Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 208 trang )


i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THỊ PHÚC AN



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM



LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC










HÀ NỘI

ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THỊ PHÚC AN



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số : 62 31 27 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn


HÀ NỘI – 2013

v
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU……………………………………………………………… 1
Chương 1: CỨU NƯỚC VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC THEO CON
ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN ………………………………………… 24
1.1. Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước và giải phóng dân
tộc…………………………………………………………………………… 24
1.1.1. Giá trị văn hoá truyền thống với việc hình thành tư tưởng cách
mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh ………… ………………… 24
1.1.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển biện chứng nguồn tư tưởng, văn
hoá của thế giới…………………………………………………………… 33
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cứu nước và giải phóng dân tộc theo
con đường xã hội chủ nghĩa… ………………………………………… 51
1.2.1. Chủ nghĩa xã hội - xu thế phát triển của nhân loại…………. 51
1.2.2. Chủ nghĩa xã hội – con đường cứu nước và mục tiêu phát triển dân
tộc của Hồ Chí Minh ……………………………………………………… 62
Tiểu kết chương 1…………………………………………………… 77
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM… 80
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ……………… 80
2.2. Bước đi của một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ………………….………………… 88
2.3. Nội dung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 99
2.4. Biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .……… 128

vi
Tiểu kết chương 2…………………………………………………… 134
Chương 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG VÀ PHÁT
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI …………………………………………………………. 136
3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới ………………………………. 136

3.1.1. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III – 1960………………………………………………………136
3.1.2. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV và sự điều chỉnh của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V………. 140
3.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) … 149
3.2.1. Về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội…………………………… 149
3.2.2. Về bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội…………………………. 158
3.2.3. Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ……………… 162
3.3. Khái quát những chuyển biến trong nhận thức của Đảng về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh ………… 167
3.3.1. Trong lĩnh vực kinh tế …………………………………………168
3.3.2. Trong lĩnh vực chính trị, xã hội ………………………………. 177
Tiểu kết chương 3………………………………………………… 184
KẾT LUẬN………………………………………………………… 186
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN………………………………………………… 190
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… 191

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh

là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt
xuất Việt Nam. Khát vọng mà suốt cuộc đời Người luôn hướng tới là giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân

ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”[111, tr. 187]. Khát vọng của Người cũng chính là khát vọng của tất cả
mọi người dân yêu nước, là mục tiêu của cách mạng, của dân tộc Việt Nam.
Với Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[111, tr. 64]. Dân chúng chỉ cảm nhận được giá
trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành để
phát triển, có hiểu biết để thực hành quyền dân chủ, quyền và nghĩa vụ của
người công dân. Chỉ có gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, từ đánh
thắng đế quốc thực dân, phong kiến mà tiến tới xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, ra
sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống quan liêu, lãng
phí, tham ô, đánh thắng cả giặc ngoại xâm lẫn giặc nội xâm thì mới có được sự
phát triển thực sự hài hòa giữa cá nhân với xã hội. Do đó, theo Hồ Chí Minh,
sau khi đấu tranh giải phóng dân tộc phải đưa đất nước đi theo con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa
1
, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, trong đó mọi người
đều được ấm no, hạnh phúc, tự do, bình đẳng. Vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản


Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi, bí danh, bút danh khác nhau. Trong Luận án chúng tôi sử dụng thống
nhất tên Người qua các thời kỳ là Hồ Chí Minh.
1
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng xã hội nhằm chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. (Tất cả các
khái niệm chú thích trong Luận án được trích từ cuốn Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa
Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, 2, 3, 4, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt
Nam, Hà Nội.)

