Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Chính sách đối ngoại của liên bang Nga dưới thời tổng thống V. Putin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.1 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Hải Vân Anh









CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
LIÊN BANG NGA DƯỚI THỜI
TỔNG THỐNG V.PUTIN








LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC










Hà Nội-2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Nguyền Hải Vân Anh









CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
LIÊN BANG NGA DƯỚI THỜI
TỔNG THỐNG V.PUTIN






Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Quang Minh




HÀ NỘI-2008

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

4
1.
Lý do chọn đề tài
4
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
6
3.
Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
4.
Phương pháp nghiên cứu

9
5.
Kết cấu luận văn
10
CHƯƠNG 1
Tình hình thế giới và Liên bang Nga dưới thời Tổng thống
V.Putin
11
1.1.
Tình hình thế giới
11
1.2.
Tình hình trong nước
14
1.3.
Vài nét về con người V.Putin
20
CHƯƠNG 2
Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga dưới thời Tổng thống V.Putin
23
2.1.
Quá trình hình thành chính sách đối ngoại
23
2.1.1.
Mục tiêu của chính sách đối ngoại
23
2.1.2.
Những giai đoạn chính trong quá trình hình thành chính
sách đối ngoại

27
2.2.
Nội dung của chính sách đối ngoại
32
2.2.1.
Chính sách đối ngoại “định hướng Âu- Á”
32
2.2.2.
Chính sách đối ngoại của Nga với một số đối tác
35
2.2.2.1.
Chính sách đối ngoại của Nga đối với SNG
36
2.2.2.2.
Chính sách đối ngoại của Nga đối với Châu Âu
38
2.2.2.3.
Chính sách đối ngoại của Nga đối với Mỹ
44
2.2.2.4.
Chính sách đối ngoại của Nga đối với Châu Á
47

2
2.2.3.
Chính sách đối ngoại linh hoạt, thực dụng
63
CHƯƠNG 3
Đánh giá chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống V.Putin

71
3.1.
Một số thành tựu
71
3.2.
Một số thách thức
75
3.3.
Tác động của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới
thời Tổng thống V.Putin đối với thế giới và khu vực
78
3.4.
Triển vọng chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
81
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
85

















3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Association of Southeast Asia Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ARF
ASEAN Regional Forum
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
ABM
Anti-Ballistic Missile Treaty
Hiệp ước phòng thủ chống tên lửa đạn đạo
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
NATO
North Atlantic Treaty Organization
Khối hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương
NMD
National Missile Defense
Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo quốc gia

OECD
Organization for Economic Cooperation and Devolopment
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới

4



MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỷ XX là thế kỷ đánh dấu những thăng trầm, biến đổi của Liên Xô trước đây
và Liên bang Nga hiện nay. Hầu hết mọi sự kiện lớn của thế giới trong thế kỷ qua đều gắn
liền với Liên Xô và Liên bang Nga. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nhắc đến Liên Xô
là người ta nghĩ ngay đến đất nước của Lênin, đến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga và chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít, là người đi tiên phong
trong việc tạo dựng một chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa - đối lập với những gì
mà các nước tư bản đang theo đuổi. Nhưng vào những năm cuối của thế kỷ, do những định
hướng sai lầm trong công cuộc cải tổ, do nóng vội, chủ quan duy ý chí, Liên Xô đã sụp đổ
và thay thế vào đó là nhà nước Liên bang Nga hiện nay. Nước Nga mới kế tục sự nghiệp
của Liên Xô với một nền kinh tế lạc hậu, nền chính trị rệu rã và quân sự đang bị thách thức
nghiêm trọng. Nước Nga từ địa vị cường quốc hàng đầu thế giới đang dần dần tụt xuống vị
trí các quốc gia hạng hai, thậm chí hạng ba.
Chính vào những năm tháng bản lề này, người ta thấy sự xuất hiện của một nhân
vật làm thay đổi được cục diện và tình hình của nước Nga. Đó là Vladimir Vladimirovich
Putin. Ông là vị Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga và đã đi vào lịch sử của đất nước
này như là người có công trong việc khôi phục nước Nga từ “đống hoang tàn” của những

năm cải tổ, để bước vào thế kỷ mới.
Sự xuất hiện của V.Putin trên vũ đài chính trị nước Nga, sự thăng tiến quá nhanh và
cả uy tín của ông, cùng với lòng ngưỡng mộ mà người dân Nga dành cho ông đã trở thành
một sự kiện không chỉ riêng với nền chính trị của nước Nga mà cả thế giới. Lịch sử nước
Nga trong thế kỷ XX, chưa từng biết đến một sự vươn tới đỉnh cao quyền lực của một lãnh
tụ chính trị nào nhanh đến như vậy. Trong nhiều trường hợp thường thì điều này chỉ đạt
được nhờ đấu tranh chính trị phức tạp và bền bỉ, thậm chí có thể phải đổ máu.

