Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ và vận dụng vào điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------

ĐẶNG THỊ HỊA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ
VÀ VẬN DỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

ĐẶNG THỊ HỊA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ
VÀ VẬN DỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
MÃ SỐ: 60 31 27

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS MẠCH QUANG THẮNG

HÀ NỘI - 2009


2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ

11

1.1. Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ

11

1.1.1. Phạm vi "cán bộ" được trình bày trong luận văn

11

1.1.2. Vị trí, vai trị của cơng tác đào tạo cán bộ

12

1.2. Những quan điểm đào tạo cán bộ

15

1.2.1. Kết hợp đức - tài


16

1.2.2. Đào tạo - tự đào tạo (tự học)

27

1.2.3. Lý luận phải gắn với thực tiễn và phương pháp đào tạo

34

1.2.4. Đào tạo toàn diện - chuyên sâu

43

1.2.5 Tổ chức, quản lý công tác đào tạo cán bộ

48

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

57

VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

2.1. Thực trang công tác đào tạo cán bộ ở nước ta hiện nay

57

2.2 Một số phương hướng, giải pháp

72
2.2.1. Xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu

72

thực tiễn
2.2.2. Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức,

74

phương pháp đào tạo
2.2.3. Tổ chức tốt hệ thống các cơ sở đào tạo và cơ quan

77

quản lý đào tạo
2.2.4. Xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ cao và

79

tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo
2.2.5. Có chính sách phủ hợp, khuyến khích các cán bộ đi học

81

KẾT LUẬN

84

TÀI LIỆU THAM KHẢO


86

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ mn vàn kính u của dân tộc Việt Nam, là
danh nhân văn hoá thế giới. Cả cuộc đời Người đều phấn đấu cho độc lập dân
tộc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Mặc dù Người đã đi xa, nhưng những
giá trị tư tưởng mà Người để lại cho chúng ta mãi là một kho tàng lý luận vơ
giá, trong đó có tư tưởng về đào tạo cán bộ. Chúng ta đều biết, sự nghiệp giáo
dục nói chung, cũng như cơng tác đào tạo cán bộ nói riêng, ln đóng một vai
trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển đi lên của đất nước. Trong đó,
cơng tác đào tạo cán bộ được xem là "xương sống" để xây dựng nên một mơ
hình Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh và văn minh. Những người
cán bộ chính là người lãnh đạo, người được Đảng và nhân dân trao giữ sứ
mệnh cầm lái đất nước. Họ còn là những người đi tiên phong trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc trước kia cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vậy công tác đào tạo cán bộ
của nước ta đi theo đường hướng nào? Đó là đi theo con đuờng cách mạng vơ
sản, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ giúp ta nhìn nhận thấy rõ hơn tầm nhìn
vĩ đại của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam và công lao to
lớn của Người để lại cho đời sau. Từ đó, chúng ta có thể vận dụng tư tưởng
đó của Người một cách sáng tạo vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát
triển, một số cán bộ, đảng viên đã tha hoá, đánh mất phẩm chất đạo đức cách
mạng, lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật. Nó càng trở nên đáng quan

tâm hơn khi những người vi phạm pháp luật, làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, với Nhà nước lại là một số cán bộ, đảng viên giữ những cương
vị cao trong Đảng và Nhà nước... Vì vậy, tơi đã chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí
4


Minh về đào tạo cán bộ và vận dụng vào điều kiện hiện nay" cho bản luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ chun ngành Hồ Chí Minh học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, có nhiều cơng trình đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về đào tạo cán bộ ở nhiều cấp độ khác nhau.
Trước hết phải kể đến tác phẩm Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán
bộ của tác giả Đức Vượng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995).
Tác phẩm đã khái quát quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Từ đó, tác giả trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo tạo cán bộ
theo một quy trình nhất định, mà quy trình đạo tạo ấy, theo tác giả sẽ đi lần
lượt: xuất phát từ phương hướng và phương pháp đào tạo cán bộ -> tìm
nguồn nhân tài, nguồn cán bộ để đào tạo -> lựa chọn nhân tài, lựa chọn cán
bộ để sử dụng -> đưa họ vào hoạt động thực tế để tiếp tục đào tạo nâng cao
trình độ cán bộ -> kiểm tra, đánh giá khách quan, uốn nắn, giúp đỡ cán bộ.
Sau khi nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ, tác giả khẳng
định những quan điểm về đào tạo cán bộ của Người vẫn được toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta tiếp tục phát huy, áp dụng vào công cuộc xây dựng đất
nước với một số thành tựu của công tác đào tạo đội ngũ cán bộ từ 1969 đến
1995. Tuy nhiên, do trình bày quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào
tạo cán bộ theo một quy trình như vậy nên tác phẩm nghiêng về hình thức tổ
chức đào tạo cán bộ mà chưa nêu bật được nội dung chủ yếu trong tư tưởng
của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ là gì. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn
lọc tác phẩm này, chúng tơi sẽ đi vào trình bày những nội dung cơ bản trong

tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ (gồm 5 điểm lớn sẽ trình bày cụ thể
phần sau). Hơn nữa, tác giả Đức Vượng có nêu một số thành tựu của công tác
đào tạo cán bộ của nước ta đến năm 1995. Nhưng trong bối cảnh đất nước ta
hiện nay, nhất là từ khi đất nước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ
1996), những quan điểm, tư tưởng về đào tạo cán bộ của Hồ Chí Minh có cịn
5