2
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn

gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”[108, tr. 496].
Trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, xuất
phát từ tình hình thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ con đường
cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
2
, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
3
, đi dần lên chủ nghĩa xã hội. Con đường
này là một kiểu quá độ gián tiếp rút ngắn, tức là quá độ từ một nước thuộc
địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó, Người
đưa ra một hệ thống các luận điểm về chủ nghĩa xã hội, về cách thức xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế lạc hậu và lãnh đạo nhân
dân Việt Nam xây dựng đất nước theo con đường mà Người đã lựa chọn.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mô hình xã hội chủ nghĩa Xôviết nên trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới (trước tháng
12/1986), nhiều quan điểm mà Hồ Chí Minh đưa ra trước những năm 60
không được thực hiện, không được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và
phát triển trong thực tiễn. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở thời kỳ này. Đánh giá đúng tầm quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh mà đặc biệt là tư tưởng của Người về chủ

2
Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập
dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và thành lập nhà nước dân tộc.
3
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là loại hình đấu tranh dân tộc và giai cấp ở các nước phụ thuộc,
thuộc địa và nửa thuộc địa. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó là đánh đổ chế độ thống trị của thực dân giành

lại quyền độc lập cho dân tộc, xóa bỏ mọi tàn tích của chế độ phong kiến (và tiền phong kiến) đem lại ruộng
đất cho nông dân, thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ, mở
đường cho xã hội phát triển… Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm
thực hiện triệt để các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, dựa vào các lực lượng cách mạng của mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nhân, nông dân và tiểu tư sản làm động lực, xây dựng và phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, mở đường đưa đất nước tiến dần từng bước theo con đường xã hội chủ nghĩa… Do
hoàn cảnh lịch sử, đất nước, giai cấp, xã hội của các nước khác nhau nên cuộc cách mạng nhằm chống đế
quốc và phong kiến có những đặc điểm riêng biệt, song trong tiến trình phát triển, các nước thường tập trung
lực lượng cách mạng để giải quyết nhiệm vụ dân tộc, một nhiệm vụ quyết định phần lớn tính độc đáo của
cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

3
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã có sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới
4

đất nước như: các quan điểm về xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ
5
(cơ
cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, về thực hiện chế độ khoán
sản phẩm); về thực hiện dân chủ trong quản lý xã hội; về vai trò của đội ngũ
trí thức trong cách mạng…
Để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục đi
lên, nhiều kỳ Đại hội Đảng đã tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong những năm qua, chỉ ra sự lạc hậu, đặc biệt là trong nhận thức và vận
dụng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra và từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới toàn diện
đất nước. Trong điều kiện khó khăn của sự tìm tòi, phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện ngày càng rõ quan niệm
của mình về chủ nghĩa xã hội và cho rằng, cần được tiếp tục bổ sung, phát

triển cùng với sự phát triển của thực tiễn đất nước và của thời đại ngày nay.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (1991) chỉ ra rằng:
Dẫu sao, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ,
đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu, khám phá, tìm tòi. Chúng ta phải
không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng
bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong
từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa Phải vận dụng sáng tạo

4
Khái niệm đổi mới phản ánh xu hướng vận động, phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng và hàm
chứa cả nguyện vọng chủ quan của chủ thể tư duy, chủ thể hoạt động. Tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể,
đổi mới có thể được hiểu và có nội hàm khác nhau, nhưng nghĩa chung nhất được hiểu, đó là sự thay cái cũ
bằng cái mới tốt hơn, tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
5
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng tư bản chủ nghĩa thành xã hội chủ nghĩa,
bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ
nghĩa xã hội.

4
và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
… sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng,
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội
một cách vững chắc. [17, tr. 56]
Đại hội nêu rõ: “Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất
hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động
và sáng tạo, bớt được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp”[17, tr.

