Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Cách ứng xử của Hồ Chí Minh với các nước lớn. Lịch sử và bài học (1945 - 1969

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 130 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
oOo





TRẦN MINH NGỌC




CÁCH ỨNG XỬ CỦA HỒ CHÍ MINH VỚI CÁC NƢỚC LỚN
LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC (1945-1969)




LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế








HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN MINH NGỌC


CÁCH ỨNG XỬ CỦA HỒ CHÍ MINH VỚI CÁC NƯỚC LỚN
LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC (1945 - 1969)



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60.31.02.06



Người hướng dẫn Khoa học: PGS.TS Phạm Ngọc Anh

-



HÀ NỘI - 2013



1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 10
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 11
8. Bố cục luận văn 11
NỘI DUNG 12
Chương 1: Cơ sở hình thành cách ứng xử Hồ Chí Minh trong quan hệ với các
nước lớn 12
1.1 Các khái niệm cơ bản 12
1.2. Cơ sở khách quan 14
1.2.1. Tiền đề tư tưởng – lý luận 14
1.2.2. Kinh nghiệm thế giới và điều kiện lịch sử 28
1.3. Nhân tố chủ quan – nhân cách và bản lĩnh Hồ Chí Minh 38
Chương 2: Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn thời kì 1945-1969. 41
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, nội dung và nguyên tắc quan
hệ quốc tế 41
2.1.1 Mục tiêu quan hệ quốc tế 41
2.1.2 Nội dung quan hệ quốc tế 46
2.1.3 Các nguyên tắc cơ bản 53
2.2.Thực tiễn ứng xử của Hồ Chí Minh với các nước lớn từ 1945 đến 1969 . 62



2
2.2.1 Ứng xử của Hồ Chí Minh nhm kêu gọi sự ủng hộ cách mạng và bảo vệ
chính quyền non tr 62
2.2.2 Ứng xử của Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp 65
2.2.3 Ứng xử của Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống M 67
Chương 3: Giá trị và bài học từ di sản ứng xử Hồ Chí Minh trong quan hệ với
các nước lớn (1945 - 1969) 71
3.1. Những giá trị từ di sản ứng xử của Hồ Chí Minh với các nước lớn 71
3.2. Một số bài học lớn 76
3.3. Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay 85
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC Error! Bookmark not defined.



3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ứng xử là cách thức, hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quan hệ quốc tế. Tư tưởng ngoại giao nói chung, ứng xử của Hồ Chí Minh nói
riêng đã tích hợp thành một hệ giá trị bền vững, đã được thực tiễn kiểm
nghiệm, rất cần được nghiên cứu, học tập và vận dụng. Ứng xử Hồ Chí Minh
là một phạm trù rộng, bao gồm hệ thống các quan điểm, tư tưởng được thể
hiện qua các tư liệu thành văn, bng các nguồn khác, nhất là thông qua hoạt
động thực tiễn đa dạng, phong phú của Người cần phải có sự san định, hệ
thống lại. Điều làm nên đặc sắc trong ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh là sự
thống nhất nhuần nhuyễn giữa tư tưởng, phương pháp, phong cách, đạt đến
trình độ nghệ thuật trong thực hành, kết tinh thành giá trị văn hoá.
Đặc biệt, giai đoạn 1945 - 1969 là giai đoạn mà Chính phủ và dân tộc

Việt Nam nói chung, ngoại giao Việt Nam nói riêng phải đối phó với những
vấn đề quốc tế vô cùng phức tạp, nan giải. Cũng chính trong hoàn cảnh khó
khăn đó mà ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong ứng phó với bên ngoài, thể
hiện được trí tuệ, bản lĩnh, tính khoa học và nghệ thuật trong đối ngoại, đạt
được những thành công lớn và để lại nhiều bài học quý báu, có ý nghĩa đến
tận ngày nay.
Ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng trong tiến
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là từ sau khi Người qua đời và đã đạt
được những thành tựu lớn lao. Những thắng lợi đó là những mốc son sáng
ngời được đánh dấu bng những sự kiện trọng đại không chỉ có ý nghĩa đối
với Việt Nam mà đối với cả nhân loại tiến bộ.
Ứng xử Hồ Chí Minh là sự hội tụ văn hóa Đông - Tây, kim - cổ, ẩn
chứa những giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại; là mẫu mực của


4
một nền văn hóa tương lai, rất cần được nghiên cứu đầy đủ, chi tiết để phổ
biến rộng rãi. Trong khi đó, lý luận về cách thức ứng xử và văn hóa ứng xử
của Việt Nam vâ
̃
n rất cần được hoàn thiện, đổi mới, nâng cao mà nguồn tư
liệu lại thiếu, chưa được hệ thống hóa, còn mang tính rời rạc, “kinh nghiệm”,
để xác lập vốn văn hóa ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên từng lĩnh vực
cụ thể còn chưa được đầu tư đúng mức, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu ứng
xử của Người trong đối ngoại còn thiếu hệ thống, chưa mang tính chuyên sâu.
Khả năng áp dụng các kiến thức cũ về lĩnh vực này chưa được bổ sung những
yếu tố mới của tình hình đang biến động hết sức phức tạp hiện nay. Nói cách
khác, tính thời sự các vấn đề khu vực và thế giới đòi hỏi sự bổ sung cũng như