5
Vực dậy một đất nước đã quá suy yếu và chia rẽ là điều không đơn giản với bất kỳ
nhà lãnh đạo nào. Nhưng V.Putin đã làm được điều đó. V.Putin đã biến một nước Nga hỗn
loạn thành một nước Nga ổn định, một nền kinh tế đổ vỡ thành một nền kinh tế phát triển,
một nước Nga suy sụp thành một nước Nga đầy tự tin và kiêu hãnh.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, nước Nga đạt được những thành tựu đó là
do chính sách đối nội và chính sách đối ngoại đúng đắn của Tổng thống V.Putin. Ngay sau
khi trở thành Tổng thống, V.Putin đã đưa ra chính sách đối ngoại “Định hướng Âu - Á”,
theo đó Nga sẽ thiết lập mối quan hệ cân bằng giữa phương Đông và phương Tây trên
nguyên tắc linh hoạt, thực dụng với ưu tiên hàng đầu là bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc.
Nhìn lại nước Nga những năm đầu sau khi trở thành quốc gia độc lập, chúng ta
thấy người tiền nhiệm của V.Putin, Tổng thống B.Elsin đã thực hiện một chính sách đối
ngoại khác hẳn, chính sách đối ngoại “Định hướng Đại Tây Dương” hay còn có tên gọi
khác là đường lối ngoại giao “hướng Tây”. Nội dung cơ bản của chính sách này là đặt quan
hệ với Mỹ và các nước tư bản phương Tây lên hàng đầu, coi đó là quan hệ “hữu nghị”, là
“liên minh chiến lược”. Tổng thống B.Elsin trong bài phát biểu ngày 17 tháng 4 năm 1992,
tại kỳ họp thứ 6 Đại hội đại biểu nhân dân toàn Nga đã khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm
bao trùm mọi hoạt động quốc tế của Nga là xây dựng quan hệ bạn bè với các nước dân chủ
trên thế giới nhằm đảm bảo cho nước Nga gia nhập cộng đồng các nước phương Tây một
cách hợp pháp và hài hòa” [17, tr. 84]. Nga “bỏ rơi” hầu như tất cả các đồng minh truyền
thống ở Đông Âu cũng như ở Châu Á và Châu Phi. Với chính sách trên, nước Nga đã có

những nhượng bộ, thỏa hiệp với Mỹ và phương Tây để từ đó hy vọng vào sự giúp đỡ của
họ. Nhưng thực tế không diễn ra như nước Nga mong đợi. Nga ngày càng phụ thuộc nhiều
hơn vào Mỹ và phương Tây, vị thế quốc tế của Nga ngày càng suy yếu. Nga không những
không hòa nhập được với phương Tây mà còn trở thành “vị khách” của phương Tây.
Từ những nét khái quát trên, chúng ta thấy, chính sách đối ngoại đóng một vai trò
quan trọng trong sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia cũng như trong việc nâng cao
sức mạnh và vị thế của các quốc gia đó trên trường quốc tế. Vì vậy, việc tiến hành nghiên
cứu “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin” là việc làm
cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ cung cấp cách nhìn
khách quan và toàn diện về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga.

6
Vậy chính sách đối ngoại của V.Putin đã được hình thành như thế nào, nó bao gồm
những mục tiêu và nội dung gì? Chính sách đối ngoại này có sự kế thừa chính sách đối
ngoại của Tổng thống B.Elsin hay không? Chính sách đối ngoại này đã có tác động như thế
nào đối với nước Nga, với khu vực và với thế giới?
Đó là lý do để tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
dưới thời Tổng thống V.Putin” làm luận văn thạc sỹ của mình.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Kể từ khi V.Putin xuất hiện trên chính trường nước Nga vào những năm cuối thế kỷ
XX đầu thế kỷ XXI, đã có rất nhiều nghiên cứu của các học giả Nga và nước ngoài đề cập
về nhân vật này. Trong thời gian này, hình ảnh của V.Putin luôn được đăng tải trên trang
bìa của các tạp chí nổi tiếng. Những cuốn sách viết về V. Putin được xuất bản ở nhiều
nước trên thế giới, như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Pháp và được bán hết một cách
nhanh chóng. Họ viết về tiểu sử của V.Putin, về những năm tháng hoạt động tình báo của
V.Putin, về những việc ông đang làm và sẽ làm nhằm cứu vãn và phục hồi lại nước Nga,
đưa nước Nga tìm lại vị thế xứng đáng của mình trong trật tự thế giới mới. V.Putin được
coi như là một “hiện tượng”, là “một ngôi sao” đã, đang và sẽ toả sáng trên bầu trời chính
trị nước Nga nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.

Tuy nhiên, ở Việt Nam đây còn là đề tài tương đối mới mẻ. Phần lớn các nhà
nghiên cứu khi tìm hiểu về V.Putin mới chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu chính sách đối
ngoại của V.Putin trong phạm vi tác động với từng khu vực, như quan hệ giữa Nga với
Liên minh Châu Âu - EU, hay giữa Nga với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, và các
khu vực khác,…
Có thể chia các sách, tài liệu và bài báo viết về V.Putin theo ba nhóm:
* Nhóm thứ nhất: Tìm hiểu về tiểu sử của V.Putin, về quãng đời là một nhà tình
báo trước khi trở thành Thủ tướng rồi Tổng thống của Liên bang Nga. Như các sách:
- V.Putin - Từ trung tá KGB đến Tổng thống Liên bang Nga; Tác giả: Lý Cảnh
Long.
- V.Putin và những người cộng sự; Tác giả: A.A. Mukhin.