56]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[22, tr.
83]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011) của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc
lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc”[29, tr. 186].
Thực tiễn qua hơn 25 năm đổi mới, nhất là trong thời gian 10 năm trở lại
đây, khi đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đã nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội trên những đường nét cơ bản. Kinh nghiệm và những bài học
được tích lũy cũng cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện
lý luận đổi mới để phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ
đó, nội lực của đất nước và dân tộc đã được huy động vào các mục tiêu của
phát triển, cùng với các nguồn ngoại lực ngày càng được tận dụng, khai thác

5
có hiệu quả làm cho nội lực mạnh lên, đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam đi tới thắng lợi.
Thực tiễn trên đòi hỏi, cần suy xét một cách khoa học và sâu sắc di sản lý
luận của Hồ Chí Minh. Đối chiếu lý luận đó với thực tiễn. Tổng kết thực tiễn
Việt Nam và thế giới để tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học. Phải kiên quyết phê phán các luận điệu thù địch. Bởi vì, trong số những
vấn đề mà kẻ thù tư tưởng ráo riết tấn công, xuyên tạc, phủ định không chỉ ở
những vấn đề về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà bao gồm cả
những vấn đề hết sức cơ bản, lớn và liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do đó, nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghiên cứu tư tưởng của Người về con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ khoa học và lâu dài. Mặt khác,
những thành tựu về lý luận và thực tiễn mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã
đạt được về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tuy rất
quan trọng, song chỉ là bước đầu, còn không ít vấn đề cần được nghiên cứu và
giải đáp. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nhấn
mạnh: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng
tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”[19, tr. 134].
Trong điều kiện và hoàn cảnh đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ to lớn, là
yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách. Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” không chỉ góp phần làm sáng rõ
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Hồ Chí Minh trong điều
kiện Việt Nam vốn là một nước thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, có nền kinh tế
kém phát triển mà còn khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của những tư
tưởng đó trong tình hình hiện nay.

6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu được những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ khảo sát các
công trình khoa học, các sách viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã
hội mà còn phải hiểu được những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn
phải hiểu được quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển
tư tưởng đó như thế nào trong sự nghiệp xây dựng đất nước quá độ lên chủ

nghĩa xã hội. Để từ đó hiểu được giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn Việt Nam. Vì vậy,
có thể nhìn nhận lịch sử vấn đề đã được nghiên cứu theo các nhóm tư liệu sau:
2.1.1. Nhóm tư liệu của các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
- Các tác giả nước ngoài viết về chủ nghĩa xã hội như: B.N. Pônômariốp
(1981), Chủ nghĩa xã hội hiện thực và ý nghĩa quốc tế của nó, Nxb Sự thật,
Hà Nội; Tođo Gípcôp (1986), Chất lượng vấn đề then chốt để xây dựng chủ
nghĩa xã hội phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội; Kazuo Shii (1994), Chủ nghĩa
xã hội khoa học là gì?, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trương Lôi Khắc, Tự
Lập Bình (1997), Lịch sử, hiện trạng và tương lai của chủ nghĩa xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
- Các tác giả trong nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Trịnh
Quốc Tuấn, Phạm Ngọc Quang (1991), Chủ nghĩa xã hội là gì? Tìm hiểu

7
quan điểm của các nhà kinh điển, Nxb Sự thật, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo
(1993), Chủ nghĩa xã hội hiện thực: Khủng hoảng, đổi mới và xu hướng phát
triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS. PTS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS.
Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên) (1997), Những quan điểm
cơ bản của Mác - Ăngghen- Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Tầng (2003), Chủ nghĩa xã hội từ lý luận
đến thực tiễn – Những bài học kinh nghiệm chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
Các công trình trên đã đề cập đến những quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội, và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở một nước tiểu nông không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc và Việt Nam. Nguyên

nhân sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Tính tất yếu của công cuộc cải
cách và đổi mới để đi lên. Những xu hướng phát triển của chủ nghĩa xã hội
trong giai đoạn hiện nay. Một số bài học, kinh nghiệm bổ ích cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.2. Nhóm tư liệu có liên quan đến vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đây là nhóm tư liệu có nội dung phong phú cả ở phương diện lý luận và
thực tiễn, được các nhà khoa học nghiên cứu khá công phu ở Việt Nam. Rất
nhiều công trình đã có được cái nhìn tổng quát về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đồng thời, có một
số công trình cũng có những cách tiếp cận, lý giải khác nhau về những vấn đề
chung của thời kỳ quá độ và về khái niệm “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản

8
chủ nghĩa”, nêu lên một số định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu tiếp tục
bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam như: Trần Nhâm (1983), Mấy vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Trung tâm Bồi
dưỡng lý luận Mác – Lênin (1991), Một số vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ ở
Việt Nam, Nxb Tư tưởng - Văn hóa; Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (1998),
Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS, TS. Dương Phú Hiệp
(Chủ biên) (2001), Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS, TS. Nguyễn Quốc Phẩm,
PGS, TS. Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2012), Những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
Bên cạnh đó, một số công trình đã đề cập đến quá trình hình thành và phát

triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tính tất yếu lịch sử của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội như: Đào Duy Tùng (1994), Quá
trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Trần Hậu (Chủ biên) (1997), Quá trình hình thành và phát
triển quan điểm lý luận của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Khánh (1999), Đổi mới – bước phát triển
tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
PGS, TS. Tô Huy Rứa, GS, TS. Hoàng Chí Bảo, PGS, TS. Trần Khắc Việt,
PGS, TS. Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2011), Quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Những công trình trên đã tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của
đổi mới tư duy lý luận đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Thuyết minh,

9
luận chứng, trình bày những kết quả đạt được trong đổi mới về nhận thức,
quan điểm, về tư duy lý luận, trong tổ chức, chỉ đạo thực tiễn trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đưa ra những quan điểm, phương hướng và giải pháp
chủ yếu để phát triển và hoàn thiện lý luận trong giai đoạn hiện nay. Đồng
thời, cũng gợi mở nhiều vấn đề lý luận cần tiếp tục đầu tư, nghiên cứu.
2.1.3. Nhóm tư liệu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thực tế việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã được triển khai khá sớm, từ
sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, song việc nghiên cứu quan điểm
lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh trên góc độ tư tưởng, học thuyết cách
mạng thì hầu như chưa được xác định. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II (1951), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định vai trò, ý nghĩa, giá trị to lớn
của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII (1991) của Đảng khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” thì
việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh mới được đặt ra, được nhiều nhà khoa
học tham gia và đạt được nhiều thành tựu bước đầu rất khả quan. Có thể nói,
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp đổi mới được chú trọng như một trong những lĩnh vực chủ yếu của
nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội – nhân văn ở Việt Nam.
Với lực phát động của đổi mới tư duy, những nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội đã dần từng bước được hình thành ở Việt Nam. Dân chủ hóa các
lĩnh vực đời sống đã góp phần giải phóng tinh thần, ý thức, thực hiện tự do tư
tưởng cho mọi người. Bầu không khí xã hội đó đã khích lệ và cổ vũ mạnh mẽ
giới tri thức đi vào nghiên cứu khoa học với những tìm tòi sáng tạo mới. Năm
1992, Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước “Nghiên cứu tư tưởng

10
Hồ Chí Minh” mã số KX. 02 được triển khai, đã huy động khá đông đảo các
nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khoa học khác nhau tham gia nghiên
cứu một cách trực tiếp, cơ bản và có hệ thống về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó có đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam”, mã số KX. 02.01. do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ nhiệm cùng
một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu có tên tuổi thuộc
nhiều ngành khoa học tham gia nghiên cứu như: Đặng Xuân Kỳ, Trần Thành,
Nguyễn Văn Trung Đây là một thành tựu của đổi mới nhìn từ góc độ công
tác tư tưởng, lý luận và hoạt động khoa học.
Ở các chương trình, đề tài khác, tuy cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu
có khác nhau nhưng đều ít nhiều có đề cập và nghiên cứu trên phương diện này
hay phương diện khác về tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Đáng chú ý là chương trình KHXH. 01 đã có một đề tài chuyên nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa (KHXH. 01.03). Một đề tài
khác nằm trong chương trình này nghiên cứu về “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội

ở Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” (KHXH. 01.04) đã giành sự quan
tâm thích đáng để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề nêu trên.
Ngoài các chương trình, đề tài khoa học kể trên còn có rất nhiều các
sách, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
- Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về di sản Hồ Chí
Minh, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
như: Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS. Song Thành (2005), Hồ
Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội; Phạm Văn
Đồng (2009), Hồ Chí Minh – Tinh hoa và khí phách của dân tộc, Nxb Chính

11
trị quốc gia, Hà Nội; GS. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh – Vĩ đại một
con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS Song Thành (2010), Hồ Chí
Minh – Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS, TS. Hoàng Chí Bảo
(2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà
Nội; GS. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính
trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội; Vũ Khiêu (2012), Hồ Chí Minh – Ngôi sao sáng
mãi trên bầu trời Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội Các
công trình trên đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng Hồ
Chí Minh, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Những
cống hiến sáng tạo về tư tưởng – lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với thời đại hiện nay. Đồng thời, các công
trình trên đã đi sâu vào một số nội dung lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh như tư tưởng về giải phóng dân tộc, về xây dựng nhà nước, xây dựng
Đảng, tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, chính trị, tư tưởng quân sự, tư
tưởng văn hóa, đạo đức và con người, phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh. Trong những nội dung đó có tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam: từ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội; quan niệm của Hồ Chí Minh

về bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội; về con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng đã
bàn về nội dung, biện pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, làm thế
nào để tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành kim chỉ nam cho hành động,
thật sự chiếm vị chí chủ đạo trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội.
- Các công trình nghiên cứu có nội dung liên quan trực tiếp đến luận án
như: Vũ Viết Mỹ (2002), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao

12
động, Hà Nội; PGS, TS. Nguyễn Bá Linh (2009), Mối quan hệ biện chứng
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Lại Quốc Khánh (2009), Biện chứng của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; GS, TS. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2010), Vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
Lao động, Hà Nội; PGS, TS. Vũ Đình Hòe, PGS, TS. Bùi Đình Phong (Đồng
chủ biên) (2010), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Các công trình trên đã phân
tích quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hai vòng
khâu biện chứng trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đi lên chủ nghĩa xã hội. Tính tất
yếu khách quan, đặc trưng, bản chất, mục tiêu, động lực phát triển của chủ
nghĩa xã hội, quan niệm về những đặc điểm, phương thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nội dung, bước đi, biện pháp và các điều kiện bảo đảm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó, khẳng định những kiến nghị

vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện hiện nay. Có thể nói, các công trình trên đã góp phần làm sáng
tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội. Đồng thời, cung cấp nhiều gợi ý quan trọng và những tư liệu cần thiết
để tiếp tục đi sâu nghiên cứu mảng đề tài này.
Ngoài ra, Luận án còn sử dụng một nguồn tư liệu khá phong phú của các
học giả nước ngoài viết về Hồ Chí Minh như: Bernard Fall (1967), Hô Chi
Minh – de la révolution (1920-1966), Plon, Paris; Hô Chi Minh, Notre
camarade (1970), Introdution historique de Charles Fournioau Editions sociales,

13
Paris; Furuta Motoo (1997), Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; W.J, Duiker (2000): Ho Chi Minh a life, Hyperion,
New York, America; Pierre Brocheux (2003), Hô Chi Minh – Du révolutionnaire
à l’icône, Biographie Payot, Paris; Ép-ghê-nhi Ca-bê-lép (2005), Đồng chí Hồ Chí
Minh, Nxb Công an nhân dân; Lady Borton (2009), Ho Chi Minh, story told on
the Trail, Thế giới Publishers, Hà Nội, Việt Nam; Lady Borton (2010), Ho
Chi Minh, a Journey, Thế giới Publishers, Hà Nội, Việt Nam Dưới con mắt
của người nước ngoài, các công trình trên đã nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp
của Hồ Chí Minh, cách đánh giá, nhìn nhận về công lao đóng góp của Hồ Chí
Minh đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và nhân loại trong phong trào đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Do đó, nó đã cung cấp những
luận cứ khoa học cho tác giả luận án trong việc tìm hiểu quá trình Hồ Chí Minh
hoạt động cách mạng ở nước ngoài; những quan điểm về sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh ở Việt Nam kể từ sau Người qua đời
2.2. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu
Thông qua phần lịch sử nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đề tài luận án
với các nhóm tư liệu, tài liệu đã được khái quát ở trên, cho thấy nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và luận giải ở các khía cạnh,