điều chỉnh một số nội dung cho phù hợp với thực tiễn. Những nội dung lý
luận được áp dụng trong lịch sử có những nét tương đồng với hiện tại nhưng
cần sắp xếp, đối chiếu lại cũng như cách thức vận dụng phù hợp.
Hiện nay, bối cảnh mới của tình hình thế giới đang vận động theo
những xu hướng tác động đa chiều cùng với các vấn đề toàn cầu đang đặt ra
những thách thức trong quan hệ giữa các nước với nhau, đặc biệt là quan hệ
giữa các nước lớn cũng như nước lớn với nước nhỏ,… vấn đề ứng xử trong
bối cảnh đó như thế nào đòi hỏi chúng ta cần trở về với di sản Hồ Chí Minh.
Không những thế, tình hình còn có những chuyển biến nhanh chóng,
khó lường do sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực, khu vực ảnh hưởng cũng như
nảy sinh sự “chồng lấn” vai trò của các nước lớn đã và đang đặt ra cho đối
ngoại Việt Nam những yêu cầu về trí tuệ, bản lĩnh, khoa học, nghệ thuật…
trong đối ngoại, ngoại giao, đủ sức ứng phó với biến động phức tạp trong khu
vực và trên thế giới.
Một dấu hiệu cho thấy có những đặc điểm tương đồng với những bối
cảnh xuất hiện tình thế tương tự trong lịch sử: sự áp đặt giá trị, can thiệp của


5
các nước lớn, yêu cầu cân bng ảnh hưởng hài hoà giữa các nước lớn đối với
Việt Nam.
Trong thời gian tới, tình hình sẽ nảy sinh nhiều vấn đề nhạy cảm và
phức tạp, tranh chấp biển Đông sẽ là đề tài chủ yếu trong quan hệ quốc tế.
Kéo theo sẽ có thể là sự can thiệp và xung đột cục bộ,… khả năng kiềm chế
lẫn nhau của các nước có vai trò và ảnh hưởng vẫn cho phép kiểm soát động
thái các bên liên quan, tuy vậy không loại trừ những yếu tố bất ngờ. Chúng ta
cần có những đối sách cụ thể để ứng phó với diễn biến mới của tình hình,
cũng như những biện pháp cần thiết ứng phó trong trường hợp nảy sinh đột
biến. Nắm vững những nguyên tắc ứng xử Hồ Chí Minh là yêu cầu cần thiết
để “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

2. Lịch sử nghiên cứu
Di sản ngoại giao là một bộ phận hợp thành di sản Hồ Chí Minh, từ rất
sớm đã được vận dụng thành công trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Thế
nhưng, tư tưởng, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, nhất là
trong quan hệ với các nước lớn thì mới được nghiên cứu trong gần hai mươi
năm trở lại đây. Các thành tựu nghiên cứu theo chủ đề này được phản ánh
trong các công trình tiêu biểu trong và ngoài nước.
Trên thế giới, từ sau năm 1990, đã có nhiều công trình tiêu biểu của các
nhà nghiên cứu người Nga (Côbêlép, Aphônnhin, Vôrônhin ), Trung Quốc
(Hoàng Tranh ), Pháp, M tổng kết, đánh giá quan hệ giữa Hồ Chí Minh
với nước Nga (Liên Xô), Trung Quốc, Pháp, M theo nhiều lát cắt khác nhau,
chủ yếu là theo phương diện thống kê lịch sử.
Ở Việt Nam, trực tiếp hay gián tiếp có liên quan đến đề tài, đáng chú ý
là các công trình tiêu biểu sau đây.
Mai Văn Bộ (1989), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung cuốn sách tổng hợp, luận giải và phân tích


6
chiến lược tấn công ngoại giao, kết hợp công khai với bí mật, kết hợp chính
trị, quân sự, ngoại giao trong kháng chiến chống M cứu nước dưới sự chỉ
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lê Văn Yên (1998), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế
trong chiến lược giải phóng dân tộc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà
Nội. Tác phẩm chưa trực tiếp đề cập đến phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh
nhưng thông qua các quan điểm của Người về chiến lược đoàn kết quốc tế,
phong cách ngoại giao đã được thể hiện rõ.
Nhiều tác giả (1999), Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các bài viết của các tác giả đều đề cập
đến một hoặc một số nội dung, đặc điểm về hoạt động đối ngoại, ngoại giao

của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với những phẩm chất, phẩm cách của Người
được bộc lộ.
Nguyễn Thị Kim Dung (2000), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại
thời kỳ 1945 - 1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử. Nội dung luận án tập trung phân
tích, bàn luận, lý giải về đường lối đối ngoại của Đảng; tư tưởng, nghệ thuật
chỉ đạo chiến lược, sách lược ngoại giao Hồ Chí Minh đối với việc giữ vững
chính quyền cách mạng non tr thời kỳ đầu mới thành lập.
Nguyễn Dy Niên (2001), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn mới, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Những cuốn sách này đã đề cập một cách khái
quát, có tính hệ thống và tổng kết tư tưởng, phương pháp, phong cách tư duy,
phong cách ứng xử và phong cách diễn đạt trong ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Đặng Văn Thái (2004), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội


7
dung cuốn sách này tổng hợp và phân tích sự chỉ đạo và hoạt động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trên lĩnh vực đối ngoại và ngoại giao thời kỳ 1945 - 1954.
Đồng thời rút ra những đánh giá quan trọng về ngoại giao Hồ Chí Minh.
Phạm Chí Dũng (2004), Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Thanh Niên. Trong sách này, tác giả đã tập hợp các bài điện văn
chia buồn của bạn bè và nhân dân thế giới trước sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nhiều bài viết đã nêu bật lên tài năng cũng như phẩm chất của nhà
ngoại giao Hồ Chí Minh.
Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nhà
xuất bản Lý luận chính trị. Cuốn sách đề cập đến hệ thống phong cách Hồ Chí
Minh nói chung, nhưng trong đó, tác giả đã đưa ra nhiều dẫn chứng về hoạt