7
- V.Putin - Đường tới điện Kremlin; Tác giả: Hồng Thanh Quang.
Những tác phẩm này đã cho chúng ta thấy được chân dung của V.Putin, từ tính
cách, sở thích, bản lĩnh và con người V. Putin.
* Nhóm thứ hai: Đó là các bài báo nói về những nội dung cơ bản trong chính sách
đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin, được đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu. Ví dụ: Chiến lược đối ngoại của nước Nga thời kỳ Tổng thống V.Putin của
tác giả Hồ Châu, số 3 - 2001; Những xu hướng khác nhau trong chính sách đối ngoại của
Nga và Mỹ thời gian gần đây của tác giả Phạm Văn Dân và Phạm Thị Phúc, số 6 -
2001,…. Các bài báo này mới chỉ nêu được những điểm mới trong chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga nhưng chưa chỉ ra được cụ thể chính sách đối ngoại đó là như thế nào.
* Nhóm thứ ba: Đó là các bài báo nghiên cứu về quan hệ của Liên bang Nga với
những đối tác cụ thể như: quan hệ Nga - Hoa Kỳ, Nga - Trung Quốc, Nga - Châu Âu,
Nhìn chung, các tài liệu nói trên mới chỉ tìm hiểu những nội dung riêng lẻ trong
chính sách đối ngoại của Tổng thống V.Putin, chưa nghiên cứu tập trung và toàn diện,
chưa làm rõ được tính linh hoạt và thực dụng trong chính sách đối ngoại của V.Putin, chưa
thấy được sự thay đổi trong quan điểm của Tổng thống V.Putin trong hai nhiệm kỳ Tổng
thống của ông.


3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của đề tài sẽ tập trung làm rõ chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
dưới thời Tổng thống V.Putin, bao gồm cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại, các yếu tố
tác động tới quá trình hình thành chính sách đối ngoại, đặc điểm và nội dung của chính
sách này, cũng như tác động của nó đối với tình hình quốc tế, khu vực và một số đối tác
chủ yếu.
Để hoàn thành mục tiêu trên, luận văn sẽ phân tích những nội dung cơ bản sau:
- Tình hình thế giới và Liên bang Nga trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI để từ đó làm rõ sự cần thiết phải hình thành một chính sách đối ngoại mới cho nước
Nga.

8
- Vai trò của Tổng thống V.Putin trong quá trình hình thành chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga trong hai nhiệm kỳ Tổng thống của ông (Nhiệm kỳ thứ nhất từ 2000
đến 2004 và nhiệm kỳ thứ hai từ 2004 đến 2008).
- Kết quả thực hiện chính sách đối ngoại của Nga thông qua quan hệ của Nga với
một số đối tác, cụ thể như với Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), giữa Nga với Châu
Âu, bao gồm cả Liên minh Châu Âu (EU) và Khối Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO), giữa Nga với các nước Châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và Việt Nam.
- Đánh giá tác động của chính sách đối ngoại đó ở phạm vi trong nước và nước
ngoài, cũng như triển vọng của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga.
Vì điều kiện thời gian và nguồn tài liệu còn hạn chế, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu tác động của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin
đối với một số đối tác và khu vực chủ yếu. Những đối tác và khu vực khác xin được đề cập
trong một công trình khác.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở các nguồn tài liệu sưu tầm được, luận văn cố gắng trình bày theo các

phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
hệ thống, nhằm tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển, điều chỉnh trong đường lối đối
ngoại của Tổng thống V.Putin. Các phương pháp được kết hợp với nhau để tạo ra sự tiếp
cận toàn diện khi nghiên cứu chính sách đối ngoại. Trong các phương pháp đó, luận văn
đặc biệt chú ý đến phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh. Thông qua hai phương
pháp này đã xác định những điểm giống và khác trong đường lối đối ngoại của V.Putin với
những người tiền nhiệm của mình.


5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:

9
Chương 1: Tình hình thế giới và Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin.
Chương này sẽ tập trung làm rõ những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới và tình hình
nước Nga trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Đồng thời, trong chương này
cũng đề cập đến vai trò của V.Putin trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga.
Chương 2: Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
dưới thời Tổng thống V.Putin. Chương này trình bày những nội dung cơ bản trong chính
sách đối ngoại của Liên bang Nga, bao gồm các mục tiêu, các giai đoạn trong quá trình
hình thành chính sách đối ngoại và các đặc điểm chính của chính sách đó.
Chương 3: Đánh giá chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng
thống V.Putin. Chương này sẽ đưa ra những đánh giá về chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin, bao gồm những thành tựu mà nước Nga đã đạt
được và những hạn chế của chính sách này. Ngoài ra, chương này còn đánh giá những tác
động của chính sách đối ngoại của V.Putin đối với nước Nga, đối với khu vực và thế giới
thông qua một số đối tác cụ thể. Phần cuối là một số đánh giá về triển vọng của chính sách
đối ngoại của Liên bang Nga trong tương lai.




CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ LIÊN BANG NGA
DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V.PUTIN

1.1. Tình hình thế giới
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu tan rã, một
trật tự thế giới mới đang được hình thành.
Ngày 31 tháng 12 năm 1991, Liên Xô - cường quốc hàng đầu trên thế giới trong hệ
thống quốc tế hai cực đã sụp đổ. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử
thế giới hiện đại. Liên Xô sụp đổ đồng nghĩa với sự kết thúc của cuộc Chiến tranh lạnh kéo
dài trong nhiều năm giữa hai siêu cường trên thế giới là Liên Xô và Mỹ - đại diện cho hai