nội dung, cách tiếp cận khác nhau. Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả luận án mong muốn đóng
góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh, về con
đường mà Người đã lựa chọn. Đó là cố gắng tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tác giả luận án luận giải việc Hồ Chí Minh tìm chân lý cứu
nước và xác định con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô
sản thông qua việc kế thừa, vận dụng và phát triển biện chứng nguồn tư

14
tưởng, văn hóa truyền thống của dân tộc và thế giới. Đó là con đường phát
triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của nhân
loại.
Vấn đề trên đã được nhiều học giả nghiên cứu, tuy nhiên trong phạm vi
luận án, tác giả lý giải Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội không phải từ việc
nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người như C.Mác, Ph.Ănghen, từ
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội mà là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ
khát vọng giải phóng dân tộc, từ nền tảng văn hóa Việt Nam, từ phương diện đạo
đức, từ tính nhân văn trong chủ nghĩa xã hội và từ chính hoạt động lý luận, thực
tiễn phong phú của Hồ Chí Minh.
Với lòng yêu nước cháy bỏng và khát vọng giải phóng dân tộc mãnh liệt,
Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước với hành trang là vốn hiểu biết khá cơ
bản về văn hóa Việt Nam, văn hóa phương Đông, phương Tây. Trên hành trình
ấy, Người đã tích cực hoạt động lý luận và thực tiễn. Tìm hiểu các cuộc cách
mạng điển hình trên thế giới, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân lao động thế
giới, tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Điều đó đã giúp Người tiếp cận
được chủ nghĩa Mác – Lênin và xác định đúng đắn con đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn Cách mạng
Tháng Mười Nga đã giúp Người có được sự lựa chọn đúng đắn và dứt khoát là:
cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, con

đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường đó là hoàn toàn phù hợp với điều
kiện thực tiễn Việt Nam – một nước thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, kinh tế nhỏ
lẻ, manh mún. Con đường đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, giải đáp
được sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước trước đó.
Trong quá trình nghiên cứu về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh,
tác giả nhận thấy, không phải chỉ đến với chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh mới
có những hiểu biết về chủ nghĩa xã hội. Mà ngay trong quá trình hoạt động

15
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã có những cảm nhận ban đầu về tư tưởng xã hội chủ
nghĩa trước khi tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin. Cuối năm 1919,
Người cùng một số đảng viên Đảng Xã hội Pháp đi quyên góp tiền trong các
phố Paris để giúp cách mạng Nga vượt qua nạn đói, hậu quả của việc Chính
phủ Pháp và chính phủ các nước đồng minh bao vây nước Nga Xôviết. Cùng
với việc quyên tiền, Hồ Chí Minh tham gia phân phát các truyền đơn của
Đảng Xã hội Pháp kêu gọi lao động Pháp lên án sự can thiệp vũ trang của
Chính phủ Pháp vào nước Nga, hoan nghênh Cách mạng Tháng Mười Nga.
Những báo cáo được Hồ Chí Minh trình bày vào đầu năm 1920 (tháng 7/1920
Hồ Chí Minh mới được tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa) đã cho thấy Người đã có những
hiểu biết nhất định về chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn, ngày 11/2/1920 Hồ Chí
Minh trình bày tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản quận 2 đề tài
“chủ nghĩa Bônsêvích ở châu Á”, đề tài “vấn đề ruộng đất ở Trung Quốc và
Việt Nam”, đến ngày 27/3/1920, Hồ Chí Minh nói chuyện với thanh niên
Quận 13, Paris về chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là một trong nhưng vấn
đề, theo tác giả luận án là cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu và làm rõ.
Thứ hai, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một con đường khó khăn,
lâu dài và phải trải qua nhiều giai đoạn cách mạng khác nhau.
Khi nói đến con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, có rất nhiều
công trình, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua

hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mãi đến
những năm 50 của thế kỷ XX mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến, nhất là
kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951) của Đảng Lao động Việt
Nam. Trong khi đó, có nhiều tài liệu cho thấy trong tư duy Hồ Chí Minh có ba
giai đoạn cách mạng: giai đoạn thứ nhất là dân tộc cách mạng hay tư sản dân

