ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
––––––––––––––––––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LÊ THẢO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN VỚI VIỆC TIẾP TỤC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 64.31.27
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: T.S Trần Ngọc Liêu
Hà Nội-2013
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ............................................. 8
3.1. Mục đích ............................................................................................. 8
3.2. Nhiệm vụ ............................................................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 9
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu .......................................................................... 9
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................. 9
5.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 9
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 10
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 10
NỘI DUNG .................................................................................................. 11
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC CỦA DÂN, DO
DÂN, VÌ DÂN ............................................................................................. 11
1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc ...... 11
1.1.1. Nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc ............. 11
1.1.2. Quá trình hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc .............. 17
1.2. Nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc của dân, do
dân, vì dân .................................................................................................... 22
1.2.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc của dân .................................. 24
1.2.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc do dân .................................... 34
1.2.3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc vì dân .................................... 39
CHƢƠNG 2. TIẾP TỤC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ................. 47
2.1. Quan điểm của đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam .......................................................................................... 47
2.1.1. Quá trình hình thành nhận thức ....................................................... 47
2.1.2. Bản chất của nhà nƣớc pháp quyền XHCN theo quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam ................................................................................... 52
2.2. Những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng nhà nƣớc Nhà nƣớc pháp
quyền XHCN Việt Nam trong thời gian qua ................................................. 54
2.2.1. Những thành tựu ............................................................................. 54
2.2.2. Những hạn chế ................................................................................ 62
2.3. Phƣơng hƣớng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ............................................. 66
2.3.1. Xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam
hiện nay là yêu cầu khách quan, cấp bách ................................................. 66
2.3.2. Một số nội dung cơ bản của phƣơng hƣớng xây dựng và hoàn thiện nhà
nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta hiện nay............. 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 88
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
2
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
3
KTXH
Kinh tế xã hội
4
CXNT
Công xã nguyên thủy
5
KT
Kinh tế
6
XH
Xã hội
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam,
người chiến sĩ cách mạng kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế đã để lại cho Đảng và nhân dân
ta những di sản tư tưởng vô cùng to lớn. Tồn bộ hoạt động của Người là vì
dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Thành cơng của Người chính là sự vận dụng một cách
sáng tạo những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện,hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đem lại độc lập,tự
do cho dân tộc.
Trong suốt hơn 75 năm qua, tư tưởng của Người luôn dẫn đường chỉ
lối cho dân tộc ta vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm, bao kẻ thù, đi từ thắng
lợi này tới thắng lợi khác, ngày càng khẳng định vị thế của Việt Nam trên
trường Quốc tế. Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
xây dựng một nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng của Người về nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được
hình thành và phát triển trong suốt quá trình Người tham gia hoạt động
cách mạng. Người đã dành khơng ít tâm trí, sức lực để thiết kế, chỉ đạo,
xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật từ những năm đầu của
cách mạng, qua kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước và ngày càng được hoàn thiện qua
từng giai đoạn lịch sử.
Bước vào thế kỷ XXI, đất nước ta đang đứng trước những cơ hội và
thách thức chưa từng có. Xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang phát
triển sâu rộng với tốc độ nhanh chóng, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ
thuật hiện đại và đang mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển có thể
2
đuổi kịp các nước phát triển. Trong tình hình đó, Việt Nam cần phải có một
nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực,
tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức. Do
vậy, hơn lúc nào hết, những tư tưởng của Người, nhất là những tư tưởng về
nhà nước của dân, do dân và vì dân là bó đuốc tỏa sáng, soi đường định
hướng cho mọi hành động của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta, để khơng
ngừng hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới. Thật
may mắn cho chúng ta vì đã được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những thành
quả mà cả đời Người đã cống hiến. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm định hướng cho việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay .
Chính vì thế em chọn nghiên cứu đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân với việc tiếp tục xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước
pháp quyền và tổng kết kinh nghiệm xây dựng nó trong lịch sử nhân loại,
cũng như việc phân tích cụ thể các điều kiện thuận lợi và khó khăn của đất
nước, đang là một nhu cầu cấp thiết trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Xác định rõ nhu cầu ấy, Đảng ta đã định hướng nghiên cứu cho các
khoa học xã hội là phải tập trung vào vấn đề vừa mang tính khoa học, vừa có
ý nghĩa thực tiễn chính trị này.
Năm 1992, cơng tác xây dựng pháp luật đã hướng trọng tâm vào việc
thông qua Hiến pháp và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Kết quả này
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc đổi mới hệ thống chính trị
nước nhà, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
3
luật và từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.Công tác nghiên
cứu về tư tưởng của Người đã được đẩy mạnh, có hàng trăm cơng trình, hàng
ngàn bài nghiên cứu và vô số đầu sách đã được xuất bản và cơng bố. Có thể
chia thành nhóm như sau:
- Nhóm 1: các đề tài
Cơng trình khoa học cơng nghệ nghiên cứu cấp nhà nước KXO2
"Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân"
của tập thể tác giả, chủ nhiệm là PTS. Nguyễn Đình Lộc.
Chương trình cấp nhà nước KX-05 về hệ thống chính trị ở nước ta,
bước đầu đã đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những vấn đề liên quan đến
mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Các tổ chức xã hội. Tạo tiền đề cho việc
đưa ý tưởng nhà nước pháp quyền vào hiện thực. Việc làm rõ hơn đặc điểm
của hệ thống chính trị ở nước ta; cơ chế thực hiện quyền lực chính trị; vai trị
lãnh đạo của Đảng; các hình thức làm chủ về chính trị của nhân dân thơng qua
nhà nước và thơng qua các tổ chức chính trị, xã hội...; vấn đề phân định và
phối hợp giữa các phạm vi quyền lực nhà nước..., đã góp phần đáng kể cho
định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Trên cơ sở của định hướng chung đã đạt được, Đề tài KX-01-14 tiến hành giải
quyết một cách cụ thể hơn những vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến nhà
nước pháp quyền, đến cơ chế vận hành của nó như: thực hiện dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp; nâng cao vị thế của pháp luật trong việc thực hiện quyền
của nhân dân; phân quyền giữa bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp v.v...
Nhóm 2: sách chuyên khảo
Nguyễn Trọng Thóc - Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân , NXB Chính trị Quốc gia, 2005. Cuốn sách tập trung nghiên cứu
những vấn đề: Giới thiệu chung về nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội
chủ nghĩa; thực trạng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền; phát huy dân
4
chủ và những giải pháp nâng cao hiệu quả của chúng ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Duy Quý (chủ biên) - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia,
2008. Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu các nội dung sau: Khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền (NNPQ). Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước và NNPQ.Khái niệm, những đặc trưng cơ bản và chức
năng của NNPQ và các yếu tố quy định, chi phối cũng như phương hướng và
các giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQXHCN ở Việt Nam.Cuốn “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của
tập thể các tác giả: Nguyễn Văn Yểu, GS,TS Lê Hữu Nghĩa (Đồng Chủ biên),
GS,TS Trần Ngọc Đường, TS Nguyễn Văn Hiện, TS Vũ Đức Khiển, GS,TS
Nguyễn Ngọc Long, TS Uông Chu Lưu, TS Thang Văn Phúc, GS,VS Nguyễn
Duy Quý, TS Nguyễn Viết Thông, TS Nguyễn Văn Thuận, PGS,TS Đức Vượng.
Bản thảo cuốn sách dựa trên cơ sở Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới về
Nhà nước của Nhóm 4 (Tổng kết về Nhà nước thời kỳ đổi mới).
Cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ
Việt Nam tiến trên con đường đổi mới. Những tiền đề để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân tích trên lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng những tư tưởng,
quan điểm về pháp quyền, nhân quyền (quyền con người), quyền tự do, dân
chủ, về bản chất, vai trò của luật pháp trong xã hội Việt Nam. Người chỉ ra
rằng, pháp quyền là “thần linh”, luật pháp là phương tiện để củng cố nhà
nước, duy trì trật tự xã hội. Giữa pháp luật và nhà nước phải có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Để tạo nên sự ổn định của nhà nước, làm cho bộ máy nhà
nước vận hành đúng quỹ đạo, phát huy được hiệu lực quản lý, điều hành thì
5
phải xây dựng được một hệ thống luật pháp đúng đắn. Ngay từ đầu, Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định luật pháp Việt Nam là luật pháp thực sự dân chủ,
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mọi người đều có
quyền tham gia xây dựng pháp luật, bình đẳng trước pháp luật và tuân thủ
pháp luật. “Dân chủ hoá trong đời sống chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hố là
một trong những tiền đề chính trị - tư tưởng quan trọng trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta”
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ViệtNam trong giai
đoạn hiện nay”, do GS.TSKH. Đào Trí Úc; PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đồng
chủ biên, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa phát hành vào quý II/2009 đã tập
trung phân tích, lý giải và đề xuất các giải pháp về hàng loạt các vấn đề như:
Những định hướng lớn của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa;
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
Đổi mới vai trò và chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
Dân chủ, thực hiện dân chủ; xã hội dân sự và xây dựng xã hội dân sự ở
Việt Nam;
Xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam;
Cải cách tư pháp;
Các yêu cầu và định hướng cơ bản của việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay;
Hội nhập quốc tế về pháp luật.
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình quốc gia các mơn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
6
Luật sư Vũ đình Hoè, một trong hai vị Bộ trưởng thuộc nội các đầu
tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ cịn sống đến ngày hơm
nay đã dành tặng bạn đọc một món quà quý, đó là cuốn hồi ký thứ hai của
ông với tên gọi " Pháp quyền nhân nghĩa". Hơn 1000 trang sách là một
khối tư liệu khổng lồ, một khối tâm tư nặng trĩu mà một công dân 94 tuổi,
một vị cựu Bộ trưởng gửi đến người đọc các thế hệ sau mình. Bằng tất cả
kiến thức, tài liệu, kinh nghiệm và nhiệt huyết của một công dân, một
người làm luật, một người yêu nước, ông đã dẫn dắt người đọc qua những
chặng đường tìm hiểu nguồn tư tưởng nhân nghĩa trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh.
Hơn tất cả, Vũ Đình H phân tích được nền tảng nhân nghĩa truyền
thống của dân tộc trong quá trình cấu tạo tư tưởng pháp quyền của Hồ Chí
Minh. Và, với tư cách là một người trong cuộc, ông dựng lại được quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, thực thi tư tưởng pháp
quyền nhân nghĩa của Hồ Chí Minh từ 1911 đến năm 1960, năm cuối
cùng ông tham gia Chính phủ với tư cách là Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Tiến sĩ Lê Minh Quân qua cuốn sách “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay" của mình đã khái quát lịch sử tư tưởng về
Nhà nước pháp quyền trong mối quan hệ với sự phát triển của xã hội và
khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội ở
nước ta hiện nay, đồng thời, tác giả còn đưa ra một số giải pháp, phương
hướng cơ bản trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội c hủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
Nhóm 3: các tạp chí
Hồng Thị Hạnh - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tạp chí triết học số 9-2010.
7
Trong bài viết này, tác giả đã tập trung làm rõ hai vấn đề cơ bản liên quan đến
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là, thứ
nhất, luận chứng về tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong bối cảnh tồn cầu hóa; thứ hai, phân tích một số
nội dung cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam theo yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thông tin lý luận chính
trị - bản tin của hội đồng lý luận Trung Ương số 4 (76) tháng 9/2008 của
GS.TS Trần Ngọc Đường.
