tạo ra cho mình một môi
trường văn hóa ngay từ buổi sơ khai của loài người: đó là quan hệ giữa người
với người trong một cộng đồng, quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong
hoạt động đấu tranh sinh tồn và chinh phục thiên nhiên. Chính nền “văn hóa”
buổi sơ khai ấy đã tạo nên môi trường sống của con người, do vậy có thể nói,
văn hóa là thuộc tính lớn nhất của loài người, là biểu tượng về sức mạnh và
giá trị của con người.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa lại phản ánh
một cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân
học người Mỹ là A.Kroeber và C.Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định
nghĩa về văn hóa trong cuốn sách có nhan đề: “ Văn hóa – tổng luận phê phán
các quan niệm” (Culture: a critical review of concepts and definitions) để thấy
cách hiểu về văn hóa khá rộng lớn, liên quan đến mọi mặt đời sống và tinh
thần của con người. 50 năm sau, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thế
giới (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: Văn hóa nên được đề cập đến như là
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, trí thức và xúc cảm
của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn
hóa và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức, chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và đức tin. Thông qua định nghĩa này, ta nhận thấy rõ đặc trưng
cơ bản nhất của một nền văn hóa là sự khác biệt của nó với một nền văn hóa
khác, mà dựa vào sự khác biệt đó người ta có thể nhận ra toàn bộ nền văn hóa

hay một cá nhân bất kỳ trong nền văn hóa ấy.

19
Về mặt thuật ngữ khoa học Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh
“Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng được dùng theo nghĩa Cultus Agri là
"gieo trồng ruộng đất" và Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự
giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người".
Theo tự điển của Viện Hàn lâm Pháp, từ “văn hóa” được định nghĩa là:
“Toàn bộ những thủ đắc về văn chương, nghệ thuật, thủ công nghiệp, kỹ
thuật, khoa học, phong hóa, luật lệ, cơ chế, tục lệ, truyền thống, những cách
suy nghĩ và những cách sống, những cách ứng xử thuộc mọi lãnh vực, những
lễ nghi, những thần thoại và tin tưởng tạo nên một di sản cộng đồng và cá
tính của một nước, một dân tộc hay một sắc dân, một quốc gia”.
Tại Việt Nam, ngay từ những thập niên khởi đầu xây dựng Văn học
Quốc Ngữ của Việt Nam, nhà sử học Đào Duy Anh đã hiện ra như một học
giả với tác phẩm giáo khoa uy tín từ năm 1938: “Việt Nam Văn Hoá sử
cương”. Ngay trang đầu, theo lối tác phẩm tư tưởng Âu Mỹ, ông xác định từ
ngữ “Văn hóa là gì”, và theo ông Văn hóa tức là sinh hoạt “Văn hoá chính là
toàn bộ sinh hoạt của con người đối với môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội để tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần” [1, tr.11].
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời cũng đã rất chú trọng tới
vai trò của văn hoá đối với sự phát triển xã hội. Bắt đầu từ đề cương văn hoá
của Đảng và bắt đầu từ định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hoá, lĩnh vực độc
đáo này đã được nhận thức theo nghĩa rộng nhất: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” [24, tr. 431]
Trong định nghĩa của Hồ Chí Minh, đặc trưng quan trọng nhất của văn
hoá chính là sáng tạo và phát minh, cụm từ đã được nhấn mạnh tới 2 lần. Nội


20
hàm của sáng tạo và phát minh là “tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc
tinh thần” và “tìm ra cái có ý nghĩa, có giá trị lớn cho khoa học và loài người”
[30]. Như vậy sản phẩm sáng tạo của con người có mặt trong toàn bộ đời sống
xã hội, nhưng quan trọng nhất là những giá trị tinh thần do con người sáng tạo
ra. Những giá trị đó làm nên cốt lõi, làm nên bản sắc văn hoá của dân tộc.
“Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất
của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và
phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý
thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu để tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [18, tr.18]
Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hoá, PGS, TSKH Trần Ngọc
Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hóa là một hệ thống
hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người, loài người sáng tạo,
tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong suốt quá trình lịch sử của mình”
[32,tr. 25]. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hoá:
Tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh.
Từ những định nghĩa trên có thể khẳng định rằng: văn hóa là sản phẩm
của con người được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc tới lao
động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa
mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác và do được chi
phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc
người sẽ có những đặc trưng riêng.
Như vậy có thể thấy rằng Văn hóa là một khái niệm rộng, phức hợp, đa
nghĩa, cho nên đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa theo nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau. Nhưng tất cả các định nghĩa đều nhấn mạnh văn hóa là
sản phẩm hoạt động có định hướng của con người, gắn với cộng đồng dân tộc,