10
chế độ xã hội khác nhau, một bên là Tư bản chủ nghĩa và một bên là Xã hội chủ nghĩa. Thế
giới chuyển từ trật tự hai cực sang một trật tự mới chưa xác định với sự nổi trội của Mỹ.
Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ có cơ hội thực hiện chính sách đơn phương của mình.
Tuy nhiên, trong những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, thế giới được
chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của những nền kinh tế mới. Giờ đây, sức mạnh của Mỹ
đang bị cạnh tranh bởi Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc. EU đang
được xem như là một trung tâm quyền lực kinh tế, chính trị thế giới, với GDP xấp xỉ Mỹ.
Các chỉ số khác như tỷ trọng thương mại toàn cầu hay thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của EU cũng vượt trội các trung tâm khác. Năm 2004, EU chiếm tỷ trọng 40,6% xuất khẩu
và 45,2% đầu tư trực tiếp nước ngoài [50, tr. 16]. Trong những năm gần đây, Trung Quốc
đang nổi lên như là một cường quốc mới. Mặc dù, hiện tại Trung Quốc chỉ chiếm 3,5%
GDP và 4% thương mại thế giới, nhưng Trung Quốc đang có một tiềm năng sức mạnh
khổng lồ. Các nhà nghiên cứu khẳng định: “Nếu tính theo PPP thì Trung Quốc đã chiếm
10% GDP thế giới, đứng thứ hai sau Mỹ. Nếu với tốc độ tăng trưởng 6-9% thì Trung Quốc
sẽ vượt Nhật Bản và Châu Âu trong việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế thế giới ngay

năm 2008” [26, tr.24]. Bên cạnh Trung Quốc, Ấn Độ cũng đang có những bước phát triển
nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực. Vai trò của Ấn Độ liên quan nhiều tới phát triển dịch
vụ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các dịch vụ hiện đại, tức là các nước đang phát
triển [52, tr. 15]. Những trung tâm quyền lực này đang đe dọa tới vị trí đứng đầu của Mỹ
trong nền kinh tế, chính trị thế giới, đồng thời cũng đang cạnh tranh với nhau để củng cố vị
thế của mình.
Từ sự vươn lên mạnh mẽ của những nền kinh tế mới trên thế giới đã chứng minh
cho một xu thế mới hiện này là thế giới sẽ chuyển mạnh từ chạy đua về quân sự, tranh
giành những khoảng trống quyền lực sang cạnh tranh về kinh tế chiếm lĩnh thị trường. Vì
sức mạnh kinh tế là nhân tố hàng đầu quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia,
đóng vai trò quyết định vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế, nên Liên bang Nga sẽ
càng khó khăn hơn trong việc lấy lại vị trí cường quốc của Liên Xô trước đây.
Trong những thập niên gần đây, “toàn cầu hoá” đã trở thành một trong những thuật
ngữ được nhắc đến nhiều nhất. Toàn cầu hoá được biết đến hiện nay với những đặc điểm
nổi bật là sự lưu chuyển tự do các dòng hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động ngày
càng tăng, là sự hình thành các mạng lưới sản xuất quốc tế với vai trò chi phối các công ty

11
xuyên quốc gia, là sự cạnh tranh giữa các quốc gia và các khu vực. Tham gia toàn cầu hoá
các quốc gia có thể nhanh chóng hội nhập và tiếp cận thị trường thế giới, qua đó hình thành
đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường trên quy mô toàn cầu. Ngoài ra, các quốc gia khi
tham gia vào quá trình toàn cầu hóa còn có khả năng tiếp cận được những thành quả sáng
tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh. Từ đó, thúc đẩy
sự cải cách sâu rộng của nền kinh tế quốc gia và cả sự hợp tác khu vực để các quốc gia có
thể nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra hàng loạt nguy cơ và thách thức đối với các
quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Do yêu cầu của toàn cầu
hoá là đòi hỏi các nước phải dỡ bỏ các luật lệ bảo hộ kinh tế, các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, cũng như các rào cản khác về đầu tư, tài chính, kỹ thuật, thể chế, nên
những quốc gia này luôn luôn phải chịu sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch vụ,

công nghệ nhập khẩu và những chấn động khu vực và toàn cầu, trong đó, nguy cơ lớn nhất
là những chấn động về tài chính tiền tệ. Từ đó, toàn cầu hóa làm trầm trọng thêm sự bất
công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với
nhau.
Hòa bình, hợp tác, phát triển được xem là xu hướng chính trong quan hệ quốc tế
hiện nay. Một cuộc chiến tranh thế giới là khó xảy ra. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, còn
xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng và khó dự đoán diễn biến trên quy
mô toàn cầu. Cục diện thế giới là bất ổn, phức tạp, không thái bình, căng thẳng, luôn xáo
trộn với sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ dưới nhiều hình thức, cả về
an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [51, tr. 64].
Đồng thời, thế giới cũng đang phải đối diện với những nguy cơ gây bất ổn như chủ
nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa phát xít mới, nạn
buôn lậu vũ khí, các tổ chức mafia và tội phạm quốc tế đang ngày càng gia tăng trên phạm
vi toàn cầu. Những nguy cơ này hiện đang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với hoà bình
và an ninh của toàn nhân loại.
Đây là những đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế trong những năm cuối của thế
kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Những thay đổi và biến động khó lường này của tình hình quốc tế
đều có tác động đối với tất cả các quốc gia. Mỗi quốc gia phải có sự điều chỉnh trong chiến

12
lược đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới. Liên bang Nga cũng không nằm
ngoài xu thế đó. Nước Nga dưới thời V.Putin cần phải nhanh chóng đề ra được một chính
sách đối ngoại giúp đất nước có thể ổn định được tình hình chính trị, khôi phục nền kinh tế
đang bị suy thoái nghiêm trọng và đặc biệt là phải tìm được vị trí xứng đáng trong việc
hình thành một trật tự thế giới mới.

