Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Xây dựng thư viện điện tử tại trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội Thực trạng và giải pháp hòan thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







TRẦN THỊ MINH NGUYỆT








XÂY DỰNG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN – THƯ VIỆN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN




LUẬN VĂN THẠC SĨ THÔNG TIN THƯ VIỆN











HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ MINH NGUYỆT






XÂY DỰNG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN – THƯ VIỆN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ
NỘI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành Khoa học thư viện
Mã số: 60 32 20




LUẬN VĂN THẠC SĨ THÔNG TIN THƯ VIỆN


Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Huy Chương



HÀ NỘI - 2010

1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài: 4
6. Thời gian thực hiện 4
7. Bố cục luận văn. 4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THƢ VIỆN ĐIỆN TỬ VÀ XU HƢỚNG
PHÁT TRIỂN THƢ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI
HỌC TẠI VIỆT NAM 6
1.1. Thư viện điện tử và các yếu tố cấu thành thư viện điện tử 6
1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử 6
1.1.2. Đặc điểm thư viện điện tử 9
1.1.3. Tầm quan trọng của thư viện điện tử 10
1.1.4. Các yếu tố cấu thành thư viện điện tử 11
1.2. Khả năng và xu hướng phát triển thư viện điện tử trong các trường Đại
học tại Việt Nam 13

1.3. Khái quát về Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà
Nội 18
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển 18
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ 21
1.3.3. Cơ cấu tổ chức 22
1.3.4. Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ 24
1.3.5. Nguồn lực thông tin 24
1.3.6. Đặc điểm nhu cầu tin 27
CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG THƢ VIỆN ĐIỆN TỬ TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN THƢ VIỆN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 32
2.1. Giai đoạn thí điểm ứng dụng công nghệ thông tin tại Trung tâm (1997 -
2001) 32

2

2.1.1. Những ngày đầu thành lập Trung tâm (1997): Áp dụng CDS/ISIS
32
2.1.2. Giai đoạn 1997-2001: Sử dụng chương trình xử lý kiểu MARC 34
2.2. Giai đoạn từ năm 2002 hết quý I năm 2008: Quản lý thư viện bằng
phần mềm thư viện tích hợp Libol 37
2.2.1. Tiêu chí lựa chọn phần mềm quản trị thư viện 37
2.2.2. Triển khai áp dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp Libol tại
Trung tâm 39
2.2.3. Hệ thống thu thập, xử lý và khai thác tài nguyên điện tử 55
2.2.4. Cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật công nghệ 59
2.2.5. Nguồn tin điện tử 63
2.3. Giai đoạn từ quý II năm 2008 đến nay: Dự án đầu tư chiều sâu của
ĐHQGHN 64
2.3.1. Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và công nghệ 65
2.3.2. Phần mềm thư viện điện tử Virtual 70

2.3.3. Tạo lập và phát triển tài nguyên số- vấn đề trọng tâm trong xây
dựng TVĐT 72
2.3.4. Cán bộ thư viện trong môi trường điện tử. 77
2.3.5. Người dùng tin trong thư viện hiện đại 79
CHƢƠNG 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THƢ VIỆN ĐIỆN
TỬ TẠI TRUNG TÂM TRONG THỜI GIAN TỚI 83
3.1. Những khó khăn gặp phải trên bước đường hoàn thiện thư viện điện tử.
83
3.1.1. Ngân sách được cấp hàng năm còn hạn chế 83
3.1.2. Diện tích, môi trường làm việc và phục vụ bạn đọc còn thiếu và
không đảm bảo điều kiện cảnh quan. 83
3.1.3. Trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng làm việc 84
3.1.4. Chưa nhận được sự phối hợp tích cực từ các đơn vị đào tạo trong
các công tác chuyên môn 84
3.1.5. Công tác tuyên truyền, quảng bá nguồn lực thông tin còn chưa thật
phong phú, đa dạng 85

3

3.1.6. Chưa thu hút được nhiều bạn đọc là cán bộ nghiên cứu, giảng dạy
trong ĐHQGHN. 85
3.2. Định hướng phát triển thư viện điện tử tại Trung tâm trong thời gian tới
86
3.3.1. Tiếp tục nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin 86
3.3.2. Hoàn thiện phần mềm Virtual phù hợp với hoạt động của Trung
tâm 87
3.3.3. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
nhằm đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới. 88
3.3.4. Phát triển nguồn thông tin đa dạng, phong phú phù hợp với yêu
cầu, chương trình đào tạo của ĐHQGHN. 90

3.3.5. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền và
quảng bá nguồn lực thông tin. 91
3.3.6. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng phục vụ và nâng
cao chất lượng phục vụ bạn đọc. 92
3.3.7. Đào tạo người dùng tin 93
3.2.8. Hợp tác và liên kết 94
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1



1

Các từ viết tắt trong luận văn
AACR: Quy tắc biên mục Anh – Mỹ
(Anglo- American Cataloging Rules)
CD-ROM Đĩa quang chỉ đọc
(Compact Dirk- Read Only Memory)
CNTT: Công nghệ thông tin
CSDL: Cơ sở dữ liệu
DDC Khung phân loại thập tiến Dewey
(Dewey Decimal Classification)
ĐH Đại học
ĐHKHTN Đại học Khoa học Tự nhiên
ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội
IFLA Hiệp hội thư viện Quốc tế
(Information Federation of Library Associations and
Institutions)
ISBD Mô tả thư mục theo tiêu chuẩn Quốc tế