động đối ngoại, ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đình Bin (Chủ biên) (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 -
2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã khái quát quá trình đấu
tranh ngoại giao Việt Nam trong vòng 55 năm cùng với sự phân tích, luận giải
về đặc điểm và tính chất của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại; khái quát
những thành tựu và rút ra một số bài học kinh nghiệm trong hoạt động ngoại
giao; đồng thời nêu lên những thành công và hạn chế ở cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn của hoạt động ngoại giao Việt Nam.
Trần Minh Trưởng (2005), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ 1954 đến 1969, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Tác giả đã phân tích
những hoạt động đối ngoại, ngoại giao của Chủ tich Hồ Chí Minh giai đoạn
này làm nổi bật lên tài năng, phong cách của Người trong việc đối phó với tên
đế quốc đầu sỏ là M cũng như chiến lược đoàn kết quốc tế nhm tìm kiếm sự
ủng hộ của bạn bè thế giới đối với cách mạng Việt Nam, trong đó đặc biệt là
việc xử lý khôn khéo mối bất hoà Xô - Trung.


8
Nguyễn Sông Lam, Nguyễn Lam Châu (2007), Hồ Chí Minh trả lời
phỏng vấn báo chí, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. Hai tác giả đã tuyển
chọn những bài trả lời phỏng vấn báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
các nhà báo trong nước và nước ngoài. Nội dung các bài trả lời không chỉ thể
hiện rõ quan điểm, lập trường của Việt Nam về các vấn đề quốc tế mà còn thể
hiện được phong cách diễn đạt, ứng xử của Hồ Chí Minh về các vấn đề tng
quan hệ quốc tế.
Trần Đương, Nguyễn Thị Minh Hương (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh
với các chính khách quốc tế, Nhà xuất bản Thông Tấn, Hà Nội. Tác giả đã tập
hợp các bài viết kể về những cuộc gặp gỡ của Hồ Chí Minh với các chính
khách quốc tế và các bài viết của các chính khách về Hồ Chí Minh. Những
bài viết đó đã phản ánh sinh động phong cách Hồ Chí Minh trong ngoại giao.

Chu Trọng Huyến (2007), Hồ Chí Minh những cuộc gặp gỡ như định
mệnh, Nhà xuất bản Thuận Hoá. Cuốn sách kể về những cuộc gặp gỡ của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với những nhân vật có ảnh hưởng lớn cũng
như có sự giúp đỡ lớn lao đối với Người và với cách mạng nước ta. Những
nhân vật đó đã giúp đỡ tận tình và vô điều kiện vì cảm phục trước nhân cách
Hồ Chí Minh.
Đỗ Đức Hinh (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, một số nội
dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung hệ thống
và phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh.
Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao - Bộ Ngoại giao (2008), Bác Hồ và
hoạt động ngoại giao, một vài kỷ niệm về Bác, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Cuốn sách ghi lại một số sự kiện hoạt động ngoại giao Hồ Chí
Minh trên cương vị đứng đầu Nhà nước; thông qua hồi ký của một số nhà
lãnh đạo, những nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực ngoại giao, đối ngoại.


9
Cuốn sách phân tích một số hoạt động ngoại giao điển hình của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và những lời dặn dò của Bác đối với các các bộ làm công tác ngoại
giao.
Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và
vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách làm nổi bật những quan điểm cơ bản về hợp
tác, quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh; đồng thời đưa ra những nguyên tắc
trong hợp tác quốc tế; tiếp đó, trên cơ sở nhận định tình hình hiện nay và tư
tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, cuốn sách cũng chỉ ra những giải
pháp nhm nâng cao năng lực cạnh tranh của Viêt Nam và đề xuất vấn đề xây
dựng hành lang luật pháp về hợp tác quốc tế trên những nguyên tắc cơ bản mà
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thực hiện.

Phạm Bình Minh (2010), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam
đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách được trích từ kết quả
nghiên cứu đề tài KX.04.03/06-16: “Xu thế phát triển của cục diện thế giới
đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại của Việt Nam”. Trong đó
đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, trường phái ngoại giao Việt
Nam, về độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, về định hướng chiến lược đối
ngoại của Việt Nam và một số biện pháp nhm nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Võ Văn Sung (2010), Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách phân tích cơ sở, nguồn gốc
của ngoại giao Hồ Chí Minh là sự kết hợp những giá trị, những nét văn hóa
Đông - Tây, kim - cổ của dân tộc và nhân loại, hình thành nên một trường
phái ngoại giao mang những nội dung tư tưởng với bản sắc riêng - trường
phái ngoại giao Hồ Chí Minh


10
Những công trình khoa học đã công bố, mặc dầu, trên một số mặt có
điểm xuyết cách ứng xử của Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước, nhưng
chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu hệ thống để rút ra những bài học cần
thiết về cách thức ứng xử Hồ Chí Minh với các nước lớn. Đây là điểm mới cả
về nội dung và phương thức tiếp cận của đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ khả năng ứng xử tài tình của Hồ Chí Minh trong
hoạt động đối ngoại, ngoại giao với các nước lớn thời kỳ 1945 - 1969, đồng
thời rút ra những giá trị và bài học lịch sử phục vụ cho đối ngoại, ngoại giao
Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đặt ra, luận văn giải quyết các nhiệm
vụ:
+ Xác định cơ sở hình thành ứng xử Hồ Chí Minh trong quan hệ với

các nước lớn;
+ Phân kỳ lịch sử, hệ thống hóa cả quan điểm lý luận và hoạt động thực
tiễn ứng xử Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn thời kỳ 1945 - 1969;
+ Phân tích, đánh giá, rút ra ý nghĩa và bài học đối với Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Bối cảnh đất nước trong thời kỳ 1945 - 1969 và ứng xử
của Hồ Chí Minh với các nước lớn thời kỳ này.
- Phạm vi: Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1969 và hoạt động đối ngoại,
ngoại giao của Hồ Chí Minh từ 1945 đến 1969.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên phương pháp biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử thông qua việc phân tích cơ sở hình thành cách thức ứng xử của Hồ
Chí Minh cũng như việc lựa chọn những cứ liệu, dẫn chứng tiêu biểu phản


11
ánh rõ nét khả năng ứng xử Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt không chỉ trong
quá khứ mà ngay cả trong bối cảnh hiện nay.
- Đồng thời, Luận văn sử dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu,
lịch đại, phân tích, tổng hợp, khái quát, đánh giá, áp dụng trong nghiên cứu
quan hê
̣
quốc tế đê
̉
la
̀
m ro
̃
vấn đề.