phù hợp không? Chúng ta áp dụng những tư tưởng ấy như thế nào, thành tựu
đạt được cùng những hạn chế của việc áp dụng ấy và những hướng giải pháp
ra sao? Trên cơ sở những suy nghĩ như thế, chúng tơi muốn triển khai vấn đề
mình lựa chọn mà khơng sợ có sự trùng lặp với tác phẩm đã viết. Đây là một
tác phẩm chúng tôi đánh giá cao và có giá trị tham khảo tốt.
Tác phẩm Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ quân sự, đào tạo
cán bộ quân sự theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đây là cuốn Kỷ yếu hội
thảo khoa học do Trường Sỹ quan Lục quân 1 phối hợp với Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam tổ chức và in thành kỷ yếu (Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội in năm 2005). Tác phẩm là tập hợp những bài viết của các vị
tướng lĩnh, các đồng chí cựu chiến binh, các nhà khoa học trong và ngoài
Quân đội nhằm nêu bật những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về cơng tác đào tạo cán bộ Quân đội, về chiến sĩ cách mạng cũng như các thế
hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã phấn đấu làm theo lời
Bác. Mặc dù các tham luận chỉ tập trung nêu quan điểm của Hồ Chủ tịch đối
với cán bộ quân đội, song đây cũng là một tác phẩm được chúng tôi chú ý kế
thừa, khai thác phục vụ đề tài của mình.
Tác phẩm Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin ở
Việt Nam (1921 - 1930) của tác giả Phạm Xanh (Nhà xuất bản Thông tin lý
luận, 1990). Tác phẩm đã đi sâu vào phân tích hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) suốt từ năm 1919 đến 1930, trong
đó có quan điểm và hoạt động của Người trong công tác đào tạo cán bộ cách

mạng. Tác giả nêu rõ Nguyễn Ái Quốc muốn đào tạo một đội ngũ cán bộ cho
cách mạng Việt Nam mà chủ yếu đào tạo cho họ lý luận cách mạng (tức là
phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin). Sau khi đào tạo, Người đưa họ về
nước truyền bá con đường cứu nước, xây dựng cơ sở cách mạng; một số được
đưa cử đi học ở nước ngồi nhằm chuẩn bị làm nịng cốt lực lượng cách mạng
về sau. Tuy nhiên, đây chỉ là những quan điểm sơ khai đầu tiên của Nguyễn
Ái Quốc trong đào tạo cán bộ ở thời điểm những năm 20 khi Đảng Cộng sản
6


Việt Nam chưa ra đời. Mặc dù vậy, tác phẩm là tài tiệu có giá trị tham khảo
tốt.
Tác phẩm Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 2003. Cuốn sách đã
tập hợp những tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta cùng một số cơng trình nghiên cứu
khoa học đã được cơng bố trong những năm gần đây, trong đó có đề cập đến
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất đạo đức và năng
lực lãnh đạo theo quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tác phẩm còn đề ra
những phương hướng phấn đấu để cho mỗi đảng viên rèn luyện, tự hồn thiện
mình để góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng vững mạnh,
đủ sức lãnh đạo nhân dân ta, đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức ,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một tác phẩm có
giá trị tham khảo tốt.
Tác phẩm Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, cơng chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học do Ban Tổ
chức - cán bộ Chính phủ phối hợp cùng Viện Khoa học - Tổ chức Nhà nước
thực hiện nhân kỷ niệm 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” (với bút danh X.Y.Z) và in thành sách (do Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia xuất bản năm 1998). Tác phẩm là sự tập hợp nhiều bài tham luận

của các nhà khoa học khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”, đặc biệt là đối với vấn đề cán bộ, huấn luyện cán bộ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó nhấn mạnh đến tiêu chuẩn, nội dung, yêu
cầu học tập, rèn luyện về đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ
công chức hiện nay nhằm đáp ứng nhiệm vụ cải cách hành chính, góp phần
xây dựng đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác phẩm có
giá trị tham khảo tốt.
Tác phẩm Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Truyền thống dân tộc và
nhân loại của Ban Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Khoa
7


học - xã hội Hà Nội xuất bản năm 1993 (Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên). Tác
phẩm là tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học tập trung nêu làm nổi bật
vị trí, vai trị của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các bài
viết đều thống nhất nhận định: “tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là phần kết
tinh của tư tưởng Hồ Chí Minh, và đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
có quan hệ hữu cơ với tất cả các đề tài thuộc chương trình nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh, và ngược lại các đề tài thuộc chương trình này cũng cần
quán triệt một cách đúng đắn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (tác phẩm,
tr.5). Từ nội dung cơ bản đó của tác phẩm, chúng tơi có thể khai thác để phục
vụ cho vấn đề mình tìm hiểu, đặc biệt dưới góc cạnh đạo đức cách mạng như
là một nhân tố không thể thiếu, một nền tảng cơ sở, là phần “gốc‟ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ.
Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam của tác
giả Mạch Quang Thắng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền của tác giả Trần Đình Huỳnh (Nhà
xuất bản Hà Nội, 2004)... đã đi vào phân tích những quan điểm của Hồ Chí
Minh về một đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản như là một nhân tố quyết định
dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng; đồng thời đi sâu phân tích nêu bật