(International Standard Bibliographic Description)
Libol Phần mềm giải pháp Thư viện điện tử
(LIBrary OnLine)
MARC Biên mục máy tính đọc được
(Machine Readable Catalog )
NDT Người dùng tin
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TT-TV: Thông tin - thư viện
TVĐT Thư viện điện tử

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Splitter.
A watermark is added at the end of each output PDF file.
To remove the watermark, you need to purchase the software from
/>
1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, sự
hội tụ của các công nghệ hiện đại và chi phí ngày càng giảm đang tạo ra
những khả năng, phương thức trao đổi, giao dịch, tư duy làm việc mới cho
con người, đặc biệt mang lại những cơ hội to lớn cho những nước đang phát
triển, tạo khả năng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng
bước phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin đang thay thế dần các phương tiện thủ công, mọi
loại hình từ quản trị một bộ máy đến cách thức tiếp nhận kiến thức của mỗi cá
nhân… cũng đang từng bước được số hóa. Trong bối cảnh đó, công tác thông
tin-thư viện cũng đã, đang và sẽ tiếp tục có những biến đổi sâu sắc với sự hiện
hữu của môi trường điện tử trong hoạt động. Xây dựng thư viện điện tử là xu
thế khách quan hiện nay nhằm thoả mãn nhu cầu tìm kiếm, khai thác và sử

dụng thông tin của con người trong kỷ nguyên mới- kỷ nguyên của tri thức,
từng bước đưa thư viện Việt Nam hòa nhập với mạng thông tin- thư viện các
nước trong khu vực và thế giới.
Cơ quan thông tin – thư viện trực thuộc các trường đại học lấy giáo dục
là tiêu chí hoạt động. Đối tượng dùng tin của họ chủ yếu là sinh viên, giảng
viên và các nhà nghiên cứu nên có sự đòi hỏi rất cao tính khoa học, tính mới
của thông tin. Với vai trò là người bạn đồng hành, trợ thủ đắc lực của giáo
viên và sinh viên trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học Trung tâm
Thông tin – Thư viện các trường Đại học phải tư vấn, giúp đỡ giáo viên và
sinh viên trong việc tìm kiếm nguồn thông tin, khai thác thông tin thông qua
các hoạt động, đặc biệt là thông tin điện tử.
Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những cơ quan đầu ngành trong
hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, nơi đào tạo đội ngũ những nhà khoa

2

học, cán bộ, những nhà quản lý, doanh nghiệp có trình độ cao cho đất nước.
Ngay từ khi thành lập, ban Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã xác định
được tầm quan trọng của hoạt động thông tin thư viện trong việc cung cấp
nguồn tin, thúc đẩy quá trình tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên, nâng cao
chất lượng giáo dục. Trung tâm Thông tin thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
được thành lập theo quyết định số 66/TCCB ngày 14/2/1997 trên cơ sở hợp
nhất các thư viện thành viên của các trường đại học thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội. Với mục tiêu phát triển Trung tâm Thông tin - Thư viện trở thành
Trung tâm khai thác, cung cấp tài nguyên tri thức hiện đại được quản lý, vận
hành ở trình độ quốc tế, có khả năng phục vụ và đáp ứng cao yêu cầu nghiên
cứu khoa học và đào tạo đẳng cấp quốc tế của ĐHQGHN. Đồng thời xây
dựng Trung tâm trở thành đầu mối liên kết các trung tâm thông tin thư viện
đại học trong cả nước, cũng như là đầu mối quốc gia kết nối với mạng thông
tin quốc tế, góp phần vào việc mở rộng quan hệ trao đổi thông tin với các

trường đại học tiên tiến trong khu vực và thế giới, lãnh đạo Trung tâm đã xác
định phải từng bước xây dựng thành công thư viện điện tử. Dự án đầu tư
chiều sâu “Xây dựng và phát triển thư viện điện tử tại Trung tâm Thông tin-
Thư viện, ĐHQGHN nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nghiên cứu khoa học
và đào tạo đẳng cấp quốc tế” đã được Ban giám đốc Đại học Quốc gia Hà
Nội phê duyệt. Dự án đã được thực hiện và đang vào giai đoạn sử dụng thử
nghiệm kết quả tại các thư viện trực thuộc Trung tâm. Những ý kiến đánh giá
phản hồi từ các chuyên gia và người dùng tin là cơ sở để hoàn thiện dự án.
Mặt khác, xây dựng thư viện điện tử đang là xu thế phát triển và mục
tiêu hướng tới của hầu hết các cơ quan thông tin trong nước, đặc biệt là hệ
thống thư viện các trường đại học. Đề tài “ Xây dựng thư viện điện tử tại
Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội- Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện” là một đề tài mang tính thời sự và khoa học rất cao trong
giai đoạn hiện nay, là cơ sở kinh nghiệm, định hướng cho thư viện các trường