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cách thức ứng xử Hồ Chí Minh, cũng như
thực tiễn ứng xử của Người, đặc biệt là trong quan hệ với các nước lớn. Ở
đây, không chỉ đơn thuần là ứng xử trong giao tiếp mà rộng hơn là cách thức
ứng phó của một Đảng, một dân tộc trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp.
Đồng thời đưa ra góc nhìn đối chiếu với tình hình hiện nay, từ đó rút ra những
bài học áp dụng các giá trị từ lịch sử ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn đi sâu nghiên cứu sự thống nhất giữa tư tưởng,
phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong một mối
quan hệ quốc tế cụ thể, từ đó đúc rút lại các giá trị bền vững và sức lan toả
của các giá trị đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam;
- Về thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
hoạch định chính sách đối ngoại, tài liệu giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan hệ quốc tế trong các học viện, nhà trường.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết





12
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁCH ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH TRONG
QUAN HỆ VỚI CÁC NƢỚC LỚN


1.1 Các khái niệm cơ bản
Quan hệ quốc tế là thuật ngữ được ghép bởi hai từ quan hệ và quốc tế.
Quan hệ ở đây được hiểu là sự gắn kết về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự
vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến
sự vật kia. Quốc tế dùng để chỉ các nước trên thế giới trong quan hệ với nhau.
Như vậy, quan hệ quốc tế là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa các quốc gia trên
thế giới, mà giữa các quốc gia này có sự liên kết, tác động qua lại lẫn nhau.
Đối ngoại cũng là một từ ghép Hán - Việt, trong đó đối tức là đối phó,
đối xử, đối sách, ứng đối, ứng xử…, ngoại là bên ngoài, nước ngoài. Ngày
nay, thuật ngữ đối ngoại được dùng để chỉ những cách thức được thể hiện chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quan hệ với các
nước, các tổ chức quốc tế. Ví dụ: Đường lối đối ngoại của Đảng, Chính sách
đối ngoại của Nhà nước…
Ngoại giao theo thuật ngữ Hán - Việt là từ ghép gồm “ngoại” tức là bên
ngoài, “giao” tức giao thiệp, quan hệ. Như vậy, ngoại giao là hoạt động giao
thiệp với người ngoài, bên ngoài, với nước ngoài nhm bảo vệ quyền lợi của
mình, nước mình. Trong lịch sử, hoạt động ngoại giao giữa hai nước còn
được gọi bng thuật ngữ bang giao, khi chúng ta dùng từ này cũng có nghĩa
chỉ sự giao hảo giữa nước ta với các nước khác. Ví dụ: quan hệ bang giao
giữa Việt Nam và Trung Quốc…
Từ điển Tiếng Việt (1997 - Nguyễn Lân) định nghĩa: Ngoại giao là
“việc giao thiệp với nước ngoài và giải quyết các vấn đề quốc tế”.


13
Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (2006 - Nguyễn Lân): Ngoại giao, “1. Sự
giao thiệp với nước ngoài về mọi mặt”.
Theo “Từ điển giải thích tiếng Nga của V.Dal thì ngoại giao là khoa
học về quan hệ đối ngoại, quan hệ lẫn nhau, mà quan hệ thì tất nhiên dẫn đến
tiếp xúc, đàm thoại, trao đổi. Đàm thoại là quan hệ công việc, là tiếp xúc, giao

thiệp chặt chẽ. Ngoại giao trước hết phải được thực hiện bng việc gặp gỡ,
trao đổi, đàm thoại. Không có tiếp xúc, đàm thoại, không có ngoại giao” [29,
tr.171]
Ứng xử trong quan hệ quốc tế là hoạt động giao thiệp trong quan hệ đối
ngoại giữa các nước trong các cuộc gặp gỡ, hợp tác, thiết lập các mối quan hệ,
thể hiện được phong cách, phong thái, dấu ấn văn hóa đặc trưng của một đất
nước, một dân tộc mà người tham gia hoạt động giao tiếp làm đại diện. Tuy
nhiên cũng có những ứng xử trong quan hệ quốc tế thể hiện một lập trường
riêng, quan điểm riêng cũng như dấu ấn cá nhân của người đại diện đó. Một
“ứng xử quốc tế” hài hòa được dấu ấn cá nhân và văn hóa dân tộc, để lại ấn
tượng đậm nét trong đối tác về một đất nước văn minh được xem là ứng xử
ngoại giao nhân văn. Hiểu rộng ra, đó còn là cách ứng phó, xử sự các vấn đề
mang tính quốc tế giữa một quốc gia này với một quốc gia khác.
Các nước lớn: Nhìn dưới nhiều góc độ, người ta sẽ có những quan
niệm khác nhau về nước lớn, có thể xét nước lớn dựa trên tiêu chí dân số,
lãnh thổ; có thể xét dựa trên sức mạnh về kinh tế với khả năng thao túng thị
trường thế giới, ảnh hưởng chi phối bởi các lĩnh vực kinh tế trọng yếu…;
trong lịch sử có thể xét dưới góc độ “sở hữu” hệ thống các thuộc địa; khả
năng chi phối, ảnh hưởng về chính trị đối với các vấn đề quốc tế; sức mạnh về
quân đội, vũ khí, khí tài quân sự… Ở đây, những nước lớn mà đề tài đề cập
được hiểu là các cường quốc, mà khi xem xét dưới góc nhìn quan hệ quốc tế,
nó được hiểu là những nước đóng vai trò là các “cực” trên bàn cờ chính trị