những yêu cầu đối với một đảng cầm quyền. Đảng muốn lãnh đạo được đất
nước, lãnh đạo được cách mạng thì Đảng phải làm gì. Qua đó, mỗi cán bộ,
đảng viên còn phải học tập, rèn luyện như thế nào để đứng trong hàng ngũ
lãnh đạo của Đảng.
Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới của
chúng ta của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh
soi sáng con đường Đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỉ 21 của Nguyên Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Đây là hai tác phẩm nhấn
mạnh tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ có giá trị to lớn
đối với những thành công của cách mạng nước ta trước đây mà nó đóng vai
trị như kim chỉ nam, chỉ đạo hoạt động của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa
8


xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó có đặt ra cơng tác đào tạo
cán bộ đáp ứng với tình hình mới như là một trong những việc làm bức
thiết....
Một số tác phẩm của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước (như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thượng
tướng Hoàng Cầm, Thủ tướng Phạm Văn Đồng...) được Chủ tịch Hồ Chí
Minh trực tiếp dìu dắt, rèn luyện đã phần nào phản ánh về những kỉ niệm
không quên những ngày bên Bác, nhất là những lời căn dặn của Người đối với
một chiến sĩ cách mạng, một cán bộ đảng viên. Qua đó, chúng tơi có thể có
thêm những tư liệu quý về quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên,
trong đó có cơng tác đào tạo cán bộ.
Những cơng trình trên là cơ sở quan trọng để chúng tôi tham khảo và
kế thừa, đối chiếu và so sánh khi tiếp xúc các vần đề có liên quan đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ. Qua đó, chúng tơi có thể xử lí hiệu quả
nguồn tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chúng tơi
cũng ý thức được rằng, đó chỉ là những tài liệu tham khảo, phản ánh kết quả

chủ quan của các tác giả trong quá trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những tác phẩm, bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh được in trong Hồ Chí
Minh tồn tập vẫn sẽ là những tư liệu gốc cơ bản để chúng tôi khai thác, là
nền tảng cho kết quả nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Thơng qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đào tạo cán bộ nhằm góp phần làm rõ vai trị to lớn của Hồ Chí Minh
đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta; đồng thời, góp phần bổ sung
vào kho tàng lý luận trong công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:

9


- Trình bày hồn cảnh ra đời; nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đào
tạo cán bộ.
- Nêu bật được vị trí, ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đào
tạo cán bộ đối với cách mạng Việt Nam.
- Trình bày những kết quả trong cơng tác đào tạo cán bộ nước ta trong
thời gian qua; đưa ra một số phương hướng, giải pháp về đào tạo cán bộ theo
tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào
tạo cán bộ.
Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ
trong suốt cuộc đời hoạt động của Người (cụ thể là từ năm 1911 đến năm
1969).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm
của Đảng thông qua các văn kiện Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương và
Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng; các tác
phẩm chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán bộ, đảng viên; các cơng trình
khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp lịch
sử, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và một
số phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn

10


- Trình bày có hệ thống quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào
tạo cán bộ, thơng qua đó đánh giá vị trí, ý nghĩa và vai trị của những quan
điểm, tư tưởng ấy trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Nêu bật, khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ
trong cơng cuộc xây dựng đất nước hiện nay; đưa ra một số phương hướng,
biện pháp trong đào tạo cán bộ theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
đáp ứng yêu cầu, địi hỏi của thực tiễn đặt ra trong cơng cuộc đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Góp phần bổ sung thêm một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đào tạo cán bộ nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Mục lục, Luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ trong
tình hình hiện nay


11


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ
1.1. Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ
1.1.1. Phạm vi “cán bộ” được trình bày trong luận văn.
Cán bộ là khái niệm tương đối mới mẻ, xuất hiện trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
chính quyền cách mạng được thành lập. Khái niệm cán bộ mà chúng ta
thường dùng được hiểu là:
Cán bộ: “1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước: cán bộ nhà nước,:
bố mẹ đều là cán bộ. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường khơng giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước: cán bộ tổ chức, cán
bộ đại đội” [4; tr.249].
Hoặc có thể hiểu Cán bộ: “1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun
mơn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ
chính trị. 2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường, không có chức vụ. Đồn kết giữa cán bộ và chiến

12


sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ Đoàn thanh niên” [67;
tr.105].
Trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Người có nhiều bài viết,
bài nói đề cập đến cán bộ, có khi rất cụ thể, chi tiết (cán bộ quân đội, cán bộ
thu thuế, cán bộ hành chính, cán bộ tỉnh, cán bộ huyện...), có khi rất khái quát.
Trong bản luận văn này, khái niệm cán bộ được hiểu theo nội hàm khái quát
đó.
Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20-2-1947, Chủ

tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ là gì? Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy.
Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của
Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng
không thể thực hiện được” [42; tr.54].
Trong thư gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ toàn quốc, viết năm 1952,
nói về kế hoạch thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm do Chính phủ đề ra, Hồ
Chí Minh nói: “Tơi u cầu cán bộ các ngành, các đơn vị từ trung ương đến
khu, đến xã phải nghiên cứu rất kỹ lưỡng”.
Hay trong thư gửi các đại biểu Hội nghị cán bộ chính quyền tồn quốc
lần thứ 5, viết năm 1952, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Tổ chức những ban
huấn luyện ít ngày làm cán bộ từ khu đến xã thấm nhuần chính sách sản xuất
và tiết kiệm” [43; tr.446].
Như vậy, nội hàm cán bộ được đề cập trong luận văn theo quan điểm
Hồ Chí Minh rất rộng, bao gồm những người nắm giữ cương vị, trọng trách
khác nhau trong hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền (nhà nước), Quân đội
thuộc mọi cấp (từ cấp trung ương đến cấp cơ sở). Với nội hàm như thế, chúng
ta có thể nhận thức được rằng: đại đa số cán bộ là đảng viên (người trong
Đảng) và một bộ phận cán bộ khơng phải là đảng viên (người ngồi Đảng).
1.1.2. Vị trí, vai trị của cơng tác đào tạo cán bộ
13