3

đại học khác trước khi bắt tay vào xây dựng thư viện điện tử. Chính vì thế tôi
lựa chọn đề tài này làm đề tài luận văn thạc sỹ Khoa học Thư viện với mong
muốn vận dụng những kiến thức, kỹ năng tiếp thu được trong khóa học, từ đó
nghiên cứu và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động thông tin thư viện trong hệ thống thư viện các trường Đại học ở Việt
Nam.
2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở khảo sát hoạt động tin học hoá tại Trung tâm Thông tin thư
viện đưa ra các giải pháp hoàn thiện thư viện điện tử nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội
Mục tiêu nghiên cứu:
+ Khảo sát, đánh giá nguồn lực thông tin hiện có- cơ sở để xây dựng

một thư viện hiện đại
+ Nghiên cứu quy trình xây dựng thư viện điện tử tại Trung tâm
+ Đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế trong quá trình xây dựng
thư viện điện tử để phục vụ ngày càng hiệu quả hơn hoạt động nghiên cứu và
học tập của người dùng tin
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thư viện điện tử tại Trung tâm Thông tin thư
viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu
- Điện tử hoá toàn bộ chu trình đường đi của tài liệu
- Quy trình tạo lập và bổ sung bộ sưu tập số
- Đánh giá các dịch vụ dành cho người dùng tin trong và ngoài Đại học
Quốc gia Hà Nội

4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp chuyên gia, điều tra bằng phiếu hỏi,
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài:
- Về mặt khoa học: Hoàn thiện lý luận khi tiến hành xây dựng thư viện
điện tử phù hợp với điều kiện thư viện đại học ở Việt Nam
- Về mặt ứng dụng: hoàn thiện các bước xây dựng một thư viện điện tử
tại Việt Nam
6. Thời gian thực hiện: 1 năm (12/2009 – 12/2010)
7. Bố cục luận văn.
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
6. Thời gian nghiên cứu
Phần nội dung
Chương 1: Tổng quan về thư viện điện tử và xu hướng phát triển thư
viện điện tử trong các trường đại học tại Việt Nam


5

Chương 2. Xây dựng thư viện điện tử tại Trung tâm Thông tin Thư viện
Đại học Quốc gia Hà Nội
Chương 3. Đề xuất giải pháp hoàn thiện thư viện điện tử tại Trung tâm
trong thời gian tới
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

























6

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THƢ VIỆN ĐIỆN TỬ VÀ XU HƢỚNG
PHÁT TRIỂN THƢ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
1.1. Thƣ viện điện tử và các yếu tố cấu thành thƣ viện điện tử
Sách là sản phẩm quan trọng để bảo lưu, truyền bá và phát triển tri
thức. Để bảo quản sách, cách đây hơn 2000 năm, các triều đại, các trung tâm
tôn giáo đều thành lập thư viện. Thư viện ngày nay khác xa so với thư viện
truyền thống. Trong thư viện không những có sách, mà còn có sách điện tử,
báo, tạp chí và các vật mang tin hiện đại khác. Thư viện không chỉ phục vụ
cho đối tượng trí thức và các tầng lớp trên, mà còn là nơi phục vụ rộng rãi cho
mọi tầng lớp trong xã hội. Thông tin đã trở thành nhân tố cơ bản quyết định
sự phát triển của một quốc gia. Mặt khác, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin và Internet cho phép người sử dụng dễ dàng tiếp cận
thông tin từ xa. Chính vì vậy, sự xuất hiện của thư viện điện tử có thể nói như

một xu thế tất yếu nhằm thoả mãn nhu cầu tìm kiếm, khai thác và sử dụng
thông tin của con người trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của tri thức
1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử
Mặc dù hiện nay nhiều trường đại học, cao đẳng cho biết đã xây dựng
được thư viện điện tử nhưng cách hiểu về thư viện điện tử, vẫn chưa đầy đủ,
từ đó dẫn đến việc xây dựng nặng về hình thức mà không chú trọng đến nội
dung hoạt động. Song, ngay trong giới thông tin- thư viện cũng còn đang
tranh cãi để tìm ra một khái niệm thống nhất về vấn đề này.
Trong cuốn “Từ điển dành cho công tác thư viện và khoa học thông
tin” của Nhà xuất bản Libraries Unlimited in năm 2005, tác giả Joan M.Reitz