1.2. Tình hình trong nước
Năm 2000, V.Putin được B.Elsin chọn làm người kế tục sự nghiệp, trở thành Tổng
thống thứ hai của Liên bang Nga. Ngay từ khi mới nhậm chức, V.Putin đã phải đối diện

với muôn vàn khó khăn và thách thức.
* Về chính trị: Đặc điểm nổi bật của nền chính trị Nga trong thập niên 90 là sự
mất ổn định và sự đối đầu tranh giành quyền lực giữa các thế lực.
Cuộc chính biến tháng 8 năm 1991 ở Liên Xô thất bại. B.Elsin thâu tóm mọi quyền
lực, đẩy nhanh sự tan rã của Liên Xô. Tháng 12 năm 1991, Tổng thống ba nước Nga,
Bêlarút, Ucraina ký Hiệp ước tại Bêlarút tuyên bố sự cáo chung của Liên Xô và sự ra đời
của cộng đồng các quốc gia độc lập - SNG. Liên bang Nga trở thành người thừa kế Liên
Xô cũ. Chính quyền Nga do B.Elsin làm Tổng thống chuyển nhanh sang nền kinh tế thị
trường tự do, đẩy mạnh việc tư nhân hoá, tạo dựng chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng,
cộng hoà tổng thống, tập trung nhiều quyền lực cho tổng thống. Đồng thời, B.Elsin cũng
đề ra chính sách đối ngoại “định hướng Đại Tây Dương” với mục tiêu đưa nước Nga
nhanh chóng hội nhập với phương Tây và phục hồi vị thế cường quốc của Liên bang Nga
trên trường thế giới.
Cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực diễn ra gay gắt trong chính quyền mới của
nước Nga, mâu thuẫn giữa B.Elsin, đại diện cho cơ quan hành pháp mới và Chủ tịch Xô
viết tối cao Khasbulatov, đại diện cho hệ thống cơ quan lập pháp cũ, đẩy đến cao điểm
thành cuộc xung đột vũ trang đẫm máu tháng 10 năm 1993. Kết quả là hệ thống Xô viết cũ
từ Trung ương đến địa phương bị xoá bỏ. Đối thủ chính trị của B.Elsin đã bị loại bỏ và
quyền lực của B.Elsin được củng cố.
Ngày 12 tháng 12 năm 1993, B.Elsin tổ chức trưng cầu dân ý, thông qua Hiến pháp
và bầu Quốc hội mới. Nước Nga theo chế độ cộng hoà tổng thống với Quốc hội liên bang

13
gồm hai viện là Thượng viện (Hội đồng liên bang) và Hạ viện (Duma quốc gia). Với chế
độ này, quyền lực tập trung chủ yếu trong tay Tổng thống. Tổng thống đã dàn xếp với các
lực lượng chính trị ký kết thoả ước cam kết không dùng vũ lực để giành chính quyền, thay
đổi một số thành phần chính phủ, đưa một số người có quan điểm cải cách ôn hoà vào
chính phủ để giảm bớt sức ép của phe đối lập đối với chính phủ và Tổng thống. Tổng
thống trực tiếp chỉ huy các Bộ Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao, Nội vụ. Tuy nhiên, do
ảnh hưởng của tình hình kinh tế và việc đưa quân vào Chechnya (12-1994), uy tín của

Tổng thống và chính phủ sụt giảm nghiêm trọng. Trong nội bộ chính phủ và giữa các phe
phái diễn ra sự phân hoá gay gắt. Tháng 6 năm 1995, Duma ra Nghị quyết bất tín nhiệm
chính phủ Chernomyrdin. Để tránh đổ vỡ, hơn nữa tương quan lực lượng chưa đủ áp đảo,
hai bên đã đi đến sự thoả hiệp với nhau. Tổng thống phải cách chức Bộ trưởng An ninh,
Nội vụ và Bộ trưởng phụ trách các vấn đề dân tộc và chính sách khu vực, còn chính phủ
Chernomyrdin được tiếp tục duy trì.
Trong cuộc bầu cử Duma khoá II (17-12-1995), Đảng cộng sản Liên bang Nga
giành được thắng lợi lớn, còn “Đảng nước Nga ngôi nhà của chúng ta ” và các đảng phái
dân chủ khác thất bại, giành được số ghế ít hơn.
Năm 1996 diễn ra cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 4 năm (1996-2000). B.Elsin đã
thắng cử sau hai vòng bỏ phiếu với số phiếu 53,8% và tiếp tục giữ chức Tổng thống Liên
bang Nga nhiệm kỳ hai đến tháng 6 năm 2000. Trong nhiệm kỳ hai này của mình, B.Elsin
đã làm nhiều việc để xoa dịu mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị, nhưng đều không đạt
được ý muốn. Trong năm 1999, B.Elsin đã hai lần thay đổi thủ tướng và cải tổ chính phủ:
cách chức Primakov (12-5-1999) đưa Stepasin lên thay (19-5-1999), cách chức Stepasin
(12-8-1999) đưa V.Putin lên thay (16-8-1999). Ngược lại, lực lượng cánh tả, lực lượng đối
lập cũng đấu tranh quyết liệt đòi thay đổi đường lối, luận tội và phế truất Tổng thống.
Để tạo ưu thế thuận lợi trong Duma, ít tháng trước ngày bầu cử Duma, Tổng thống
đã cho ra đời Đảng Thống nhất để giành một số ghế trong Duma. Kết quả cuộc bầu cử
Duma tháng 12 năm 1999 là: Đảng Cộng sản Liên bang Nga được 113 ghế, Đảng Thống
nhất 72 ghế, Tổ quốc- Toàn Nga 67 ghế, Liên minh hữu 29 ghế, Đảng dân chủ tự do 17
ghế, Phái Yablako 20 ghế, Nước Nga ngôi nhà của chúng ta được 7 ghế, các ứng cử viên
độc lập được 116 ghế. Tổng cộng là 441 ghế. Tuy nhiên, B. Elsin đã tuyên bố từ chức
trước thời hạn 6 tháng và đề nghị Thủ tướng V.Putin làm quyền Tổng thống Liên bang