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm và khẳng định tầm
quan trọng của công tác đào tạo cán bộ. Bản thân Người là một người thầy vĩ
đại, đã trực tiếp cùng với Đảng đào tạo và rèn luyện nên biết bao thế hệ cán
bộ ưu tú, đặc biệt là trong những thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam. Nhiều
người sau này đã trở thành những người giữ trọng trách cao trong Đảng, Nhà
nước, Quân đội... như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp, Trường Chinh...
Sở dĩ , Người đánh giá cao vai trị của cơng tác đào tạo cán bộ, vì theo

Người: “Cán bộ là gốc của mọi cơng việc”, “Cán bộ là tiền vốn của đồn thể.
Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì
thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”
[43; tr.46]. Người đã xuất phát từ việc nhận thức đúng vị trí, vai trị của đội
ngũ cán bộ. Họ đứng ở vị trí đầu tầu, đi đầu trong mọi cơng việc, mọi lĩnh
vực. Vì thế, “bất cứ cơng việc gì, nếu thiếu cán bộ, khó thực hiện được” [41;
tr.260]. Cán bộ chính là những người đứng trong Đảng, làm trong Chính phủ,
trong các ban, ngành, các tổ chức. Trí tuệ của họ chính là sản phẩm của những
đường lối, chủ trương, quyết sách, là những kinh nghiệm được mang ra thực
tiễn để chỉ đạo cách mạng Việt Nam, để hướng dẫn tập trung quần chúng đấu
tranh, lao động và sản xuất. Đồng thời, họ cũng là người đưa những chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng
nhân dân: : “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách
cho đúng”[42; tr.269]. Họ là sợi dây nối liền Đảng với nhân dân.
Vì vậy, theo Người, để đội ngũ cán bộ gánh vác được những trọng
trách lớn lao, cao cả ấy, trước hết người cán bộ phải là người ưu tú, gương
mẫu, có đạo đức cách mạng, có năng lực, có trình độ hiểu biết và làm việc,
nắm được các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thì mới có thể “nói
cho đồng bào ta rõ, làm cho đồng bào ta hiểu”.

14


Mặt khác, nhân dân ta có trình độ văn hóa thấp cũng chính là ngun
nhân Bác coi trọng cơng tác đào tạo cán bộ, vì cán bộ là từ nhân dân mà ra.
Nhân dân và cán bộ đều có trình độ thấp, nếu nâng được trình độ văn hóa cho
cán bộ lên thì trình độ văn hóa của nhân dân cũng sẽ được nâng lên theo.
Trong điều kiện nước ta là một nước phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, lại bị đế

quốc thực dân thống trị trong một thời gian dài. Để phục vụ cho sự cai trị, bóc
lột tàn bạo của mình, chúng thi hành chính sách văn hóa nô dịch, thực hiện
nền giáo dục “ngu dân” khiến cho trình độ văn hóa của nước ta rất thấp, kinh
tế nước ta rất nghèo nàn, lạc hậu. Điều đó được thể hiện rõ qua số lượng trí
thức hạn chế, đại đa số là nông dân không biết chữ (chiếm hơn 90%). Những
thói hư tật xấu (tính tự tư tự lợi, tham ơ, hủ hóa...) vốn đã ăn sâu trong đời
sống xã hội trước kia thì tiếp tục có điều kiện phát triển. Trong khi đó, muốn
đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải truyền bá
tư tưởng đấu tranh tiến bộ (chủ nghĩa Mác - Lênin). Muốn vậy, cần phải đào
tạo đội ngũ cán bộ có trình độ, có nhận thức nhất định. Do xuất phát điểm
nhận thức của người dân nước ta thấp như vậy, nên công tác đào tạo cán bộ ở
nước ta lại càng trở nên quan trọng, bức thiết và quả thực, nó đặt lên vai
những người làm cơng tác đào tạo một trách nhiệm càng hết sức nặng nề. “Vì
vậy ta phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hóa làm gốc” [45; tr.224].
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai
cũng có tính tốt và tính xấu” [42; tr.254], ai cũng có khuyết điểm và sai lầm.
Trong Thư gửi các lớp chỉnh huấn cơ quan, viết tháng 6-1953, Hồ Chí Minh
nói rõ: “Vì cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng chưa thơng suốt.
Do đó mà mắc nhiều khuyết điểm như:
- Chưa hiểu rõ đường lối cách mạng dân tơc dân chủ; chưa nắm được
vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh;
- Chưa phân biệt rõ ràng ai là thù ta, ai là bạn (trên thế giới, trong nước
và trong bản thân mình);