7

đã khẳng định không còn phân biệt giữa khái niệm thư viện điện tử và thư
viện số. Như vậy, phải hiểu hai khái niệm này chính là một. Vì vậy xây dựng
thư viện điện tử là phải biết chọn lọc, sưu tầm và tổ chức thông tin có ý nghĩa
và hữu ích nhằm đáp ứng đúng yêu cầu của người sử dụng
Có thể hiểu khái niệm thư viện điện tử (electronic library) là tin học
hóa, điện tử hóa toàn bộ các quá trình hoạt động của một thư viện truyền
thống.
Cùng quan điểm với Joan M.Reitz, một chuyên gia trong ngành thư
viện cho rằng: thư viện điện tử cũng chính là thư viện số, đó là nơi mà toàn
bộ các tài liệu của thư viện đó được số hoá và được quản lý bằng một phần
mềm chuyên nghiệp có tổ chức để người dùng tin dễ dàng truy cập, tìm kiếm
và xem được nội dung toàn văn của chúng từ xa thông qua hệ thống mạng
thông tin và các phương tiện truyền thông .
Theo tác giả Vũ Văn Sơn: “Thư viện điện tử là hình thức kết hợp giữa
thiết bị tính toán, lưu trữ và truyền thông số với nội dung và phần mềm cần
thiết để tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ của các thư viện truyền thống
vốn dựa trên các biện pháp thu thập, biên mục và phổ biến thông tin trên giấy

và các vật liệu khác”
Tuy ý kiến chưa hoàn toàn thống nhất, nhưng tựu chung lại, thư viện
điện tử phải sử dụng các phương tiện điện tử trong thu thập, lưu trữ, xử lý, tìm
kiếm và phổ biến thông tin. Đây là nơi phối hợp giữa các nhà thư viện học,
nhà xuất bản, các nhà khoa học và công nghệ nhằm tiếp cận tới tới đầy đủ
thông tin, ở mọi nơi và mọi lúc. Một thư viện điện tử vừa là nơi phổ biến các
nguồn tin điện tử nhưng đồng thời cũng tham gia vào việc tạo ra các nguồn tin
đó.
Chúng ta cũng cần có sự phân biệt giữa thư viện điện tử, thư viện số,
thư viện ảo.

8

Theo định nghĩa của Liên hiệp Thư viện số Hoa Kỳ năm 1999: Thư
viện số là các cơ quan, tổ chức có các nguồn lực, kể cả các nguồn nhân lực
chuyên hóa, để lựa chọn, cấu trúc, cung cấp việc truy cập đến, diễn giải, phổ
biến, bảo quản sự toàn vẹn, đảm bảo sự ổn định trong thời gian dài của sưu
tập công trình số hóa mà chúng ở dạng sẵn sàng để sử dụng một cách kinh tế
cho một hoặc một số cộng đồng nhất định.
Theo tác giả Vũ Văn Sơn: “Thư viện số là hình thức kết hợp giữa thiết
bị tính toán, lưu trữ và truyền thông số với nội dung và phần mềm cần thiết để
tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ của các thư viện truyền thống vốn
dựa trên các biện pháp thu thập, biên mục và phổ biến thông tin trên giấy và
các vật liệu khác”
Trong “bài giảng môn thư viện điện tử” của TS. Nguyễn Huy Chương:
“Thư viện số (TVS) là một bước tiến xa hơn của thư viện điện tử, cho phép
đọc được thông tin toàn văn cá tư liệu dưới dạng đồ họa và đa phương tiện”
Tóm lại, thư viện điện tử được hiểu là nơi lưu trữ nguồn thông tin số
hóa, đặc biệt là thông tin toàn văn, đồng thời sử dụng các phương tiện điện tử
trong thu thập, lưu trữ, xử lý, tìm kiếm và phổ biến thông tin

Có thể nhận dạng sự khác biệt giữa thư viện điện tử và thư viện số như
sau:
Thư viện điện tử
Thư viện số
- thư viện điện tử lưu trữ và phục
vụ cả ấn phẩm (tài liệu dạng giấy
truyền thống) và tài liệu số hóa
- thư viện số chỉ lưu trữ các tư liệu
điện tử

Trong thời đại số hiện nay còn xuất hiện một khái niệm nữa là thư viện
ảo.
Thư viện ảo được xây dựng trên cơ sở công nghệ, nhấn mạnh đến tính
chất "phi không gian" của loại hình thư viện này về phương diện vốn tư liệu

9

và dịch vụ. Loại hình thư viện không có kho riêng, mà phụ thuộc vào kho của
các thư viện khác. Thư viện ảo còn gọi là thư viện không tường [8]. Bất cứ
thư viện nào tạo điều kiện cho người đọc tiếp cận được những tư liệu nằm tại
bất cứ nơi nào khác trên thế giới đều có thể được coi là "thư viện ảo". Nói
cách khác, thư viện ảo không phụ thuộc vào một địa điểm cố định và cho
phép truy nhập thông tin từ xa thông qua mạng. Đây cũng chính là đặc điểm
để các nhà quản lý và hoạch định chính sách căn cứ vào để phân định với thư
viện điện tử.
Thư viện điện tử
Thư viện ảo
-thư viện điện tử có một địa điểm
cụ thể, hữu hình, nơi bạn đọc hay
người sử dụng có thể tới để nhận

những sản phẩm và dịch vụ được
cung cấp dưới dạng điện tử
-thư viện ảo cung cấp cổng vào tới
thông tin số ở ngoài thư viện