14
Nga. Cuộc bầu cử tổng thống Liên bang Nga nhiệm kỳ III được tổ chức ngày 26 tháng 3
năm 2000, quyền Tổng thống V.Putin đã thắng cử với trên 52,4% phiếu bầu. V.Putin lên
nắm chính quyền đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh giành quyền lực giữa các đảng phái trong
nội bộ nước Nga.

* Về kinh tế - xã hội: Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga ra đời với tư cách là
một quốc gia độc lập, là người kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô, được thừa hưởng chủ
yếu “gia tài” vĩ đại của Liên Xô để lại. Liên bang Nga thừa hưởng khoảng 75% tiềm lực
công nghiệp và khoảng 70% tiềm lực kinh tế nói chung của Liên Xô.
Nước Nga bước vào công cuộc cải cách kinh tế trong điều kiện rất khó khăn và
chứa đựng đầy mâu thuẫn. Hậu quả của thời kinh tế bao cấp và 5 năm cải tổ thời
Goócbachốp (1986-1991) đã để lại cho Liên bang Nga một di sản nặng nề. Thực trạng kinh
tế của Nga năm 1991 là: GDP giảm 15%, công nghiệp giảm 12-15%, ngũ cốc giảm 24%,
lạm phát 15-20%/ tháng [25, tr. 83]. Sự sụp đổ của Liên Xô làm cho các mối quan hệ kinh
tế thương mại giữa các nước cộng hoà và các bạn bè truyền thống bị tan vỡ. Chương trình
cải cách kinh tế 500 ngày của Yavlinski- lãnh tụ phái Yablaco, “Liệu pháp sốc” thả nổi giá
cả, tư nhân hoá ồ ạt, thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ theo mô hình của IMF, cơ cấu
lại nền kinh tế, tự do hoá kinh tế và mở rộng kinh tế đối ngoại của quyền Thủ tướng Gaida
đã thất bại. Nguyên nhân là do tình hình chính trị không ổn định, các biện pháp cải tổ kinh
tế vội vã không tính đến đặc thù của nước Nga và đã mắc phải nhiều sai lầm trong cách
thức tiến hành. Một năm sau cải cách, năm 1992, GDP giảm 19%, công nghiệp giảm
18,8%, nông nghiệp giảm 8%, đầu tư cơ bản giảm 45%, thâm hụt ngân sách 20,0% GDP,
lạm phát trên 20%/ tháng, giá cả tăng 26 lần, thu nhập thực tế của người dân chỉ bằng 44%
đầu năm 1992 [26, tr. 83].
Chương trình cải cách kinh tế thất bại, xung đột vũ trang và khủng hoảng chính trị
xảy ra liên miên đã làm cho nền kinh tế nước Nga lại tiếp tục suy giảm và đã xuống tới
điểm thấp nhất. Năm 1994, GDP giảm 12%, bằng 53% GDP của Nga năm 1990, công
nghiệp giảm 23%, lạm phát khoảng 12%/tháng, nợ chồng chéo giữa các xí nghiệp không
thanh toán được với nhau khoảng 125 ngàn tỷ rúp [26, tr. 84].
Để cứu vãn tình hình, cuối năm 1994, Chính phủ Nga đưa ra Chương trình ổn định
và phát triển kinh tế trung hạn 1995-1997 với ý đồ kiềm chế lạm phát, chống suy thoái sản
xuất để ổn định kinh tế vào năm 1996. Nhà nước quy định biên độ dao động tỷ giá giữa

15
đồng rúp và đồng đôla, phát hành tín phiếu, trái phiếu, hạn chế lưu thông tiền mặt nên đã