16
quyền cách mạng; giai đoạn thứ hai là cách mạng ruộng đất hay thổ địa cách
mạng; giai đoạn thứ ba là cách mạng xã hội chủ nghĩa hay xã hội cộng sản.
Đây là vấn đề cần được trình bày và luận giải một cách cụ thể và chính xác hơn
để thấy được các chặng đường, các giai đoạn phát triển chiến lược của cách
mạng Việt Nam.
Thứ ba, trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đặc biệt là
vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ nhân
dân và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa các công trình đã kể trên, tác giả luận án đã hệ thống lại theo
cách hiểu, cách lý giải và nhìn nhận vấn đề của mình những quan niệm của
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt
Nam, về bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về nội dung của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những biện pháp, cách thức để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ tư, khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Đứng vững trên quan điểm thực tiễn, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát
cho mọi suy nghĩ và hành động nên Hồ Chí Minh đã có sự vận dụng và phát
triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã
hội, về loại hình, phương thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Trước đây, do ảnh hưởng của khuynh hướng “tả” và mô hình xây dựng
chủ nghĩa xã hội Xôviết nên có những lúc, có những thời kỳ tư tưởng Hồ Chí

17
Minh chưa được vận dụng trong thực tiễn. Điều đó cũng ít nhiều ảnh hưởng
đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sau khi Đảng đề
xướng đường lối Đổi mới, những nội dung mà Hồ Chí Minh đưa ra về xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, về ưu tiên phát triển
kinh tế nông nghiệp, về thực hiện khoán sản phẩm, về dân chủ, về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về vai trò của trí thức trong cách mạng được Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển đã đem lại nhiều thành tựu quan
trọng. Chính điều đó đã khẳng định giá trị và sức sống trường tồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xã hội Việt Nam.
Phải chăng, việc hình thành và xác lập tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đã trải qua những thử thách hết sức khắc
nghiệt. Nó không phải là một hành trình phẳng lặng, thậm chí bị phê phán
bằng những từ ngữ nặng nề và cũng chưa nhận được sự đồng thuận trong nội
bộ Đảng. Điều này theo tác giả cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu và
làm rõ.
Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, những
vấn đề trên đã thôi thúc tác giả cần phải đi sâu phân tích, tìm hiểu và làm rõ
hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
để thấy được giá trị, tầm ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc
sống hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận chứng một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và khẳng định giá trị khoa học của tư tưởng đó
trong giai đoạn hiện nay.



18
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày rõ thêm quá trình Hồ Chí Minh tìm con đường cứu nước và
giải phóng dân tộc thông qua việc kế thừa, vận dụng và phát triển biện chứng
nguồn tư tưởng, văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại. Từ đó, Người
xác định con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của Việt Nam là con
đường cách mạng vô sản.
- Nghiên cứu một cách căn bản, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như: quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội; bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội; nội dung xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phương châm và biện pháp tiến
hành để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội để thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề rộng lớn. Đề tài không đi sâu tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung mà tập trung nghiên cứu tư tưởng của
Người về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Về cách tiếp cận, Luận án nghiên cứu vấn đề từ cách tiếp cận chuyên

ngành Hồ Chí Minh học chứ không phải từ cách tiếp cận sử học, triết học hay
từ một chuyên ngành nào khác. Có nghĩa là, không chỉ nghiên cứu tư tưởng,
quan điểm của Hồ Chí Minh mà còn nghiên cứu quá trình hoạt động và chỉ