1.1.2. Đặc điểm thư viện điện tử
Hiện nay chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá một thư viện
điện tử tiêu biểu, song có thể tổng kết lại một số đặc điểm như sau:
- Các TVĐT đều được bố trí trên giao diện Web
- Một TVĐT phải có hạ tầng cơ sở đủ mạnh, bao gồm: Mạng Inrtranet
có tốc độ kết nối nhanh với mạng Internet, hệ thống máy chủ lớn thực hiện
việc quản trị và các dịch vụ khác nhau (máy chủ web, máy chủ sao lưu, tường
lửa, máy chủ phục vụ các ứng dụng khác), hệ thống máy trạm để truy cập và
tiếp cận thông tin, các thiết bị công nghệ chuyên dụng phục vụ cho thư viện
điện tử (mã vạch, thiết bị quản lý kho sách bằng công nghệ từ tính,…) [24]
- Thư viện phải tạo lập và phát triển kho tư liệu số (số hóa tài liệu từ
dạng giấy sang dạng số, bổ sung/tích hợp nguồn tin điện tử thông qua mua tài

10

liệu nước ngoài đang được xuất bản cả dạng giấy và dạng điện tử quyền truy
cập, mua quyền truy cập các cơ sở dữ liệu của các nhà xuất bản lớn trên thế
giới, )
- Sử dụng phần mềm thư viện điện tử- là một hệ quản trị thư viện tích
hợp với đầy đủ các modul như: bổ sung, biên mục, xuất bản phẩm định kỳ,
lưu thông, OPAC, bạn đọc, mượn liên thư viện, phát hành, quản lý, tư liệu
điện tử; phải nối mạng LAN, Internet
- Phải cung cấp và tạo điều kiện cho người dùng sử dụng các dịch vụ
điện tử như: yêu cầu và gia hạn mượn qua mạng, tìm tin trong các cơ sở dữ
liệu, truy nhập và khai thác các nguồn tin tại chỗ và với tới các nguồn tin ở

nơi khác,
1.1.3. Tầm quan trọng của thư viện điện tử
Thế kỷ 21, thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất của xã
hội. Hiện tượng bùng nổ thông tin và nhu cầu thông tin, cuộc cách mạng công
nghệ thông tin và xu hướng toàn cầu hóa đã đặt ra cho ngành Thư viện nhiều
thời cơ và thách thức. Thư viện điện tử trở thành hình mẫu lý tưởng của các
thư viện trên thế giới. Ở Việt Nam, hệ thống máy tính đã, đang và tiếp tục
được trang bị tại các thư viện hiện nay, khả năng xây dựng các thư viện điện
tử, thư viện số sẽ trở thành hiện thực. Thư viện điện tử sẽ cung cấp các
phương tiện cho phép xem vô tuyến vệ tinh, truyền hình cáp, tiếp cận các cơ
sở dữ liệu quốc tế và dịch vụ thư viện tại nhà, các trạm tương tác CD-I
(Compact Disk-Interactive), các trạm để xem phim, mục lục công cộng trực
tuyến (Online Public Access Catalogue) và hệ thống cho mượn tự động. Mặc
dù hiện nay các thư viện còn rất nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, vấn đề đào tạo cán bộ, khả năng tài chính v.v. nhưng việc hình
thành, xây dựng các thư viện điện tử là hết sức cần thiết trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

11

- Với sự phát triển rộng rãi của mạng Internet, người sử dụng không
cần trực tiếp đến thư viện mà chỉ cần ngồi ở bàn làm việc và truy cập vào
trang web của cơ quan/ tổ chức thông tin sẽ tìm được tài liệu cần thiết.
- Một trong những lợi thế của thư viện điện tử là công nghệ và tài
nguyên số, do vậy người dùng tin có thể đánh giá ngay được sự thuận tiện và
tính thân thiện cao của hệ thống tra cứu và lưu truyền thông tin từ các nguồn
với nhau.
- Khách hàng của một thư viện hiện đại không còn khái niệm giờ phục
vụ như trước đây. Mọi khoảng cách về không gian và thời gian dường như
được xóa bỏ hoàn toàn khi sử dụng các dịch vụ và tiện ích tại các thư viện

này.
- Một yếu tố bắt buộc khi xây dựng một thư viện điện tử đó là hoàn
thành quá trình mượn liên thư viện. Tính mở của một thư viện hiện đại rất
được đề cao. Khi truy cập vào CSDL của một cơ quan thông tin, người dùng
tin có thể tìm kiếm thông tin cần thiết tại các thư viện khác trong khu vực và
trên thế giới thông qua các đường link của dịch vụ thông tin liên kết.
- Thông tin trong thư viện điện tử luôn luôn được cập nhật do đó tính
mới, tính thời sự là một thế mạnh để thu hút được người dùng tin tìm đến và
sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của họ.
1.1.4. Các yếu tố cấu thành thư viện điện tử
Phát triển thư viện truyền thống thành thư viện điện tử là xu thế tất yếu
của tất cả các quốc gia. Để xây dựng thành công một thư viện điện tử đòi hỏi
sự xem xét kỹ lưỡng các điều kiện cần thiết trước khi bắt tay vào thực hiện.
Cho dù thư viện đó có hiện đại đến đâu thì nó cũng phải tập trung vào bốn
yếu tố cấu thành một thư viện, cũng phải đảm bảo tốt chức năng kết nối con
người với thông tin, bao gồm: vốn tài liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật và công
nghệ, đội ngũ cán bộ và người dùng tin. Song những yếu tố đó phải được nhìn