21
có hệ giá trị được vun bồi, chắt lọc, nâng cao qua nhiều thế hệ, nên vừa gắn với
truyền thống vừa gắn với thời đại. Do vậy, văn hóa không đứng ngoài phát
triển, nó nằm bên trong sự phát triển, là yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu
của sự phát triển. Mọi quá trình phát triển đều bao hàm nội dung văn hóa.
Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên và văn hóa là sản phẩm
đặc sắc nhất của con người tạo ra trong quá trình lao động. Có thể nói văn hóa
là sự hóa thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, nó xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã
hội, văn minh quốc gia, văn minh nhân loại. Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn
minh cao hay thấp đều có những văn hóa truyền thống đặc trưng riêng của
mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất
được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên bản sắc riêng của một dân
tộc. Giá trị văn hóa truyền thống đó được truyền lại cho thế hệ sau và trở
thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước.
Vậy, truyền thống văn hóa là gì? Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm
cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những
kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và
tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dưới dạng
những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…” [ 34, tr. 35]
Truyền thống văn hóa dân tộc được coi là yếu tố nội sinh cơ bản của sự
phát triển của một dân tộc của một quốc gia, một cộng đồng. Thông qua
truyền thống văn hóa của một dân tộc, sức mạnh cội rễ của một dân tộc, ý
thức dân tộc, sức mạnh tinh thần của văn hóa, của một dân tộc sẽ được lưu
giữ, truyền lại và phát triển. Các quốc gia, các dân tộc trên thế giới đều có
nguồn gốc giống nhau song không thể có nền văn hóa dân tộc giống nhau
được. Các đặc điểm riêng của các nền văn hóa dân tộc được xác định một
cách tương đối nhờ các yếu tố sau:
- Hoàn cảnh địa lý, tự nhiên xã hội


22
Hoàn cảnh địa lý, tự nhiện đã tạo ra các sản phẩm văn hóa dân tộc
không thể đồng nhất, cũng như các điều kiện về tâm lý, tính cách và các hoạt
động sáng tạo khác nhau, mặc dù chủ thể của những hoạt động ấy cũng là do
con người.
- Con đường vận động phát triển của các dân tộc khác nhau
Truyền thống văn hóa được tạo dựng và từng bước phát triển của lịch
sử dân tộc, ghi nhận những giá tri sáng tạo văn hóa của các thế hệ dân tộc ấy
trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với nhau và phù hợp với môi
trường thiên nhiên. Nó bắt nguồn từ bản sắc văn hóa, từ bản chất tinh thần của
con người, của dân tộc, kế thừa và phát huy những tinh hoa của dân tộc, bổ
sung cải tiến những giá trị tinh hoa văn hóa mới vào kho tàng văn hóa dân
tộc. Chính những yếu tố này làm nên tính đặc sắc của truyền thống văn hóa
dân tộc và cũng chứng tỏ sức sáng tạo của dân tộc ấy.
Không có một mẫu số chung nhất định, không phải các dân tộc trên thế
giới đều phát triển như nhau. Vì vậy, văn hóa dân tộc là một bộ phận của văn
hóa nhân loại. Nền văn hóa dân tộc trên thế giới góp phần làm nên sự phong
phú, đa dạng của văn hóa nhân loại. Tùy thuộc vào những đặc điểm riêng trong
lịch sử, xã hội của mỗi dân tộc, văn hóa dân tộc sẽ có bộ mặt riêng phản ánh
trình độ phát triển của dân tộc đó trong những hoạt động cũng như trong mọi
sản phẩm của lao động sáng tạo. Về vấn đề này, tổng thư ký UNESCO đã phát
biểu: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động và tổng quát về mọi
mặt của đời sống (của một cá nhân hay của một cộng đồng) diễn ra trong quá
khứ cũng như diễn ra trong hiện tại qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên
một hệ thống các giá trị truyền thống, thẫm mỹ lối sống mà dựa trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [ 9, tr. 28]. Trong đó, bản sắc
văn hóa dân tộc là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của một cộng đồng văn hóa
trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.