14
quốc tế, giữ những vị trí chi phối hệ thống quốc tế, hay hiểu theo một cách
khác, đó là những quốc gia đóng vai trò là “cái trục” trong mô hình “trục và
nan hoa” trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh khái niệm nước lớn, cường quốc
còn có những nước được gọi là siêu cường. Tức là quốc gia đứng hàng thứ
nhất trong hệ thống quốc tế và khả năng gây ảnh hưởng tới những sự kiện và

phô trương sức mạnh trên phạm vi toàn thế giới; siêu cường thường được coi
có mức quyền lực cao hơn cường quốc, có thể chi phối cả cường quốc. Ở đây,
tác giả dùng thuật ngữ các nước lớn là bao gồm cả cường quốc lẫn siêu cường
có ảnh hưởng hoặc liên quan đến Việt Nam trong lịch sử và hiện tại.
1.2. Cơ sở khách quan
1.2.1. Tiền đề tư tưởng – lý luận
1.2.1.1. Truyền thống văn hóa Việt Nam trong ứng xử với các nước lớn
Chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị mang tính phổ biến ở
mọi dân tộc. Nhưng do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, do trình độ
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… không giống nhau nên tình cảm và tư
tưởng yêu nước của mỗi dân tộc có những điểm khác nhau về nguồn gốc, về
quá trình hình thành và phát triển, về bản chất cũng như về đặc điểm.
Tinh thần yêu nước cũng có quá trình phát triển cùng với lịch sử phát
triển của quốc gia dân tộc và tình cảm yêu nước có tính chất cảm tính dần trở
thành lí tính và hệ thống hoá mang nội dung tư tưởng, lí luận. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam cũng không nm ngoài quy luật đó.
Nhìn lại lịch sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam xuất hiện rất sớm cùng
với sự ra đời của nước Văn Lang, của ý thức tự hào về giống nòi chung “con
Rồng, cháu Tiên”. Chủ nghĩa yêu nước anh hùng đó được vun đắp, được thử
thách và tôi luyện suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Tựu trung lại, cho đến thế kỉ XVIII, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam


15
đã được phát huy cao độ với những giá trị, nội dung tích cực của nó góp phần
vào quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thứ nhất, đó là tình yêu quê hương, xứ sở và sự gắn bó, cố kết cộng
đồng. Cơ sở của nó là nền văn minh lúa nước đòi hỏi tính tập thể cao trong
lao động sản xuất và xây dựng đê điều, chống thiên tai; là ý thức và lòng tự
hào về nguồn cội; là sự hy sinh biết bao xương máu để gìn giữ mảnh đất mà

ông cha dày công vun đắp.
Thứ hai, đó là sự khẳng định lịch sử riêng và bản sắc văn hoá riêng của
dân tộc, khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia cũng như quyết tâm
bảo vệ nền độc lập, chủ quyền thiêng liêng đó và sự bình đẳng của nước ta,
vua ta đối với phương Bắc và các vua phương Bắc. Hàng loạt các cuộc đấu
tranh giữ nước là những bản anh hùng ca và là những bng chứng về tinh thần
ấy.
Thứ ba, đó là sự khẳng định tính chất chính nghĩa của những cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tính chất chính nghĩa là ngọn cờ tập hợp lực
lượng, đoàn kết lòng dân, sức dân, nhân lên sức mạnh dân tộc và niềm khát
vọng chiến thắng của lẽ sống, của đạo lí.
Thứ tư, đó là tư tưởng coi trọng vai trò của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc; triết lý lấy dân làm gốc; việc cương
thường muôn thủa là ở dân tâm,…
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn gốc cơ bản và quan trọng đối với sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và cách ứng xử của Hồ Chí Minh nói
riêng. Nhân cách, lòng yêu nước nồng nàn của Người đã được hình thành và
dung dưỡng từ thời niên thiếu trong một môi trường gia đình, quê hương, nhà
trường và xã hội đặc trưng bởi chủ nghĩa yêu nước truyền thống và những đạo
lí, phẩm chất tốt đẹp nghìn đời của dân tộc. Những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa đó như lí tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, quan niệm về


16
nước và dân, về độc lập và tự do, quan hệ biện chứng với nhau và đã chi phối
nhất quán tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật của Người trong
hoạt động ứng xử đối ngoại. Khái quát lại, có thể thấy mấy điểm nổi bật từ
truyền thống ảnh hưởng đến cách ứng xử của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, coi trọng sự hoà hiếu với tất cả các dân tộc, luôn phân định
rõ ràng giữa nhân dân và tầng lớp thống trị hiếu chiến của các nước trong