12

nhận dưới tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin hiện đó. Cụ
thể,
- Tài nguyên số. Mức độ đồ sộ, phong phú của nguồn tin điện tử là cơ
sở quan trọng nhất để đánh giá chất lượng của một thư viện hiện đại. Một vấn
đề đáng quan tâm nhất đối với nguồn tin số chính là các cơ sở dữ liệu toàn
văn. Đây chính là ưu thế rút ngắn khoảng cách về địa lý và thời gian giữa
cộng đồng và thư viện, giúp người dùng tin dễ dàng tiếp cận với tài liệu gốc,
chia sẻ thông tin thuận lợi thông qua mạng Internet mà không cần đến thư
viện. Tuy nhiên, một vấn đề luôn luôn được đặt ra đó là bản quyền. Bản
quyền là cách làm truyền thống để bảo vệ quyền sở hữu thông tin của nhà

xuất bản và sự kiểm soát của họ đối với việc phổ biến thông tin và liên quan
đến việc thu phí sử dụng/truy cập.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ. Để phát huy tối đa tác dụng
của tài nguyên số thì phương thức lưu truyền không thể thiếu đó là công nghệ
hiện đại, đặc biệt là vai trò của công nghệ thông tin. Nền tảng công nghệ của
thư viện điện tử là Internet và World Wide Web. Công nghệ càng hiện đại,
phần mềm thư viện càng thân thiện với người dùng, khả năng trao đổi liên thư
viện càng cao thì càng phát huy được tối đa chức năng của thư viện điện tử,
tri thức ngày càng phong phú, nối kết mọi người trên toàn thế giới lại gần với
nhau hơn. Để quản lý một thư viện điện tử rất cần thiết phải lựa chọn phần
mềm tích hợp trong đó bao gồm đầy đủ các modul cần thiết cho toàn bộ hoạt
động của thư viện, đồng thời tuân thủ mọi chuẩn quốc tế như ISO 2709, khổ
mẫu MARC, sử dụng bảng phân loại thập phân Dewey, cổng liên kết Z39.50,
làm việc trên môi trường Web,…
- Đội ngũ cán bộ. Con người là chủ thể của mọi hoạt động. Trong quá
trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ thư viện truyền thống sang thư viện
điện tử, vai trò của cán bộ thư viện có sự khác biệt rõ rệt. Từ vị trí của một thủ
thư đơn thuần, thu động trong công việc thì nay họ phải có đầy đủ các tiêu

13

chuẩn của một chuyên gia thông tin, tư vấn giúp người dùng tin định hướng
nguồn tin cần tìm, bao gói thông tin
- Người dùng tin. Đây là đối tượng cần hướng tới của bất kỳ một loại
hình thư viện nào, ở bất kỳ một giai đoạn nào. Thư viện phát triển theo nhu
cầu đòi hỏi và trình độ phát triển tư duy của xã hội, của người dùng tin. Các
sản phẩm và dịch vụ mà các thư viện điện tử tạo ra đều nhằm mục đích phục
vụ tốt nhất, kịp thời nhất cho người dùng tin.
Xây dựng thư viện điện tử là xu thế khách quan để thư viện Việt Nam,
cụ thể là hệ thống thư viện các trường đại học có thể hòa nhập với mạng TT-

TV các nước trong khu vực và thế giới. Do đó, các nhà lãnh đạo đầu ngành
cần có sự định hướng chiến lược cho thư viện trong giai đoạn hội nhập hiện
nay.
1.2. Khả năng và xu hƣớng phát triển thƣ viện điện tử trong các
trƣờng Đại học tại Việt Nam
Trung tâm Thông tin- Thư viện trực thuộc các trường đại học từ lâu đã
trở thành giảng đường thứ hai của các sinh viên, học viên. Nơi đây cung cấp
đầy đủ các kiến thức cần thiết, bổ trợ cho quá trình học tập, nghiên cứu trên
lớp và cũng là con đường tiếp cận nhanh nhất, chính thống nhất tới các nghiên
cứu khoa học, triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thư viện chính là môi trường cung cấp dữ liệu, thông tin. Thư viện
trường đại học cũng như các loại hình thư viện khác đóng vai trò tích cực
trong đổi mới giáo dục, biến thông tin trở thành tri thức cho cộng đồng.
Xã hội thông tin đang phát triển mạnh mẽ và mang tính quốc tế. Nó tác
động đến mọi lĩnh vực đời sống- kinh tế- xã hội và trở thành nhu cầu tất yếu
trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Xu thế này không loại trừ bất kỳ quốc gia
nào và tất cả đều đang quan tâm đến việc dùng thông tin tri thức nói chung,
thông tin khoa học và công nghệ nói riêng để tạo thế cạnh tranh, khẳng định