23

"Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận
khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là
cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu
hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Thuật ngữ bản sắc
thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc. Nói đến dân tộc là nói đến
văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói đến dân tộc, bản sắc dân
tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất
của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được
biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa [ 9, tr. 45].
Bản sắc văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống – ý thức của
một cộng đồng, bao gồm : cội nguồn, cách tư duy, cách sống, dựng nước, giữ
nước, sáng tạo văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá
là yếu tố mang sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những thử
thách của lịch sử. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và có những giải pháp
cụ thể trong quá trình phát triển.
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc
dân tộc. Và yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa. Mỗi
dân tộc đều có một nền văn hóa bản sắc riêng. Không phụ thuộc hẳn vào số
dân và diện tích, giá trị văn hóa được hình thành và phát triển với nhiều
nhân tố, lịch sử nguồn cội dân tộc, dân trí, ngôn ngữ, ý thức thẩm mỹ. Dấu ấn
của dân tộc in đậm nét trong bản sắc văn hóa và chính những giá trị văn hóa
góp phần trực tiếp làm nên sự bên vững của dân tộc. Chính vì vậy, bản sắc
văn hóa dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội sinh, là cái thẻ căn cước của
mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó nó có thể biểu

24
lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình trong quá trình giao lưu và
hội nhập.

1.1.2. Đặc trưng văn hóa Việt Nam
Nhà nghiên cứu ngôn ngữ - văn hoá Trần Ngọc Thêm đã lý giải: “Bởi
văn hoá là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi
sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa
lý- khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) quy định” [35; tr.36]. Với cách nhìn
như vậy, tác giả đã lần tìm ra mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối giữa các mặt,
theo thứ tự: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh tồn - nghề nghiệp - đời sống -
tâm lý, quan niệm…với văn hoá; trong đó, tự nhiên - môi trường là xuất phát
điểm. Hai điều kiện môi trường tự nhiên của phương Tây và phương Đông
khác nhau đã làm thành hai nền văn hoá với những đặc trưng khác nhau.
- Phương Tây: khí hậu lạnh, khô - có vùng đồng cỏ - thích hợp chăn
nuôi - tạo nên lối sống du cư - có tâm lý coi thường, có tham vọng chinh phục
tự nhiên - lối tư duy thiên về phân tích - trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ,
trọng nam; có tính nguyên tắc và quân chủ, trọng cá nhân - có tính độc tôn,
cứng rắn, hiếu thắng… => Văn hoá trọng động (gốc du mục).
- Phương Đông: khí hậu nóng, ẩm - có nhiều đồng bằng - thích hợp
nghề trồng trọt - tạo nên lối sống định cư - có tâm lý tôn trọng, hoà hợp với tự
nhiên - lối tư duy thiên về tổng hợp, biện chứng - trọng tình, trọng đức, trọng
văn, trọng nữ; có tính dân chủ, trọng cộng đồng - có tính dung hợp, mềm dẻo,
hiếu hoà… => Văn hoá trọng tĩnh (gốc nông nghiệp).
Trong sự phân chia trên, điển hình của văn hoá mang đặc trưng gốc
nông nghiệp phương Đông là Đông Nam Á, tạo thành không gian văn hoá
vùng Đông Nam Á. Việt Nam là một đất nước có khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều; có nhiều vùng đồng bằng và sông nước, với nghề nghiệp trồng lúa
nước là chủ yếu… Như thế, Việt Nam chính là nơi hội tụ ở mức đầy đủ

25
nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực. Việt Nam là một Đông Nam Á
thu nhỏ, vì vậy từ trong cội nguồn không gian văn hoá Việt Nam được định
hình trên nền không gian văn hoá khu vực Đông Nam Á tiền sử [35; tr.60-

61]. Đó là nhân tố đầu tiên và cũng là nhân tố làm nên đặc trưng gốc của
văn hoá Việt Nam.
Với vị trí địa lý giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển
lịch sử - xã hội của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao
lưu văn hóa rộng rãi, sớm tiếp xúc với các nước khác- tức cũng là các nền văn
hoá khác, như Trung Hoa, Ấn Độ (từ rất sớm), sau đó là tiếp xúc với văn hoá
phương Tây…Trong bối cảnh đó, dù sớm hay muộn, dù nhiều hay ít, văn hoá
Việt Nam cũng đã có những ảnh hưởng nhất định và đã tiếp nhận các nền văn
hoá này ở những mức độ khác nhau, đặc biệt là với văn hoá Trung Hoa. Đây
là nhân tố thứ hai, góp phần làm nên đặc trưng văn hoá Việt Nam.
Tuy vậy, với điều kiện môi trường tự nhiên khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, với một không gian xã hội được định hình rất sớm, nên đặc trưng gốc
văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn bảo lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt
chiều dài không gian và thời gian dân tộc Việt; và đây chính là đặc tính trội
nhất khi nói về bản sắc văn hoá Việt Nam, về lịch sử dân tộc Việt Nam.
Hình thành trên nền của văn hóa bản địa Nam Á và Đông Nam Á, trải
qua hàng ngàn năm giao lưu với văn hóa khu vực, văn hoá Việt Nam dù tiếp
thu với nhiều nền văn hoá khác, nhưng vẫn mang bản sắc riêng thống nhất
trong đa dạng của 54 dân tộc, với phổ hệ xã hội là gia đình, làng xã và đất
nước; với hoàn cảnh thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm; với tinh thần
đoàn kết, gắn bó cộng đồng, trọng tình, ứng xử mềm dẻo, khoan dung hòa
hiếu, hướng tới sự hài hòa…Tất cả là nét tâm lý chủ đạo và đồng thời cũng là
bản sắc văn hóa Việt Nam. Nghị quyết TW5 (khóa VIII) khẳng định “Bản sắc
dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các