từng bước hạ được mức lạm phát, giữ được đồng rúp ổn định.
Từ cuối năm 1995, kinh tế Nga đã có bước khởi sắc. Đến cuối năm 1997, GDP của
Nga đã tăng được 0,4% so với năm 1996, công nghiệp tăng khoảng 1,7%, nông nghiệp
được mùa lớn đạt 95,1 triệu tấn lúa mỳ và nước Nga có thể xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn. Lạm
phát dưới 1%/tháng, chỉ số giá cả tăng 8,3%. Nước Nga đã thu hút được 7 tỷ đôla Mỹ vốn
đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996. Trong giai đoạn 1992-1997, đầu tư nước
ngoài vào Nga là 23 tỷ đôla, trong đó đầu tư trực tiếp là 9,7 tỷ đôla Mỹ. Tổng kim ngạch
ngoại thương đạt 138,2 tỷ đôla Mỹ tăng gần 2% so với năm 1996, khai thác được trên 275
triệu tấn dầu và 391 tỷ m
3
khí đốt. Đến năm 1997, đã tư nhân hoá gần 60% số xí nghiệp
quốc doanh cũ, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 60-70% GDP [26, tr. 84].
Đây được coi là những dấu hiệu khả quan cho sự phục hồi và phát triển của nền
kinh tế Nga. Tuy nhiên, tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương đã nhanh chóng gây tác động đến nước Nga. Nền kinh tế mới
được phục hồi của nước Nga không đủ sức chống đỡ lại những ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng. Năm 1998, kinh tế Nga lại rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện, sản xuất suy
thoái nghiêm trọng. So với năm 1997, GDP năm 1998 giảm 8%, sản xuất công nghiệp
giảm 4,5%, 48% số xí nghịêp có nguy cơ bị phá sản, sản xuất nông nghiệp giảm 8-9%, sản
lượng lúa mỳ đạt 47 triệu tấn, lạm phát tăng 100%, kim ngạch ngoại thương hai chiều giảm
17% [26, tr. 85].
Dư âm của cuộc khủng hoảng còn kéo dài đến năm 1999. Đồng thời, trong thời
gian này cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực ở nước Nga đang diễn ra quyết liệt (trong
vòng chưa đầy 1 năm, từ tháng 9 năm 1998 đến tháng 8 năm 1999, ở Nga đã ba lần thay
đổi chính phủ), đã làm cho nền kinh tế Nga lại tiếp tục bị suy giảm. Các chỉ tiêu kinh tế
đều thấp hơn so với năm 1997, GDP chỉ bằng 98,1%, nông nghiệp bằng 88,9%, đầu tư vốn
cơ bản bằng 94,2%. Tuy nhiên, lạm phát đã giảm, chỉ còn mức 36,5%, công nghiệp tăng
8,1%. Người ta ước tính, sau 8 năm tiến hành cải cách (1991-1998), con số thiệt hại lên tới
1200 tỷ đôla Mỹ, gấp 3 lần thiệt hại trong Chiến tranh thế giới lần II (420 tỷ đôla Mỹ) [26,
tr. 86].

Khủng hoảng kinh tế trầm trọng đã làm cho đời sống xã hội của người dân Nga bị
suy giảm. Thu nhập thực tế của người dân Nga liên tục giảm trong những năm tiến hành

16
quá trình cải tổ và đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tháng 8 năm 1998. Tổng thu nhập bằng
tiền của người Nga, theo phương pháp tính toán của Liên hiệp quốc, chỉ bằng gần 10% chỉ
số tương ứng của người Mỹ. Các chỉ số chủ yếu cho thấy chất lượng của cuộc sống như:
tình trạng sức khoẻ, tuổi thọ của người Nga tiếp tục giảm sút. Nhân dân mất niềm tin vào
nhà nước.
* Về uy tín quốc tế: Uy thế của Nga trên trường quốc tế đã giảm sút mạnh so với
Liên Xô trước đây. Sự suy giảm vị thế của Nga không chỉ gắn liền với cuộc khủng hoảng
kinh tế xã hội trầm trọng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, mà còn với thực tế rất bất lợi sau khi
trật tự thế giới hai cực tan rã, Liên bang Nga trở thành quốc gia không có kẻ thù công khai
và trực tiếp, nhưng cũng không có đồng minh lẫn đối tác tin cậy, những nước có thể giúp
đỡ Nga trong trường hợp xảy ra nguy cơ đe dọa những lợi ích sống còn của Nga.
Ảnh hưởng của Nga bị suy giảm ngay cả đối với các nước SNG và các nước cộng
sản cũ. Những nước ở Châu Âu thì đang có xu hướng gia nhập EU và NATO. Những nước
ở Châu Á, cụ thể là Trung Á, đang rơi vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc hoặc của Mỹ.
Với tình hình kinh tế còn eo hẹp, Nga không đủ khả năng để giành ưu thế so với Mỹ nên
buộc phải nhượng bộ và hoà hoãn nhiều vấn đề. Nga hoàn toàn không phải là đối thủ
ngang bằng với Mỹ.
Trong quan hệ chính trị quốc tế, nước Nga rơi vào nguy cơ bị cô lập, bị gạt ra ngoài
lề các công việc của châu Âu và thế giới, không lọt vào danh sách các trung tâm sức mạnh
chủ yếu của trật tự thế giới thế kỷ XXI. Nước Nga hầu như đứng tách biệt khỏi xu thế khu
vực hoá và quốc tế hoá.
Như vậy, bức tranh toàn cảnh về đất nước Nga mang đậm một gam màu xám:
chính trường nước Nga rối như mớ bòng bong, kinh tế suy thoái nghiêm trọng, tài sản quốc
gia bị đục khoét mục ruỗng, các băng đảng mafia mọc lên như nấm sau cơn mưa. Nước
Nga không có một trung tâm quyền lực tuyệt đối và như thế cuộc đấu tranh giành quyền
lực sẽ diễn ra vô cùng khốc liệt. Có thể nói, thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX là thập kỷ

khó khăn nhất của nước Nga. Nhưng ở thời điểm bước sang thế kỷ mới, ở nước Nga đã
diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng, cuộc bầu cử tổng thống đã kết thúc với sự thắng
lợi của một nhân vật đang đi vào lịch sử nước Nga, đó là Tổng thống V.Putin. Ông được
coi như là ngôi sao mới xuất hiện trên bầu trời chính trị Nga.