14

chỗ đứng của họ trong một thị trường toàn cầu đa dạng và năng động. Việt
Nam không nằm ngoài xu thế đó. Nghị quyết 49/CP ban hành năm 1993,
Chính phủ khẳng định quyết tâm phổ cập văn hóa thông tin trong xã hội nhằm
tạo môi trường thuận lợi cho việc chuẩn bị hướng tới một xã hội thông tin.
Đây là cơ hội và cũng là thách thức lớn đối với hoạt động thông tin và công
tác tổ chức quản lý hoạt động thông tin của Việt Nam.
Nghiên cứu diễn biến và sự phát triển của hoạt động thông tin cho thấy
việc xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu trong hoạt động thông tin thư
viện trở thành hoạt động chính và còn tiếp tục giữ vị trí chủ đạo cho tới hết

những thập niên đầu của thế kỷ 21.
Sử dụng các công nghệ thông tin mới để quản trị và trao đổi thông tin
từ đó tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực khai thác và sử dụng thông
tin là một phương hướng quan trọng trong hoạt động của các cơ quan thông
tin thư viện. Đến nay trong hệ thống thông tin thư viện ở Việt Nam các CSDL
đã được xây dựng và đưa vào khai thác. Thêm vào đó, bằng con đường đặt
muc hoặc trao đổi quốc tế, các cơ quan thông tin thư viện đã tích luỹ được
một lượng không nhỏ các CSDL nước ngoài về các lĩnh vực khác nhau. Đây
là nguồn lực đáng kể cho toàn hệ thống.
Sự phát triển của công nghệ thông tin- truyền thông và nguồn tin điện
tử, nhất là sau khi gia nhập WTO vào năm 2006 đã mở ra cho ngành thư viện
Việt Nam một cơ hội và thách thức lớn. Theo thạc sĩ Cao Minh Kiểm dịch từ
cuốn cuốn "The Library in the twenty-first Century: New Services for the
Information Age" (Thư viện thế kỷ 21 - những dịch vụ mới cho kỷ nguyên
thông tin) của tác giả Peter Brophy [21 ] thì 10 vấn đề có thể ảnh hưởng mạnh
mẽ tới sự phát triển của thư viện, làm biến đổi những hoạt động truyền thống
của thư viện, thậm chí có thể dẫn đến suy giảm vai trò của mô hình thư viện
truyền thống. Đó là:
-Xuất hiện công nghệ giấy điện tử (E-paper);

15

-Mô hình xuất bản mới (E-publishing) dựa trên lưu trữ điện tử và dịch
vụ tiền xuất bản (Pre-print service), các lưu trữ điện tử mở (Open archive);
-Hiệu sách trực tuyến (E-bookshop): người đọc được khuyến khích
mua tài liệu trực tiếp mà không cần đến thư viện;
-Thương mại điện tử (EcCommerse);
-Vô tuyến truyền hình số (Digital television): truyền thông băng rộng sẽ
tạo cho người sử dụng khả năng truy cập thông tin mạnh mẽ;
-Môi trường học tập tích hợp; thư viện không còn là nơi duy nhất cung

cấp tri thức lưu trữ nữa mà còn nhiều phương tiện khác;
-Trường đại học ảo (E-university);
-Thông tin di động, không dây;
-In ấn theo yêu cầu;
-Những vấn đề chưa biết tới.
Qua những sự kiện và xu hướng phát triển ngành thông tin thư viện
trong phạm vi toàn cầu, ngành thông tin thư viện Việt Nam phải có những
chuyển biến tích cực theo hướng chuẩn hóa, hội nhập để đi đến hoàn toàn liên
thông; từng bước biến thư viện từ kho chứa sách thành trung tâm hình thành
tri thức nhằm hỗ trợ tích cực cho việc giáo dục đào tạo.
Nắm bắt xu thế này, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
Đảng ta đã định ra đường lối phát triển ngành thư viện Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: " Phát triển mạng lưới thư viện,
hiện đại hóa công tác thư viện, lưu trữ…”. Tiếp đó, trong Kết luận của Hội
nghị lần thứ sáu BCHTW Khóa 9 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 2
Khóa 8 đã đề ra phương hướng phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công
nghệ từ nay đến 2005 và đến 2010 là: " Tổ chức hệ thống thông tin khoa
học và công nghệ quốc gia, các thư viện điện tử theo hướng hiện đại. Mở rộng
mạng thông tin để đưa tri thức, khoa học đến với mọi người ”. Nhà nước ta

16

đã cụ thể hoá đường lối trên thông qua các văn bản quy phạm pháp luật nhằm
hướng dẫn việc thực hiện một cách hệ thống và đồng bộ. Cụ thể:
Tại Điều 21, khoản 1 Pháp lệnh Thư viện ban hành ngày 28 tháng 12
năm 2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã khẳng định: "Đầu tư để đảm
bảo cho các thư viện hưởng ngân sách nhà nước hoạt động, phát triển và từng
bước hiện đại hóa cơ sở vật chất-kỹ thuật, điện tử hóa, tự động hóa thư viện”
Tại Điều 14, khoản 1 Nghị định 72/2002/NĐ-CP ban hành ngày 06
tháng 8 năm 2002 của Chính phủ đã cụ thể hóa chính sách của Nhà nước đối