15


Vì vậy mà mắc nhiều bệnh. Chủ nghĩa cá nhân đặt lợi ích riêng của
mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là
bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác như tự tư tự

lợi, sợ khó sợ khổ, không yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng; lãng phí,
tham ơ. Quan liêu, mệnh lệnh... [44; tr. 92].
Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, “tính xấu của một người thường chỉ hại
cho người đó, cịn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến
Đảng, có hại đến nhân dân” [42; tr.254]. “Mn việc thành công hoặc thất
bại, đều do cán bộ tốt hặc kém. Đó là một chân lí nhất định” [42; tr.240].
Theo Bác, con người sinh ra đều mang tính thiện (“Nhân chi sơ, tính bản
thiện”). Họ lớn lên tính cách tốt hay xấu phần lớn đều là nhờ giáo dục, nhờ
rèn luyện. Quá trình rèn luyện ấy là quá trình rèn luyện phấn đấu suốt đời.
Đội ngũ cán bộ cũng vậy. Muốn trở thành người cán bộ tốt, có lợi cho nước,
có ích cho nhân dân thì người đó phải được đào tạo, phải được huấn luyện.
Tùy từng hoàn cảnh, tùy từng đối tượng mà Hồ Chí Minh thường có nhiều
cách diễn đạt khác nhau, khi thì Người nói “đào tạo”, “bồi dưỡng”, “rèn
luyện”, “huấn luyện”, “giáo dục” cán bộ. Nhưng tựu chung lại, nội hàm của
những khái niệm ấy chính là đào tạo cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đào tạo cán
bộ không phải là đào tạo một lần là xong. Mà công tác đào tạo cán bộ phải
tiến hành liên tục, khơng ngừng nghỉ, theo quy trình nhất định (lựa chọn đối
tượng -> đào tạo cán bộ -> công tác thực tế -> đào tạo nâng cao -> công tác ->
đào tạo...). Bởi theo Người: “Cán bộ có nhiều khuyết điểm, điều đó khơng có
gì lạ. Nếu cán bộ hồn tồn khơng có khuyết điểm mới là điều lạ”. Người giải
thích rằng: “Vì đã lâu, chúng ta sinh trưởng dưới chế độ nô lệ của thực dân
và phong kiến, bị văn hóa giáo dục thực dân phong kiến thấm vào đã sâu. Nó
đã làm cho nhiều người tê mê quên cả nhân dân, quên cả Tổ quốc. Nó đã làm
cho những bệnh thối nát hủ bại (như chủ nghĩa cá nhân, tự tư tự lợi, tham ơ
lãng phí...) ăn sâu vào con người như những bệnh kinh niên. Vì vậy, cán bộ ta
trong xã hội ấy mà ra nên không khỏi nhiều hay ít có thói xấu ấy” [44; tr.84].
16


Xuất phát từ những nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi đến một khẳng

định: “đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng” [42; tr.269], “Chính phủ
nên mở ở các tỉnh những lớp huấn luyện cán bộ” [41; tr.260]. Rõ ràng, cơng
tác đào tạo cán bộ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của cách mạng,
vận mệnh dân tộc.
1.2. Những quan điểm đào tạo cán bộ
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói,
bài viết về cơng tác đào tạo cán bộ và chính Người cũng tham gia trực tiếp
vào giảng dạy để xây dựng biết bao thế hệ cán bộ ưu tú. Những bài nói, bài
viết cùng những hoạt động thực tiễn của Người hợp lại đã tạo nên những quan
điểm, luận điểm về công tác đào tạo cán bộ. Những quan điểm ấy được khái
quát lại thành 5 luận điểm lớn.

1.2.1. Kết hợp đức - tài
Đức và tài là hai phẩm chất cơ bản của con người nói chung. Khi nhìn
nhận, đánh giá con người, ta cũng đều căn cứ trên hai mặt này. Đối với người
cán bộ, điều đó là hết sức quan trọng. Theo Hồ Chí Minh, công tác đào tạo
cán bộ phải làm sao cho ra “sản phẩm” là những người cán bộ có cả hai phẩm
chất đức và tài, nếu thiếu một trong hai phẩm chất đó thì cơng tác đào tạo cán
bộ xem như chưa hoàn thành được nhiệm vụ, chưa đạt được mục đích đề ra.
Được trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin - vũ khí lý luận sắc bén, tiên tiến
và cách mạng của thời đại cùng với tư duy sáng tạo, nhạy bén... Hồ Chí Minh
ln xem xét và nhận thức sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ, nhiều chiều
cạnh khác nhau và tìm ra mối liên hệ biện chứng giữa chúng. Tư duy Hồ Chí
Minh là tư duy mở, tư duy biện chứng, do đó, khi xem xét mối quan hệ đức tài, Người đã thấy được mối liên hệ tất yếu và cần thiết giữa hai mặt: “ Có tài
phải có đức. Có tài khơng có đức, tham ơ hủ hóa có hại cho nước. Có đức
17


khơng có tài như ơng bụt ngồi trong chùa, khơng giúp ích gì được ai” [45;
tr.184]. Trong mối quan hệ biện chứng ấy, đức và tài có tác động qua lại và

hỗ trợ lẫn nhau, đức được xem là gốc, là cội nguồn, nền tảng: “Cũng như sơng
thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo” [42; tr.252]. Người cán bộ trước hết phải là người
có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được
nhân dân. Vì nhân dân khơng tin yêu, không giúp đỡ và không ủng hộ.
Đức là một phạm trù tương đối rộng. Mỗi một thời đại, mỗi một dân
tộc, một nền văn hóa hay mỗi một con người lại có những quan niệm khác
nhau về đức. Vậy chữ đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như thế
nào?
Theo Người, đức là đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên.
Phẩm chất đạo đức ấy được Hồ Chí Minh diễn đạt theo nhiều cách hiểu khác
nhau. Có khi người đưa ra tiêu chuẩn đào tạo người cán bộ cần phải có 5 đức
tính tốt. Đó là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Nhân là thật thà thương yêu hết lịng giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Người có “nhân” vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có
hại đến Đảng, đến nhân dân, sẵn lịng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng
hạnh phúc sau thiên hạ, không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy
quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ, thì việc gì là việc
phải họ cũng làm được.
Nghĩa là ngay thẳng, khơng có tư tâm, khơng làm việc xấu, khơng có
việc gì phải giấu Đảng. Ngồi lợi ích của Đảng, khơng có lợi ích riêng phải lo
toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy
việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Khơng sợ người ta phê bình mình, mà
phê bình người khác cũng ln ln đúng đắn.
Trí, vì khơng có việc tư túi nó làm mù qng, cho nên đầu óc ln
trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem

18



người. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho
Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết
điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại
những sự vinh hoa, phú q, khơng chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả
tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, khơng bao giờ rụt rè nhút nhát. “Trong lúc
khó khăn của dân tộc, khí tiết của người cán bộ là khơng sợ gì hết, khơng sợ
kẻ địch, khơng sợ khó khăn gian khổ. cái gì khó khăn cực khổ, cán bộ phải
xung phong làm trước” [44; tr.116].
Liêm là không tham lam địa vị, khơng tham tiền tài. Người thường lấy
ví dụ cán bộ ta thường có khuyết điểm tự kiêu, tự mãn, từ đó sinh ra óc địa vị,
ham địa vị, đang làm việc ở trung ương, ở khu mà tổ chức phân cơng nhiệm
vụ về tỉnh, về huyện thì thì phàn nàn, chán nản, cho rằng như thế là khơng
xứng đáng với tài của mình. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Phải gột sạch đầu óc
địa vị đi. Việc gì có lợi cho cách mạng, cho Đồn thể là làm hết, khơng có
việc gì sang, việc gì hèn cả” [43; tr.49].
Có lúc, Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chuẩn đạo đức cách mạng là “cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”. Cần, là chỉ sự lao động cần cù, chăm chỉ,
có tổ chức, có kỷ luật, có kế hoạch, do đó mang lại hiệu quả cao. Nó đối lập
với những thói hư tật xấu như bệnh lười lao động, ăn bám, làm ẩu, làm qua
loa đối phó, tính vơ tổ chức, vô kỷ luật, không phù hợp với đạo đức, phẩm
chất người cán bộ cách mạng. Trong đời sống, Bác ln ln phê bình thói
đạo đức giả, nói mà khơng làm, nói một đường làm một nẻo. Bác thường dạy
cán bộ nên nói ít mà làm nhiều cịn hơn nói nhiều mà làm ít, làm khơng hiệu
quả, qua loa, đại khái sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cán bộ, với
Đảng. Là một người theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh chắc chắn đã
hiểu hết ý nghĩa sâu sắc câu nói nổi tiếng của C. Mác: “Lao động đã sáng tạo
ra xã hội con người”, để từ đó dăn dạy, chăm lo sự nghiệp đào tạo đội ngũ
cán bộ ln có tính chun cần, u lao động và sáng tạo trong lao động.
19



Kiệm, là phải biết tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền của của nhân dân, của
Nhà nước và của chính bản thân từ cái nhỏ đến cái lớn; khơng phơ trương
hình thức, xa xỉ, hoang phí, coi “tiết kiệm là quốc sách”. Tiết kiệm ở đây
không được hiểu là bủn xỉn, keo kiệt mà là sự chi tiêu đúng mức, hợp lý mang
lại hiệu quả cao nhất. Còn nhớ trong những tháng năm (1924 - 1927) tổ chức
đào tạo đội ngũ cán bộ cách ở Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã cho chúng ta thấy tấm gương sáng ngời về tinh thần tiết kiệm, sử
dụng số tiền ít ỏi của mình để phục vụ việc huấn luyện cán bộ để mang lại
hiệu quả cao nhất. Hay khi nước nhà mới giành được độc lập, “giặc đói” đã
cướp đi biết bao sinh mạng đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
Chính phủ phát động phong trào lập “Hũ gạo tiết kiệm” để cứu đói dân nghèo.
Nhờ đó, đất nước ta dần vượt qua khó khăn. Và khơng phải ngẫu nhiên, Hồ
Chí Minh lại xếp chữ “kiệm” vào hàng “quốc sách”. Liêm, tức là “luôn luôn
tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân”; “khơng xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”.
“Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ
hủ hóa”. Đồng thời, Người cũng chỉ ra những hành vi trái với chữ Liêm như:
“cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của cơng làm của tư”,
“Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, khơng dám làm, là tham vật úy
lạo. Gặp giặc mà rút ra, không tham dám đánh là tham sinh úy tử”. “Liêm” là
sự phản ánh bản chất của chính quyền cách mạng, của người cán bộ cách
mạng. Nó trái ngược hồn toàn với chế độ thực dân phong kiến thối nát.
Người cán bộ cách mạng mà đánh mất chữ “liêm” thì sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến lòng tin của quần chúng nhân dân. Để giáo dục cán bộ thực hiện nghiêm
chữ “liêm”, trong những năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, Hồ Chí Minh
đã ký hiều sắc lệnh xét xử những cán bộ tham ô của công gây hậu quả