Trần Ngọc Liêu - tiếp tục thể chế hóa quyền lực của nhân dân thành
pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạp
chí triết học số 11/2010
Nguyễn Thị Thu Hường - Tư Tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật trong quản lý xã hội (tạp chí triết học số 12 - 2010)
Phạm Ngọc Quang - một số đề xuất rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò
của dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Mai thị thanh - Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thực hiện
quyền lực nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước có ý nghĩa rất lớn trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trước thời kỳ đổi mới, vì nhiều
lý do, chúng ta thường ít quan tâm nghiên cứu về hình thức nhà nước. Do vậy,
chúng ta khơng chỉ chưa tạo dựng được một hình thức nhà nước phù hợp, mà
cịn làm xuất hiện những biểu hiện tha hóa quyền lực, khiến Nhà nước ta hoạt
động kém hiệu lực, hiệu quả. ý thức được điều đó, Đảng ta đã chủ trương đổi
mới Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Đó là một chủ trương đúng đắn.
8
Có thể nói, xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một lĩnh vực
nghiên cứu liên ngành. Nó thu hút vào bản thân mình các nhà chính trị học, sử
học, luật học, triết học, văn hóa học. ở đây, nhà nước pháp quyền được tiếp
cận theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Đã xuất hiện những ý kiến khác nhau,
đa dạng, đôi khi trái ngược nhau, nhưng rốt cuộc, đều thống nhất với nhau ở
mục đích chung là: tất cả những ý kiến đó đều mang nguyện vọng chung là:
đóng góp các đề xuất, kế sách, để sao cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền của chúng ta trở nên tối ưu, hợp lý, đáp ứng được lòng dân, ý Đảng.
Liên quan đến các điều kiện đặc thù của Việt Nam trong việc tiếp thu
và cải biến các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, cũng cịn nhiều điều
đáng để bàn luận. Chính vì vậy, ở một chừng mực nhất định, luận văn mong
muốn đóng góp một phần cơng sức vào những khía cạnh mới mẻ này.
Các cơng trình trên đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân do dân vì dân; về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau.
Dù đây là một vấn đề rộng lớn mà sự hiểu biết của em thì có hạn, song
em rất mong góp một phần sức lực của mình để nghiên cứu vấn đề này. Trong
quá trình nghiên cứu em đã kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác
giả đi trước, cũng như các nhà nghiên cứu để phục vụ cho đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân, vì dân để vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có những nhiệm vụ sau.
- Nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân
9
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Làm rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền.
- Những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trong thời gian qua
- Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân,
vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân và việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề lớn, phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu:
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân với việc tiếp
tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
sở lý luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác Lênin và phương pháp nghiên cứu của các khoa học xã hội có liên quan, bao
gồm các phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa, kết hợp lịch sử - lơgic,
phân tích -tổng hợp,quy nạp - diễn dịch,phân tích tài liệu ...v.v.
10
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng Hồ Chí
Minh, về cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo và học tập cho sinh
viên chuyên ngành giáo dục chính tri,tư tưởng Hồ Chí Minh
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chương 2. Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
1.1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
Lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn liền với những
cuộc đấu tranh quyết liệt chống thù trong giặc ngoài và mỗi khi Tổ quốc bị
lâm nguy, thì non sơng đất nước lại sản sinh ra những anh hùng kiệt xuất, đáp
ứng được yêu cầu của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam,
ra đời do yêu cầu khách quan đáp ứng được những yêu cầu bức thiết do cách
mạng Việt Nam đặt ra: Vào giữa thế kỷ XIX (1858), thực dân pháp nổ súng
xâm lược nước ta, vua quan nhà Nguyễn đã quỳ gối đầu hàng, nước ta trở
thành thuộc địa của Pháp. Nhân dân ta căm hờn quyết đứng lên đấu tranh,
khởi nghĩa giành chính quyền, song vì chưa có đường lối đúng đắn nên cách
mạng bị dìm trong biển máu. Những chủ trương cứu nước của cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh đều khơng thành, con đị cách mạng Việt Nam dường
như trong đêm tối khơng có đường ra, chưa rõ bến bờ.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công,
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga cùng sự ra đời của Nhà nước Xô
Viết đầu tiên, đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
thế giới.