19
đạo thực tiễn cách mạng của Người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Về không gian, đề tài gắn liền với những yếu tố, điều kiện lịch sử có tác
động đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay.
- Về nội hàm khái niệm “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội”.
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản sau thắng
lợi của cuộc cách mạng vô sản, là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
+ Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự hoạch định về bước đi, biện
pháp và cách làm nhằm từng bước hiện thực hóa mục tiêu lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chính là giai đoạn phát triển cao
hơn, là định hướng của sự phát triển xã hội ở Việt Nam.
Trong Luận án, tác giả không có tham vọng trình bày toàn bộ nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội mà tác giả cố gắng khuôn vào những nội dung
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có nghĩa là trình bày những nhân tố có
ảnh hưởng đến việc Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản,
những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, từ đó đưa ra
những quan điểm của Hồ Chí Minh về bước đi, biện pháp và cách làm để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về cách mạng không ngừng, về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, về

20
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; những quan điểm của Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam và những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhất là quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể, xuất phát từ thực tiễn
khách quan, chú trọng các quan điểm trong thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của
con người với thế giới xung quanh. Tư tưởng trong khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh được hiểu là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm
được xây dựng trong một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp
luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực. Vì vậy, cùng với việc sử dụng phương pháp
phổ biến, áp dụng cho tất cả các ngành khoa học là phương pháp duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh còn
sử dụng các phương pháp cụ thể khác để thấy rõ được quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng của Người và hệ thống các quan niệm của Người về cách
mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
không phải là một vấn đề lý luận chung chung mà nó gắn với thực tiễn chỉ
đạo cách mạng cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, trong nghiên cứu phải
quán triệt quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực tiễn chính là mục tiêu,
là động lực của nhận thức. Thực tiễn cũng chính là tiêu chuẩn để kiểm tra
nhận thức. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX mà Hồ Chí Minh
ra đi tìm đường cứu nước. Từ thực tiễn tồn tại và phát triển của xã hội Việt

Nam mà Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra bản chất,

21
quy luật đặc thù của Việt Nam, đề ra đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn,
sáng tạo cho cách mạng Việt Nam. Chính thực tiễn Việt Nam cũng đã khẳng
định đường lối mà Hồ Chí Minh đưa ra là phù hợp và hoàn toàn đúng đắn.
Phương pháp hệ thống, tức là đặt tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ tư
tưởng Mác - Lênin, đặt cách mạng Việt Nam nằm trong dòng chảy của cách
mạng thế giới, thấy được mối liên hệ giữa các mục tiêu của cách mạng dân
tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp lôgíc và lịch sử:
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, phương pháp lịch sử giúp chúng ta có thể nghiên cứu
được quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, để thấy được
giá trị của tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp lôgíc có tác dụng chỉ ra được những quan niệm của Hồ Chí
Minh về đặc trưng, bản chất, bước đi của chủ nghĩa xã hội, những biện pháp
cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Không phải chỉ đưa ra
những câu nói, bài viết của Hồ Chí Minh ở thời kỳ này hay giai đoạn kia mà
từ những câu nói ở những thời điểm khác nhau, có thể không theo một trình
tự thời gian nhất định, để thấy được những quan niệm của Người về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Phương pháp lôgíc cũng giúp chúng ta hình
dung những nhân tố khách quan và chủ quan, những ảnh hưởng qua lại của
dân tộc, truyền thống, thời đại, văn hoá và lịch sử tạo nên giá trị, bản lĩnh, bản
sắc, phong cách Hồ Chí Minh.
Phương pháp so sánh cho phép vạch rõ mối liên hệ chung – riêng, phổ
biến và đặc thù giữa Hồ Chí Minh với các vĩ nhân, danh nhân văn hoá khác,
nhận rõ những đóng góp và cống hiến riêng có của Hồ Chí Minh đối với lịch
sử. Chẳng hạn: phương pháp so sánh giúp chúng ta có thể thấy được con

×