quan hệ đối ngoại.
Thứ hai, sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng về tương lai, khoan dung đối
với cả k thù xâm lược.
Thứ ba, linh hoạt, khôn khéo trong việc giải quyết hậu quả các cuộc
chiến tranh, giữ thể diện cho các nước lớn ngay khi chúng bị thất bại thảm hại
trên lãnh thổ dân tộc ta nhm mưu sự thái bình cho đất nước, sự yên lành cho
nhân dân.
Thứ tư, mặc dù là nước nhược tiểu luôn bị các nước lớn tìm cách thôn
tính nhưng cha ông ta vẫn giữ vững được khí phách, cốt cách người Việt
trong quan hệ với các nước lớn, tạo thành dũng khí và bản lĩnh dân tộc.
Thứ năm, đó là sự ứng xử tài tình, khôn khéo đầy mưu mẹo trước
những thủ đoạn thâm độc, xảo trá của k thù nhm giữ trọn thể diện quốc gia
dân tộc.
Thứ sáu, thiết lập mối giao hảo, tôn trọng tất cả các nước, bao gồm cả
những nước nhỏ hơn mình nhm tạo sự ổn định ở các vùng biên giới, hải đảo,
giữ vững biên cương Tổ quốc, thái bình cho nhân dân.
Thứ bảy, trong quan hệ với các nước lớn, tư tưởng ngoại giao của ông
cha ta là “trong đế, ngoài vương”, mục đích là để giữ sự hoà hiếu, yên ổn cho
đất nước, hòa bình cho nhân loại.
1.2.1.2. Tinh hoa văn hoá phương Đông


17
Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, Hồ Chí Minh đã hấp
thụ được một khối lượng tri thức rất lớn về lịch sử, văn hoá, triết học Trung
Quốc. Sau nhiều năm, vốn chữ Hán của Hồ Chí Minh ngày càng sâu rộng,
Người không chỉ đối đáp lưu loát bng tiếng Hán, mà còn nghiên cứu các tác
phẩm kinh điển của Trung Quốc. Người cũng đã dùng chữ Hán để viết nên
những bài thơ tuyệt tác. Người không những rất thông tuệ về tư tưởng của các
nhà tư tưởng lớn, các nhà quân sự lỗi lạc của Trung Quốc như Khổng Tử,

Mạnh Tử, Tôn Tử mà còn am hiểu rất tường tận nền văn học Trung Quốc như
Lý Bạch, Đỗ Phủ. Vốn nho học của Người là một trong những phương tiện
chinh phục thiện cảm không những của nhân dân mà cả những nhân vật quan
trọng của Trung Quốc. Sau này về nước, vốn nho học của Người cũng khiến
cho những nhà nho học uyên thâm như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn
Tố phải kính phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo những điều tiếp
thu được trong nền văn minh vĩ đại của Trung Quốc. Những tư tưởng, binh
pháp, chiến thuật sử dụng trong chiến tranh hay trong đối ngoại đều được
Người tiếp biến phù hợp với đặc điểm, truyền thống lịch sử và văn hoá Việt
Nam, trên nền gốc văn hóa dân tộc.
Ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Quốc ở Hồ Chí Minh còn được thể
hiện qua việc Người mượn những tấm gương kinh điển về tinh hoa xử thế của
Trung Quốc khi nói chuyện với các nhà nho học uyên thâm của Việt Nam.
Ngay khi nói chuyện với Hội nghị cán bộ Ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng thích kể lại những cách đối đáp ứng phó tài tình của các nhà ngoại giao
Trung Quốc thời Chiến quốc như Án Anh với mục đích giáo dục cán bộ ngoại
giao.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là sự hiểu biết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về lịch sử, nền văn minh, quá trình đấu tranh cách mạng của Trung


18
Quốc, điều đó đã tạo ra cho Người một uy tín to lớn ở Trung Quốc không chỉ
đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc mà còn đối với Quốc dân Đảng. Điều đó
đã làm cho quan hệ Việt - Trung khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sống trở
thành khăng khít, mặc dù không phải tất cả các lãnh tụ cao nhất của Đảng
Cộng sản hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là
về mặt quốc tế, và cũng không phải Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn nhất trí
với cách làm của cách mạng Trung Quốc như đại nhảy vọt, đại cách mạng

văn hoá, xem Liên Xô là đế quốc xã hội chủ nghĩa…
Sự tường tận, am hiểu nền văn hoá phương Đông và nhất là am hiểu
Trung Quốc đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh có những sách lược tài tình khi
đối phó với âm mưu “Hoa quân nhập Việt” thời kì cách mạng Việt Nam trong
thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Dấu ấn lịch sử tư tưởng phương Đông trong ứng xử của Hồ Chí Minh
thể hiện khá rõ nét qua phong cách của Người. Ở đây, do còn hạn chế về
nhiều mặt, tác giả chỉ có thể đề cập, giới thiệu một cách khái quát vai trò của
tư tưởng văn hóa phương Đông với những ảnh hưởng từ truyền thống Nho
học (văn hóa Trung Hoa), tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và hòa
nhập với văn hóa dân tộc. Nhìn ở góc độ cụ thể trong nghệ thuật ứng xử của
Hồ Chí Minh ta có thể thấy mấy điểm quan trọng.
Tâm công (đánh vào lòng người) với mục đích, một là thu phục lòng
người bng chính nghĩa, chinh phục bng nhân tình, bng lẽ phải; hai là, sử
dụng chiến tranh tâm lý để làm nhụt nhuệ khí, gây hoang mang trong hàng
ngũ của đối phương. Người xưa có câu: “Đánh vào lòng là hơn hết; đánh vào
thành trì là thứ hai”. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi có viết: “Chẳng
đánh mà người chịu khuất phục, ta đây mưu phạt tâm công”. Trong lịch sử, kế
sách “vườn không nhà trống” của quân dân nhà Trần đã khiến quân địch
không có thức ăn, không có chỗ ở, không có đường đi mà phải tiêu hao, mòn