Chính lúc đó Nguyễn Tất Thành xuất hiện, vượt lên những hạn chế của
các nhà yêu nước đương thời. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
tiên tiến nhất của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ của dân
tộc và thời đại, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Việc xác định
nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
12
để hiểu bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và các học thuyết chính trị - xã hội khác.
Trên cơ sở nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh,
chúng ta có thể thấy được nguồn gốc hình thành nhà nước dựa trên cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn.
Về cơ sở lý luận là dựa trên quan điểm của triết học mác - lênin về sự
ra đời của nhà nước. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc nhà
nước được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của chế
độ tư hữu và của nhà nước” (Ănghen). Được bổ xung và phát triển trong tác
phẩm “Nhà nước và cách mạng” (Lênin).
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin: Nhà nước là một
phạm trù lịch sử có q trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước
nảy sinh trong đời sống xã hội, xuất hiện khi xã hội loài người phát triển
đến một trình độ nhất định.
Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ: Chế độ CXNT là hình thái KT - XH
đầu tiên của XH lồi người, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước, nhưng q
trình vận động và phát triển của nó đã làm xuất hiện những tiền đề vật chất
cho sự tan rã của tổ chức thị tộc, bộ lạc và sự ra đời của nhà nước.
Trong quá trình sống, lao động sản xuất, con người phát triển hơn về
thể chất và trí lực: Cấu trúc giác quan ngày càng hoàn thiện, họ hiểu biết
hơn về các quy luật tự nhiên và xã hội, tích luỹ nhiều công cụ sản xuất và
cải tiến công cụ lao động đã làm cho năng xuất lao động không ngừng
tawng lên. Hoạt động kinh tế của xã hội trở nên đa dạng, địi hỏi sự chun
mơn hố cao về lao động. Ba lần phân công lao động xã hội vào cuối thời
kỳ CXNT: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp; thương nghiệp xuất hiện đã làm cho sản phẩm làm ra ngày càng dư
13
thừa. Quá trình tư hữu diễn ra, chế độ tư hữu hình thành. Chế độ hơn nhân
một vợ một chồng xuất hiện, trở thành đơn vị kinh tế độc lập có tài sản riêng.
Những biến đổi về mặt kinh tế của XH CXNT làm cho cộng đồng
dân cư thuần nhất của thị tộc bộ lạc phân hoá thành các bộ phận đối lập
nhau về mặt lợi ích xã hội, hình thành hai giai cấp chính là giai cấp bóc lột
và giai cấp bị bóc lột. Điều kiện KTXH vốn là cơ sở cho sự tồn tại của chế
độ CXNT bị phá vỡ, quyền lực xã hội và hệ thống quản lý do toàn thể các
thành viên trong cộng đồng tổ chức ra để bảo vệ lợi ích của các thành viên
bình đẳng nay khơng cịn thích hợp với xã hội đã phân hố và mâu thuẫn
gay gắt về lợi ích.
Để duy trì trật tự và quản lý một xã hội đã có những thay đổi rất căn
bản địi hỏi phải có một tổ chức và quyền lực mới, tổ chức này do giai cấp
nắm ưu thế về kinh tế và chính trị lập ra - đó chính là nhà nƣớc.
Chế độ CXNT tan rã, nhà nước ra đời là kết quả sự vận động, phát triển
nội tại của xã hội loài người. Tiền đề KT của sự ra đời nhà nước là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất; Tiền đề xã hội của sự ra đời nhà nước là sự phân hoá
xã hội thành các giai cấp, tầng lớp có lợi ích đối lập nhau và mâu thuẫn gay
gắt đến mức khơng thể điều hồ được. Tiền đề XH là kết quả tất yếu của tiền
đề KT.
Như vậy, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, xuất hiện
từ khi XH loài người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng là bộ máy
do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế, chính trị, xã hội lập ra để điều
hành toàn bộ hoạt động của xã hội trong một nước với mục đích là bảo vệ
quền lợi của giai cấp thống trị.