26
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường
của dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình,
làng xã, Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính

cần cù, sang tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống” (Văn kiện Hội nghị TW5 khóa VIII, tr 56).
Bản sắc dân tộc biểu hiện trước hết ở tính dân tộc của văn hoá bởi văn
hoá phát sinh và phát triển trong chính đời sống của cộng đồng dân tộc, gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc, làm nên sức sống và
diện mạo của văn hoá dân tộc, làm nên bản sắc văn hoá.
Cội rễ của nền văn hóa dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ cuộc đấu
tranh anh dũng của toàn dân tộc trong quá trình dựng nước, bảo tồn giống nòi
và giữ vững nền độc lập dân tộc. Đây là điều khác biệt của nền văn hóa dân
tộc Việt Nam so với nhiều nền văn hóa dân tộc khác có nguồn gốc hình thành
từ cuộc sống lao động sản xuất trong điều kiện hòa bình. Những truyền thống
lịch sử đó được lưu truyền qua các thế hệ người Việt tạo nên cốt cách riêng
của nền văn hóa dân tộc ta. Giáo sư Hà Minh Đức cũng đã từng phát khẳng
định “Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm phát triển lịch sử đã tạo nên
một nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc. Tuy chịu ảnh hưởng của văn hóa vùng,
nhất là văn hóa Trung Quốc, nhưng văn hóa Việt Nam như một dòng chảy
giàu sức sống, không bị đồng hóa và là yếu tố nội sinh, là một động lực cho
sự phát triển xã hội”. [13,]
Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, con người Việt Nam. Xét về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời
dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ

27
nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của bản sắc văn
hoá dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của
văn hoá dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở
tinh thần đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm,
giữ gìn đạo lý. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã góp phần làm nên một

đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Ở một vùng địa lý của cư dân
trồng lúa nước giữa trung tâm của khu vực Đông Nam Á, dân tộc ta đã làm
nảy sinh và hình thành và phát triển một nền văn hóa giàu tính nhân văn, một
bộ phận quan trọng của hình ảnh đất nước Việt Nam phong phú giàu đẹp.
Hệ giá trị văn hoá Việt Nam là bản sắc văn hoá Việt Nam, do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo nên, được sàng lọc và tích luỹ trong
chiều dài lịch sử của những cuộc đấu tranh sinh tồn để dựng nước và giữ
nước, kết tinh trí tuệ và tình cảm, quan niệm đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ
của cả cộng đồng dân tộc. Và bản sắc văn hoá dân tộc không phải là cái
ngưng đọng, bất biến mà luôn phát triển một cách biện chứng theo xu hướng
tích lũy, thu nạp những điều tốt đẹp, tiến bộ, sa thải cái xấu, cái lạc hậu không
phù hợp với thời đại. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử văn hoá Việt Nam đã
vượt qua thế bị động để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu thêm
bản sắc của mình.
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa tộc người, nhưng lại là một
nền văn hóa thống nhất. Văn hóa Việt Nam có truyền thống lâu đời, giàu sắc
thái, mang tính đa dân tộc, biểu hiện toàn bộ đời sống xã hội, từ ngôn ngữ, tôn
giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, hành vi, lối sống. Trong cái mẫu chung
của nền văn hóa Việt nam, có những diện mạo văn hóa riêng của mỗi dân tộc,
mối tộc người được phân bố theo các vùng địa lý khác nhau. Có thể thấy rằng
bản sắc địa phương hòa đồng trong bản sắc dân tộc đã tạo ra một nền văn hóa
truyền thống của Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng.

×