19
mỏi. Bên cạnh đó, là con người, ai cũng có bản tính hướng thiện, nhân văn,
chỉ là do những hoàn cảnh xô đẩy hoặc bị chi phối mà phải hành động theo
một phương cách nào đó, đánh vào lòng người nghĩa là khơi dậy nhân tâm,
khiến họ thấy điều hay, lẽ phải. Hồ Chí Minh từng nhận xét: “Tuy phong tục
mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân
nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”. Chính sự thấu hiểu về con người, về điều
hay lẽ phải cùng cách ứng xử gần gũi, chân thành, biết người biết ta,… đã để

lại một hình ảnh đẹp trong mắt bạn bè quốc tế, đó không chỉ là hình ảnh cá
nhân Hồ Chí Minh mà là hình ảnh của cả một dân tộc yêu hòa bình, ghét
chiến tranh, chuộng điều hay, lẽ phải; và cũng chính những cử chỉ cao đẹp đó
mà Hồ Chí Minh được bạn bè thế giới gọi với cái tên: Nhà ngoại giao có
phong cách nhân văn.
Tri kỉ, tri bỉ, bách chiến bách thắng (biết mình, biết người, trăm trận
trăm thắng). Muốn giành được ưu thế trước k thù thì phải hiểu biết về k thù,
thậm chí phải “chơi” được với k thù. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong
dụng binh được Hồ Chí Minh vận dụng tài tình trong đối ngoại. Trong lịch sử,
để biết và hiểu rõ đối phương, các thế lực thường sử dụng gián điệp cài cắm
vào hàng ngũ của định để nắm bắt thông tin. Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh, dù
có bàn về cách dùng gián điệp nhưng chủ yếu là trong công tác bồi dưỡng,
huấn luyện cán bộ, riêng bản thân, Người thường tìm hiểu đối phương thông
qua nền văn hóa, thông qua tính cách cá nhân, thông qua ứng xử mỗi lần tiếp
xúc cũng như quan điểm chính trị, lập trường… để từ đó Người có đối sách
ứng xử phù hợp, lúc nhu, lúc cương. Những đánh giá sắc sảo về văn hóa
Trung Hoa, văn hóa Pháp, về bản chất, tính cách con người hai dân tộc mà
Người có cơ hội tìm hiểu nhiều nhất; cùng những hành động, cử chỉ, thái độ
và cách ứng xử với mỗi vị khách cũng như mỗi quốc gia đã cho thấy Người là
một hình mẫu về “ngoại giao văn hóa”.


20
Dù vậy, cương và nhu trong ứng xử của Hồ Chí Minh rất có nguyên tắc
chứ không phải theo kiểu “mềm nắn, rắn buông”. Cái gì thuộc về lợi ích cốt
lõi của đất nước thì tuyệt đối không nhân nhượng, còn cái gì có thể cân nhắc
để giữ cái lợi lâu dài thì mới nhượng bộ. Điều này đã được minh chứng bng
Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm
1946.
Cầu đồng tồn dị (chú trọng những điểm chung để hạn chế những điểm

khác biệt) đây là tư tưởng luôn được đánh giá cao trong quan hệ quốc tế, xuất
phát từ sự am hiểu văn hóa các quốc gia cũng như tầm văn hóa của cá nhân
lãnh tụ. Những nhận xét, đánh giá từ bạn bè quốc tế về Hồ Chí Minh đã nói
lên tất cả. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng
nghìn năm của dân tộc Việt Nam, chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn
năm của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đầy những sự tích kỳ diệu trong cuộc
trường kỳ chống thiên tai, địch họa. Trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước,
dân tộc Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc để thắng hung tàn, khoan dung, hòa
hợp, vị tha, Tư tưởng “cầu đồng tồn dị” là một nét đẹp của văn hóa phương
Ðông đã được bộc lộ ở Hồ Chí Minh không chỉ qua các cuộc tiếp xúc gặp gỡ
trong các chuyến thăm viếng của Người ở các quốc gia như Pháp, Trung
Quốc, Ấn Độ và nhiều nước khác mà còn được thể hiện rõ trong các cuộc
đàm phán nhm tháo gỡ những bất đồng, tiến tới sự thống nhất, đạt được
thắng lợi từng bước.
Hòa hiếu là truyền thống bang giao của dân tộc ta, được xem là gốc rễ
trong ứng xử với bên ngoài, đặc biệt là với các nước lớn nhm mưu cầu sự
thái bình cho muôn dân. Lịch sử quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước
hàng ngàn năm của chúng ta đã chứng minh cho điều đó. An Dương Vương
vì muốn hòa hiếu với lân bang mà gả Mị Châu cho Trọng Thủy, Khúc Thừa


21
Dụ dù đã lấy lại nền độc lập cho dân tộc nhưng vẫn thừa nhận tước phong
Tiết Độ Sứ của nhà Đường, Nguyễn Trãi - Lê Lợi đánh bại quân Minh nhưng
vẫn “cấp cho năm trăm chiếc thuyền”, “phát cho vài nghìn cỗ ngựa” để bại
quân về nước, các triều đại phong kiến của ta vẫn giữ mối giao hảo với phong
kiến phương Bắc, đi sứ, cống nạp, nhận sắc phong với tư tưởng “trong đế,
ngoài vương”, tránh “xúc phạm Thiên triều”, gây mất hòa khí.
Ngũ tri: Biết mình, biết người, biết thời, biết dừng, biết biến.