Về cơ sở thực tiễn, qua việc khảo sát mơ hình các kiểu nhà nước trong
lịch sử người đã thấy sự bất lực và lạc hậu của thể chế chính trị phong kiến và
mặt trái của thể chế chính trị tư sản, thể hiện sự bóc lột người dân lao động ở
14
chính quốc cũng như các nước thuộc địa, do đó người khơng thể lựa chọn mơ
hình thể chế phong kiến và tư sản. Trong quá trình hoạt động cách mạng và
học tập những lý luận bên ngồi, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra
một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản thành cơng. Nhà nước đó
phải đại biểu quyền lợi cho số đơng người và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây
dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Hồ Chí Minh đã từng có chủ trương xây
dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân
lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dânNgồi ra phải kể đến những
yếu tố khác đó cũng là cơ sở để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một là, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, đã kết tinh cho mình một bản sắc văn hóa riêng, phong phú và bền
vững, với những truyền thống tốt đẹp. Trong đó tinh thần yêu nước đã trở
thành đạo lý sống, niềm tự hào và là nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh
thần của con người Việt Nam. Lịng u nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất
khuất, tinh thần tự lực, tự cường, được các thế hệ người Việt thể hiện trong
các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó khơng chỉ là một tình cảm, một
phẩm chất, mà đã phát triển thành một chủ nghĩa u nước, chủ nghĩa dân tộc
chân chính, thành dịng tư tưởng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Tất Thành đã được hun đúc bởi chính sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước ấy. Người đã vượt qua bao khó khăn gian khổ để hồn thành sứ
mệnh được giao phó. Chính từ thực tiễn, Người đã rút ra chân lý: “Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy nó kết thành một làn
sóng vơ cùng mạnh mẽ to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.[ 30,171]
15
Truyền thống yêu nước ấy đã thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng 10 năm sau đó (từ 1911 đến
1920), Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục đặt chân đến gần 30
nước trên thế giới, làm nhiều nghề để sống và hoạt động: làm phụ bếp, đốt lò,
quét tuyết, phóng ảnh, viết báo,…và rồi Nguyễn Ái Quốc trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên, một chiến sĩ Quốc tế. Người viết: “Lúc đầu
chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”.[4,128]
Người tâm đắc một hồi bão: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn , áo mặc, ai cũng được học hành”.[28, 161]
Hai là, tinh hoa văn hóa nhân loại
Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Tất Thành đã ham học hỏi, thích tìm hiểu
nghiên cứu. Trên bước đường cứu nước, Người đã tiếp thu, kế thừa có chọn
lọc và làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng những tinh hoa triết học, văn hóa
Đơng - Tây - Kim cổ, như những dòng suối trong lành hợp thành dòng hải lưu
vĩ đại. Bày tỏ thái độ của mình về một số học thuyết và tôn giáo, Người viết:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn
Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích ứng với điều kiện nước
ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao?
Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho lồi người, cho xã hội. Nếu hơm nay họ
còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hồn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy…”.
16
Những điều trên cho thấy, trong quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế thừa có chọn lọc
những di sản quý báu của văn hóa nhân loại, đồng thời nâng nó lên một tầm
cao mới trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng Mười Nga
Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp. Người vừa làm
việc để kiếm sống, vừa hoạt động chính trị nhưng người ln lạc quan say sưa
học tập và nghiên cứu. Năm 1918 Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một
Đảng tiến bộ lúc bấy giờ. Người sung sướng đọc bản “sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Qua việc đọc và
tìm hiểu tác phẩm Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc: “Con
đường cách mạng vơ sản”. Từ đó, Người tin và đi theo Quốc tế III, Người
viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin…”.[25, 388]
Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đó chính là phẩm
chất, tư chất, đạo đức, nhân cách, bản lĩnh của Người. Vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì cơm ăn áo mặc của đồng bào đã thơi thúc Người tìm tòi, nghiên cứu
và đạt được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng đắn. Và chính do sự vận
dụng của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh Việt Nam mà Người đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Heelen Tuốcmêrơ có viết: “Hồ Chí Minh là hình ảnh hồn chỉnh của sự
kết hợp: Đức khơn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác,
thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của người chủ gia tộc. Tất cả đều
hòa hợp trong một dáng dấp tự nhiên”[18, 8]
17
Nhìn lại lịch sử thì lần đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu lên
một cách tương đối cơ bản tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng (6/1991): Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đồng thời làm
phong phú tư tưởng của giai cấp vô sản, phát triển tư tưởng nhân loại đạt tới
tầm cao mới.
Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã tiếp tục khẳng định:
“Ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diến biến phức tạp của
tình hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, chống những luận điểm thù địch, tạo cơ sở cho sự
thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân”.[7, 136]
Tại đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã chỉ rõ: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng con
người, về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH kết hợp với sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân
tộc, về quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc
ta”.[9,20 -21]
1.1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 2/9/1969, Làng Sen Nam Đàn - Nghệ An) sinh ra trong một gia đình nhà Nho u nước, thơng
minh, ham học hỏi. Người lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan, dân
chúng lầm than cơ cực, các cuộc khởi nghĩa của nông dân đều bị dìm trong bể
18
máu, con đường cách mạng đi vào bế tắc. Các sự kiện đó đã để lại ấn tượng
sâu sắc cho Người, đưa đến những suy nghĩ về sự thành bại của các phong
trào và hình thành ý thức hành động cứu nước. Người đã kể lại: “Khi đó tơi
13 tuổi, lần đầu tiên tôi đã được nghe ba chữ Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác
ái…Và tơi rất muốn làm quen với văn minh Pháp muốn tìm xem những gì ẩn
náu đằng sau những từ ấy”.[24,477].
Năm 21 tuổi (6/1921), người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời Tổ
Quốc, với hoài bão ra đi tìm đường cứu nước, Người làm phụ bếp trên chiếc
tàu “Đô đốc Latusơ Tơrêvin” và lấy tên là Văn Ba. Hành trang người mang
theo là lòng yêu nước, thương dân, cùng bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, những ước
mơ, hồi bão tốt đẹp cho dân tộc, chính những điều ấy đã làm nền tảng cho
Người vượt qua bao khó khăn gian khổ. Từ năm 1911 đến 1920, Người đã đặt
chân lên 30 quốc gia, làm đủ mọi nghề để kiếm sống và hoạt động.
Ngày 7/11/1917, Cách mạng tháng Mười Nga, do Lênin và Đảng
Bơnsêvích lãnh đạo đã thành công. Năm 1918, Người tham gia vào Đảng xã
hội Pháp. Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, các nước thắng
trận họp hội nghị ở Vécxây để phân chia quyền lợi và phạm vi ảnh hưởng.
Nguyễn Tất Thành thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên
Nguyễn Ái Quốc, gửi đến hội nghị Vécxây “Bản u sách của nhân dân An
Nam”, địi hỏi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và
quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên
quan đến vấn đề Pháp quyền.
Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Đây chính là ngọn đèn soi sáng
con đường đi của Người, là bước ngoặt đánh dấu sự biến đổi trong nhận thức,
Người đã hiểu sâu sắc và khẳng định con đường cứu nước đúng đắn mà mình
đã lựa chọn. Tháng 12/1920, Người tham gia vào Quốc tế Cộng sản III và
Đảng Cộng sản Pháp.
19
Năm 1925, Người viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”, đây là một bản
cáo trạng của chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng và chủ nghĩa tư bản đế quốc
nói chung. Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo, lên án đanh thép những tội ác tày trời
của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội với những chứng cứ xác thực. Tác phẩm cũng chỉ rõ mối quan hệ mật
thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc, khẳng định
cách mạng thuộc địa là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc dưới tên ông giáo Vương đã viết tác phẩm
“Đường Kách mệnh”, trong đó có đoạn: “ Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh
thì phải làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi, thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một số ít người thế mới khỏi hy sinh
nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.[26, 270]
Đó là sự đúc rút kinh nghiệm qua tìm tịi khảo nghiệm các cuộc cách
mệnh mang ý nghĩa tự do - bình đẳng - bác ái. Đánh giá về cuộc cách mạng
Mỹ, Người chỉ rõ: “Tuy Tun ngơn độc lập 1776 của Mỹ có câu rằng: “Giời
sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn
cho sung sướng…Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng thì dân chúng
phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên Chính phủ khác”, “bây giờ chính phủ
Mỹ lại khơng cho ai nói đến chuyện cách
mệnh, ai đụng đến chính
phủ”[26,270]
Do vậy, Người kết luận: Cách mạng tư sản rồi, mà công nông vẫn cứ
cực khổ.