với việc xây dựng các thư viện ở Việt Nam như sau: "Bảo đảm kinh phí cho
các thư viện phát triển vốn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật theo
hướng hiện đại hóa, từng bước thực hiện điện tử hóa, tự động hóa, xây dựng
thư viện điện tử và phát triển thư viện sử dụng kỹ thuật số ”.
Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt “Quy hoạch mạng lưới các trường Đại học-Cao đẳng Việt Nam
giai đoạn 2001-2010” đã nêu rõ: Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng
hoạt động thư viện; hình thành hệ thống thư viện điện tử kết nối giữa các
trường, từng bước kết nối với hệ thống thư viện của các trường đại học, thư
viện quốc gia của các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở cổng kết nối
Internet trực tiếp cho hệ thống giáo dục đại học.
Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 2 năm 2002 về Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001 –
2005 đã chỉ đạo: "từng bước điện tử hóa các thư viện nghiên cứu, các cơ sở
đào tạo, hình thành các kho thông tin điện tử công cộng quốc gia”
Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg ngày 03 tháng 05 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc Phê duyệt chương trình phát triển công nghiệp nội
dung số Việt Nam đến năm 2010, trong đó nhấn mạnh "Làm chủ các công
nghệ nền tảng trong công nghiệp nội dung số, sản xuất được một số sản phẩm
trọng điểm có khả năng cạnh tranh cao; hình thành hệ thống thư viện số trực

17

tuyến; xây dựng được một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành; cung cấp hiệu quả
các dịch vụ tư vấn khám, chữa bệnh và đào tạo từ xa.".
Quyết định cũng cũng nêu một số giải pháp cụ thể:
- Đầu tư cho Thư viện quốc gia và một số thư viện lớn ở các thành phố
trực thuộc Trung ương và các trường đại học xây dựng giải pháp thư viện số
trực tuyến, số hoá sách, báo, tài liệu để hình thành hệ thống thư viện số Việt
Nam;

- Đầu tư nghiên cứu, phát triển các tài liệu, học liệu phục vụ giáo dục từ
xa, học tập điện tử (e-learning), đặc biệt là các bài giảng, bài tập, các từ điển
điện tử; các thí nghiệm ảo về vật lý, hóa học, sinh học.
Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT ngày 4 tháng 5 năm 2007 của Bộ
Văn hóa Thông tin về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành thư viện
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã nêu rõ mục tiêu
phát triển chủ yếu đối với thư viện các trường trung cấp, cao đẳng, đại học:
- Nâng cấp thư viện các trường đại học: xây dựng mới, tu bổ lại trụ sở
thư viện, tạo cho các thư viện hiện đại về cơ sở vật chất và trang thiết bị;
phong phú về tài liệu;
- Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, lấy đó làm đòn bẩy quan
trọng nhất trong quá trình hiện đại hóa thư viện.
Với những căn cứ pháp lý trên đã khẳng định được sự quan tâm của
Đảng- Nhà nước đối với sự phát triển sự nghiệp thông tin- thư viện, đặc biệt
là hệ thống thư viện các trường đại học- nơi gắn liền với sự lớn mạnh của nền
giáo dục Việt Nam.
Hoạt động thông tin thư viện đại học phải luôn luôn bám sát mục tiêu,
định hướng phát triển của trường đại học, của hoạt động nghiên cứu đào tạo
nói chung. Cùng với sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà
nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là các Bộ chủ quản, hoạt động
của thư viện đại học đã có nhiều khởi sắc. Các dự án giáo dục đại học hiện đại

18

hóa thư viện của Chính phủ cùng nhiều dự án từ các nguồn tài chính khác đã
tạo cơ hội cho thư viện đại học có điều kiện phát triển.
Trung tâm Thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong
những đơn vị tiên phong trong việc tiếp cận công nghệ mới, cải tạo, nâng cấp
và dần chuyển đổi từ thư viện truyền thống sang thư viện điện tử một cách
khá thành công. Được sự đầu tư quan tâm của Nhà nước, sự chỉ đạo sát sao

của ban lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đã trở thành đầu mối
liên kết mạng lưới thư viện điện tử các trường Đại học phía Bắc với các khu
vực khác trong cả nước, tiến tới hoà mạng khu vực và thế giới
1.3. Khái quát về Trung tâm Thông tin - Thƣ viện, Đại học Quốc
gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những cơ sở đào tạo trọng điểm
trong hệ thống Đại học ở Việt Nam. Với mục tiêu đào tạo cho đất nước đội
ngũ cán bộ, các nhà khoa học, các nhà quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, ban
giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội xác định nhân tố nguồn tin đóng vai trò
quyết định. Bởi vậy ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Ban Giám đốc
Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm xây dựng và phát triển Trung tâm
Thông tin Thư viện theo mô hình hiện đại nhằm năng cao chất lượng giáo dục
của đơn vị
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển
Kể từ ngày 14/02/1997 khi Trung tâm Thông tin - Thư viện được thành
lập theo quyết định số 66/TCCB của Giám đốc Đại học Quốc gia đến nay đã
trải qua gần 15 năm xây dựng và trưởng thành. Trung tâm được hình thành
trên cơ sở hợp nhất thư viện của 3 trường đại học trực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội, đó là: Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm I Hà Nội, Đại học Sư
phạm Ngoại ngữ, có tên giao dịch quốc tế là Library and Information Center,

×