20


nghiêm trọng, mà vụ án Trần Dụ Châu là một ví dụ điển hình 1. Chính, nghĩa
là “khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình khơng tự cao tự đại, ln
chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa
điều dở của bản thân mình. Đối với người: khơng nịnh hót người trên, không
xem khinh người dưới, phải luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết
thật thà, khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước
việc tư, việc nhà. Chí cơng vơ tư tức là khi làm bất cứ việc gì cũng khơng
nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau (“phải lo trước cho
thiên hạ, vui sau thiên hạ”). Người cịn chỉ ra mối quan hệ: cần, kiệm, liêm,
chính tốt sẽ dẫn tới chí cơng vơ tư, và ngược lại, thực hiện chí cơng vơ tư, một
lịng vì dân, vì nước thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Người đặc biệt lưu ý: trước nhất là cán bộ cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì
quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương
tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”. Người cũng
chỉ ra một luận điểm rất quan trọng có giá trị vô cùng thiết thực: “trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được quần
chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm việc trước cho người ta bắt chước.
Đức tính của người cán bộ cách mạng được đào tạo thể hiện rõ trong Lời ghi
ở trang đầu quyển sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc trung ương (nay là
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh):
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ
Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.
Muốn đạt mục đích thì phải cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư” [42;
tr.684].
Có khi, Hồ Chí Minh nêu đạo đức cách mạng của người cán bộ qua

mối quan hệ ứng xử của người cán bộ với xã hội và đối với chính bản thân
1

Trần Dụ Châu vốn là Giám đốc Nha Quân nhu đã phạm tôi tham ô lớn tiền công quỹ để thực hiện ăn chơi
xa hoa, trác táng trong những năm gian khổ kháng chiến, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Chính phủ
và Qn đội. Tịa án binh đã tiến hành khởi tố và kết án tử hình Trần Dụ Châu tháng 11-1950.

21


mình. Người ln địi hỏi người cán bộ khơng ngừng học tập, phải có phấn
đấu để có 5 đức tính tốt và những đức tính tốt ấy cũng chính là đạo đức cách
mạng:
1. Mình đối với mình: khơng tự mãn, tự kiêu; nếu tự mãn, tự kiêu thì
sẽ khơng tiến bộ. Phải tìm tịi học hỏi cầu tiến bộ, học lấy điều hay của người
khác. Phải siêng năng tiết kiệm.
2. Đối với đồng chí mình: thân ái với nhau, nhưng không che đậy
những khuyết điểm. Cùng nhau học cái hay, sửa chữa cái dở. Không nên
tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ
không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị. Người lấy ví dụ: một anh nói
giỏi, một anh khơng, khi ra quần chúng anh nói kém sợ anh nói giỏi lên nói sẽ
được cơng chúng vỗ tay hoanh nghênh lấn át ảnh hưởng của mình đi nên
khơng cho anh nói giỏi lên nói.
3. Đối với cơng việc: trước hết, phải nghĩ cho kỹ, có việc làm trước
mắt thành cơng nhưng thất bại về sau. Có việc địa phương này làm có lợi
nhưng hại cho địa phương khác. Những cái như thế phải tránh. Người chỉ rõ:
thí dụ đối với tù binh Pháp nếu mình giết đi thì thấy dân chúng hoan nghênh
nhưng thế giới sẽ cho mình dã man, bất lợi ngoại giao. Phải có kế hoạch bước
đầu làm thế nào? Bước thứ hai làm thế nào? Bước thứ ba làm thế nào? Thành
cơng thì thế nào? Nếu thất bại thì thế nào? Mỗi ngày lúc sáng dậy, tự hỏi

mình ngày hơm nay phải làm gì? Tối đi ngủ phải tự hỏi mình ngày hơm nay
đã làm gì? Phải cẩn thận, cản thận không phải là nhút nhát, do dự.
4. Đối với nhân dân: phải nhớ Đoàn thể làm việc cho dân, Đồn thể
mình mạnh hay yếu là ở dân. Dân nghe theo là mình mạnh. Hiểu nguyện vọng
của dân, sự cực khổ của dân. Hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của dân.
Nhưng có những việc dân khơng muốn mà phải làm như tản cư, nộp thuế,
những việc ấy phải giải thích cho dân rõ. Phải tơn kính dân, phải làm cho dân
tin, phải làm gương cho dân. Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn
cho dân tin phải thanh khiết. Người thường dạy: cán bộ từ trung ương đến cơ
22


sở đều là đầy tớ thật trung thành của nhân dân chứ không phải làm quan cách
mạng đè đầu, cưỡi cổ dân.
5. Đối với Đồn thể: Trước lúc mình vào Đồn thể nào phải hiểu rõ
Đồn thể ấy là gì? Vào làm gì? Mỗi Đồn thể phải vì dân vì nước. Khi vào
Đoàn thể, tự do cá nhân phải bỏ. Phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của
Đoàn thể. Phải tuyệt đối trung thành. Khi thời bình phải hết sức làm việc. Khi
nguy hiểm phải hy sinh về Đoàn thể. Hy sinh tính mạng, lợi quyền, giữ danh
giá của Đồn thể. Muốn giữ danh giá của Đoàn thể phải giữ danh giá mình.
Khơng được báo cáo láo như: làm thành một việc thì phóng đại, thất bại thì
giấu đi. Một Đồn thể mạnh thì cái tốt càng ngày càng phát triển, cái dở càng
ngày càng bớt đi. Một điều tốt phải đưa ra tất cả mọi người cùng học, một
điều xấu phải đưa ra tất cả mọi người cùng biết mà tránh [42; tr.54-55].
Đạo đức cách mạng còn được Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc hy
sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích dân tộc. Trong lớp chỉnh huấn các cơ quan
Khu I tháng 4-1963, có đồng chí cán bộ hỏi Bác rằng: gian khổ trường kỳ
chịu được, nhưng gia đình thì thế nào? Hồ Chí Minh đã trả lời rằng: “Cố
nhiên, tình hình gia đình ai cũng có, khơng có khơng được. Nhưng mình là
người cách mạng, người kháng chiến được Đảng giáo dục phải trông xa thấy