Đến với cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII, Người đánh giá: “Nhà
nước tư sản Pháp ra đời là thành quả của cuộc cách mạng 1789 lật đổ chế độ
phong kiến với khẩu hiệu nổi tiếng. “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. “Tư bản nó
dùng chữ tự do - bình đẳng - bác ái lừa dân, xui dân đánh đổ phong kiến. Khi
dân đánh đổ phong kiến rồi thì nó lại thay phong kiến mà áp bức
dân”.[23,270]
20
Người đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ,
nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa”.[26,274]
Từ đó, Người khẳng định: Cách mạng Việt Nam không thể đi theo
khuynh hướng dân chủ tư sản, nhà nước Việt Nam sau khi giành được độc lập
không mang bản chất tư sản.
Người đã dành nhiều tâm huyết khảo cứu cuộc cách mạng XHCN
tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng do giai cấp công nhân mà đội
tiên phong của nó là Đảng Bơnsêvích Nga lãnh đạo. Người nói: “Trong thế
giới bây giờ chỉ cịn cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, dân chủ, bình đẳng thật,
khơng phải tự do và bình đẳng và giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi
lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách
mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”.[26,283]
Người tìm thấy một mơ hình nhà nước kiểu mới: “Phát đất ruộng cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền…ra sức tổ chức kinh tế mới, để
thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”. [26,238].
Mơ hình nhà nước đó đã gợi ý cho Hồ Chí Minh về một kiểu nhà nước
sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
Đầu năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đánh đổ bọn đế quốc phong kiến làm cho đất
nước hoàn toàn được độc lập và dựng ra chính phủ cơng nơng binh”. Từ ý
tưởng về nhà nước công nông binh của Người đã trở thành hiện thực với mơ
hình Xơ Viết được thiết lập ở Nghệ An - Hà Tĩnh trong cao trào cách mạng
1930 - 1931. Đó là kiểu nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định
21
chọn cho dân tộc ta, một kiểu nhà nước mới theo học thuyết của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, của nhân dân
Việt Nam.
Và tất cả những điều đó đã được khẳng định bằng sự ra đời của nước
Việt Nam dân chủ cộng hịa, mà đánh dấu là bản Tun ngơn độc lập đã được
Người long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình
ngày 2/9/1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật
đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc
lập ấy”[24, 557].
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ. Trong những năm đầu của chính quyền nhân dân, tình hình đất nước
cực kỳ phức tạp: “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” hoành hành. Ngày
3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì cuộc họp Chính phủ, nêu rõ những
nhiệm vụ cấp bách của nhà nước, trong đó Người nhấn mạnh: “Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu,
để có một chính phủ của dân và do dân”. [28,133].
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, mọi công dân Việt
Nam không phân biệt già trẻ, trai gái, tôn giáo…nô nức đi bỏ phiếu, lựa chọn
những đại biểu của mình vào Quốc hội, để tạo ra bộ máy thực sự của dân , do
dân, vì dân. Sau cuộc Tổng tuyển cử thắng lợi, Quốc hội khóa I đã họp, Chính
phủ mới chính thức ra đời: “Chính phủ mới phải tỏ ra cái tinh thần đại đoàn
kết khơng phân biệt đảng phái…Tơi có thể tun bố trước Quốc hội rằng:
Chính phủ này tỏ ra cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú
trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất
lãnh thổ, cùng xây dựng một nước Việt Nam mới, Chính phủ này là Chính
phủ tồn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam , Bắc tham gia”.