Đây là tư tưởng được dùng trong nghệ thuật quân sự, được Hồ Chí
Minh vận dụng vào công tác ngoại giao. Người thường dạy cán bộ ngoại giao:
các chú phải biết ngũ tri: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết
biến hóa. Nghĩa là muốn đối thoại, mình phải biết mình thế nào, người đối
thoại với mình thế nào, biết thời thế, bối cảnh thế nào, biết dừng chỗ nào.
Không biết dừng, anh mà già quá thì có khi đàm phán bị đứt, còn dừng non
quá, anh sẽ thiệt. Do đó, biết dừng là khó lắm. Biết biến hóa là khi tình hình
thay đổi cơ bản rồi mà anh vẫn theo đường mòn đó. Nguy cơ thì phải biết lẩn
trốn đi. Thời thế trong tay anh, anh phải cướp lấy để giành thắng lợi.
Đặc biệt, cách ứng xử của Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn
là một phần không thể thiếu trong tư tưởng đối ngoại của Người. Vị trí địa –
chính trị chiến lược của Việt Nam cũng như sự dính líu trực tiếp của hầu hết
các nước lớn vào bán đảo Đông Dương đặt Hồ Chí Minh vào vị trí đặc biệt để
xử lý quan hệ với các nước lớn. Những nguyên lý mà Người nêu ra liên quan
đến mối quan hệ này là một trong những nội dung quan trọng nhất của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Các nguyên tắc, sách lược và phương châm xử thế của
Hồ Chí Minh, cũng như những bài học trong quan hệ với các nước lớn, là
những di sản quý giá của ngoại giao Việt Nam.
Câu hỏi xuyên suốt đối với Hồ Chí Minh là làm thế nào để một nước
tương đối nhỏ như Việt Nam tồn tại và phát triển trong vận động phức tạp


22
giữa các nước lớn và làm sao một nước nhỏ có thể thắng được các “đế quốc
to”? Đây là những vấn đề cốt lõi trong việc theo đuổi quyền lợi quốc gia của
Việt Nam.
Những đối sách của Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ sự am hiểu các
nước lớn là đồng minh, cũng như nước lớn là đối phương, biết được mối quan
tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất của nền chính trị, ngoại giao
nước lớn và những giới hạn của các mối quan hệ đó.

Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái không thể thay đổi ứng phó với
những sự thay đổi (là vế thứ nhất trong câu kép: dĩ bất biến ứng vạn biến, dĩ
chúng tâm vi kỷ tâm). Đây là một nguyên tắc “xử thế” có nguồn gốc từ triết lý
phương Đông, được ông cha ta vận dụng linh hoạt, có hiệu quả trong cuộc
đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước. Chính tư tưởng này trong lịch sử đã
đặt nền móng cho nghệ thuật ngoại giao “độc lập thực sự, thuần phục trên
danh nghĩa” của nhân dân ta cũng như sáng tạo ra những chiến lược, chiến
thuật quân sự tuyệt vời trong thời đại cha ông ta hàng trăm năm trước. Đến
Hồ Chí Minh, Người kết hợp với phép biện chứng duy vật và vận dụng thành
công trong bối cảnh mới.
Trong giai đoạn 1945-1946, hòa với Tưởng để đánh Pháp, rồi lại hòa
với Pháp để đuổi Tưởng chính là cái “ứng vạn biến” trong “cái bất biến” là
kiên quyết giữ vững chủ quyền đất nước và độc lập dân tộc. Trong giai đoạn
1954-1956, “cái bất biến” được Người khẳng định: “Thống nhất nước nhà là
con đường sống của nhân dân ta”, còn “ứng vạn biến” chính là các hoạt động
ngoại giao để ghìm chân M - Diệm đòi chúng thi hành hiệp định Giơnevơ,
tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà … tạo thời gian hòa hoãn để
đồng bào miền Nam củng cố lực lượng bước vào cuộc chiến đấu mới. “Rõ
ràng, chiến lược (dĩ bất biến - tg) đã được vạch ra bng việc xác định mục tiêu
thống nhất Tổ quốc và sắp đặt lực lượng của mình. Còn sách lược (ứng vạn


23
biến - tg) lúc này được xem như một bộ phận của chiến lược nhm để thực
hiện chiến lược” [1, tr.114]
1.2.1.3. Tinh hoa văn hoá phương Tây
Nguyễn Tất Thành học văn hoá Pháp ở Việt Nam, song anh lại có ý
nghĩ táo bạo là “muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng tôi”. Với ý nghĩ và
quyết tâm ấy, Nguyễn Tất Thành rất khao khát tìm hiểu, học hỏi và đã nhìn ra

cái tiên tiến, cái mạnh của văn hoá phương Tây so với Nho giáo phương
Đông.
Nguyễn Ái Quốc ra đi với đầu óc rộng mở và tiếp thu tinh hoa văn hoá
phương Tây theo hai cách: hoạt động thực tiễn và qua sách vở. Tiếp xúc,
tranh luận với những nội dung phong phú đã giúp Nguyễn Ái Quốc nắm bắt
được các giá trị của văn hoá Pháp, học cách tư duy và lập luận khoa học, đồng
thời tiếp cận với các tư tưởng chính trị và triết học phương Tây.
Trong những năm bôn ba ở nước ngoài, Người đã học và nắm vững
nhiều ngoại ngữ khác nhau. Với công cụ quý giá này, Người không chỉ tiếp
xúc và tham gia các cuộc hội họp mà còn đọc nguyên bản các tác phẩm về
mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, lịch sử, văn học… Kho tàng văn hoá quý báu
đó phản ánh khá rõ nét và toàn diện tinh hoa văn hoá phương Tây. Với
Huygô, Sếchxpia, Tônxtôi, Zôla… Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu nghĩa nhân
văn, khát vọng tự do của con người cũng như cuộc đấu tranh chống bóc lột,
chống bất công. Với Rutxô, Vônte, Điđơrô, Người quan tâm tới các trào lưu
tư tưởng triết học và chính trị của Thế kỉ Ánh sáng và tư tưởng dân chủ của
cách mạng tư sản Pháp. Đặc biệt, từ những tri thức và tinh hoa văn hoá tiếp
thu được, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đỉnh cao văn hoá
nhân loại.

×