rộng hơn. Mình có mấy gia đình, gia đình to nhất là giai cấp. Giai cấp không
phải chỉ ở trong nước, mà cịn ở Liên Xơ, Trung Quốc, các nước bạn. Ấy là
gia đình của mình. Nếu giai cấp chưa được giải phóng hồn tồn, mình chưa
được giải phóng hồn tồn. Ở Việt Nam ta, cả dân tộc là đại gia đình. Dân
tộc có được giải phóng thì gia đình nhỏ của mình mới được giải phóng. Nếu
gia đình to chưa được giải phóng, gia đình mình chưa được giải phóng” [44;
tr.128]. Người cán bộ có đạo đức cách mạng là ln phải đặt lợi ích chung
của tồn dân tộc, của Đảng lên trên hết. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi
ích của Đảng, của dân tộc thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích cá nhân, khi cần
đến tính mạng của mình cũng phải vui lịng hy sinh cho Đảng, cho lợi ích dân
tộc. Đạo đức cách mạng ấy không phải là đạo đức phong kiến (trung với vua,
23


hiếu với cha mẹ). Rõ ràng, đạo đức cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh
là đạo đức chân chính: “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo
đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [42; tr.252]. Người yêu cầu
mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân
lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ
chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học
tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng cịn phải là người biết thừa nhận
khuyết điểm của mình và biết sửa chữa khuyết điểm ấy, sửa chữa đến cùng.
Hồ Chí Minh thừa nhận: cịn có một số cán bộ chưa thật thà thực hành cần
kiệm liêm chính, chưa nắm vững chính sách của Đồn thể và Chính phủ, chưa
đi đúng đường lối quần chúng, và chưa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Họ còn mắc bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí. Những bệnh ấy

đã lộ ra trong việc thực hiện vận động tăng gia sản xuất và tiết kiệm, và công
tác thu thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp. Đó là những khuyết
điểm lớn cần sửa chữa. Hồ Chí Minh nói: “Thấy được khuyết điểm là một
bước tiến bộ. Những mới chỉ là bước đầu. Thấy rồi phải lo sửa chữa. Đang
sửa chữa thì phải sửa cho hết. Đã sửa rồi thì phải giữ mình đừng để mắc phải
nữa” [43; tr.318].
Trong q trình cơng tác, lãnh đạo cách mạng, những cán bộ có khuyết
điểm thường sợ dân nói. Đó cũng là một trong những hạn chế tâm lý của
nhiều người. Nhưng nếu người cán bộ thành thật với dân, biết mình có lỗi, xin
lỗi nhân dân thì nhân dân cũng rất vui lòng và sẽ tha thứ. Mối quan hệ giữa
cán bộ, giữa Đảng và nhân dân vì thế mà ngày càng bền chặt. Trong bài nói
tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, tháng 1-1967, Hồ Chí Minh nói
rằng: “Dân ta rất tốt, rất yêu thương Đảng, yêu thương cán bộ. Khi ta có
24


khuyết điểm mà nói trước dân, chẳng những dân khơng ghét, khơng khinh, mà
cịn thương u, q trọng, tín nhiệm ta hơn nữa” [49; tr.213]. Mặt khác, Hồ
Chí Minh cũng nhấn mạnh: thấy được khuyết điểm để khắc phục, để sửa chữa
thì khơng có gì là xấu xa. Nó sẽ làm cho chúng ta tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn
bản thân. Người cịn nhìn nhận thấy những thiếu sót, khuyết điểm ngay cả
trong kết quả thắng lợi. Trong Thư gửi lớp chỉnh huấn cán bộ trung cấp, cao
cấp của quân đội, tháng 5-1969, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong cuộc chống
Mỹ, cứu nước, do đường lối của Đảng ta rất đúng đắn, bộ đội và nhân dân ta
rất anh dũng cho nên chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi lớn. Chúng ta
có nhiều kinh nghiệm mới, nhiều ưu điểm nhưng cũng cịn nhiều khuyết
điểm”. Và đó chính là một trong những điểm khác biệt, một nét rất riêng chỉ
có ở Hồ Chí Minh mà khơng có ở nhiều vị lãnh tụ cách mạng khác. Vì vậy,
Người yêu cầu: “bộ đội ta, trước hết là cán bộ phải học tập để phát huy ưu
điểm, sửa chữa khuyết điểm, nâng cao trình độ về mọi mặt, làm cho ta càng

đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng” [49; tr.465].
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [46; tr.293].
Vì vậy, việc rèn luyện đạo đức không chỉ là trách nhiệm mà cịn là vinh dự
của người cán bộ: “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách
mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
giải phóng lồi người” [46; tr.293]. Từ đó, Hồ Chí Minh vẫn thường xun
chú ý quan tâm đặc biệt đến vấn đề rèn luyện đạo đức cho người cán bộ.
Người rất lo đạo đức của người cán bộ bị suy đồi, biến chất. Khi gian khổ là
người cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng, khi hịa bình về thành phố,
sống trong điều kiện vật chất tốt hơn thì lại dễ đi vào con đường hưởng lạc,
kiêu ngạo, trưng diện, lãng phí của công, tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng
tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân dân, lạt lẽo với công việc cách
mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng... dần dần họ mất cả tư cách và đạo đức
25


×