17
1.3. Vài nét về con người V.Putin
V.Putin tên đầy đủ là Vladimir Vladimirovich Putin. Ông sinh ngày 7 tháng 10
năm 1952 ở Lêningrad (nay là Saint-Peterburg), trong một gia đình bình dân. Mẹ ông, bà
Maria là công nhân trong nhà máy và cha ông, ông Vladimir làm việc trong lực lượng hải
quân, tại hạm đội tàu ngầm. Sau này ông chuyển sang lực lượng bộ binh trong Thế chiến
thứ hai. V.Putin có hai người anh ra đời giữa thập niên 1930, nhưng đều đã chết từ nhỏ,
một người trước chiến tranh và một người trong thời gian phong toả Lêningrad. Theo nhận
xét của những người thân quen với gia đình Putin thì họ đều là những người nhân hậu. Gia
đình không bao giờ to tiếng với nhau, và đặc biệt họ giáo dục con trai rất nghiêm khắc, dạy
con trai luôn biết hướng về Tổ quốc. Vì thế, đối với V.Putin, khi chỉ là nhân viên của Cục
tình báo Liên bang (KGB) và sau này khi đã là Tổng thống, thì nhiệm vụ hàng đầu là bảo
vệ nước Nga, nhân dân Nga và khôi phục vị thế cường quốc cho nước Nga, Điều này
không phải người lãnh đạo nào của nước Nga cũng để ý đến.
V.Putin có vợ và hai người con gái. Phu nhân V.Putin, bà Ludmila Alecxandrovna
Putina (tên thời con gái Shkrebneva), sinh ngày 6 tháng 1 năm 1958. Bà là người khiêm
tốn và cởi mở. Con gái lớn của V.Putin là Ekaterina, sinh năm 1985, còn cô út là Maria,
sinh năm 1986.
Từ thời đi học, V.Putin đã tỏ rõ khả năng thiên về các môn khoa học xã hội. Ông
đặc biệt ham thích các tin chính trị, những sự kiện đang xảy ra trên thế giới. V.Putin đã lấy
đề tài “Nguyên tắc tối huệ quốc trên bình diện quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp đại học của
mình. Trong thời gian học đại học ở Lêningrad, V.Putin đã làm quen với ông Anatoli
Sobchak, khi ấy là trợ giảng, về sau là Phó giáo sư khoa Luật Kinh tế. Đây chính là người
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của V.Putin sau này.

Trong suốt thời gian từ tháng 5 năm 1990 đến tháng 6 năm 1996, V.Putin đã hoàn
thành nghĩa vụ của một người trợ lý, cán sự, thư ký và đại diện cho Chủ tịch Hội đồng
Lêningrad, ông A.Sobchak. V.Putin là chiến hữu duy nhất, luôn bên cạnh A.Sobchak. Bề
ngoài V.Putin chỉ giữ vai phụ nhưng lại thực hiện những chuẩn mực của vai chính. V.Putin
đã trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất ở Saint-Peterburg. Thời gian
bên cạnh A.Sobchak này đã giúp V.Putin rất nhiều trên con đường chính trị của ông sau
này và cũng có thể, chính nhiệm vụ cố vấn về các vấn đề quốc tế đã giúp ông trong việc
định hình chính sách đối ngoại cho Liên bang Nga.

18
Sự xuất hiện của V.Putin trên chính trường nước Nga thời điểm này được coi là
một trong những sự kiện quan trọng khép lại thế kỷ XX và mở ra thế kỷ XXI. Phản ứng
của người dân Nga trước sự xuất hiện của V.Putin rất khác nhau. Không quan tâm bởi lẽ
cũng sẽ giống như những người tiền nhiệm trước, ông không mang đến được nhiều sự thay
đổi cho nước Nga. Là sự hoài nghi về thời gian tồn tại của chính quyền mới và tác động
của những chính sách mới. Nhưng cũng có không ít người tin tưởng vào sự trẻ tuổi và bản
lĩnh của cựu điệp viên tình báo thời Liên bang Xô viết.
Tính đến thời điểm hiện nay, V.Putin đã đi hết hai nhiệm kỳ Tổng thống của mình.
Nhìn lại tình hình nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XX, chúng ta mới có thể cảm
nhận được sự thay đổi rõ rệt của nước Nga hiện nay. Và sự thay đổi đó của nước Nga có
được đó chính là nhờ sự linh hoạt, khéo léo và đầy tính thực dụng của Tổng thống V.Putin
được thể hiện qua chính sách đối ngoại của ông. V.Putin được coi như là một vị thuyền
trưởng đã dẫn dắt con thuyền nước Nga vượt qua nhiều sóng gió. Trong cuộc họp báo cuối
cùng trên cương vị Tổng thống ngày 14 tháng 2 năm 2008, V.Putin đã nói: “Tất cả các
mục tiêu đặt ra đều đã đạt được và các nhiệm vụ đã được hoàn thành”. Năm 2007, tăng
trưởng kinh tế Nga đạt 8,1% và sức mua sắm đứng thứ 7 trong các nền kinh tế thế giới.
Nước Nga đã xây dựng được cơ sở cho một nền kinh tế thị trường mới và đang nhanh
chóng trở thành một trong những “ông lớn” của nền kinh tế thế giới. Về uy tín quốc tế,
Nga đã không còn là vị khách của Châu Âu mà đang dần lấy lại được vị thế cường quốc
của mình, được Mỹ và Châu Âu tôn trọng.

Có một điểm khác biệt rất lớn giữa V.Putin và những người tiền nhiệm, đó là
V.Putin là “tín đồ” trung thành của chủ nghĩa Đại Nga và chính sách đối ngoại cường
quốc. V.Putin có một niềm tin mãnh liệt vào sự hồi phục của nước Nga. Niềm tin đó được
xây dựng dựa trên nền tảng giáo dục của gia đình từ khi còn nhỏ và trong thời gian còn là
điệp viên tình báo của KGB. V.Putin còn là một con người hết lòng vì nhân dân và đất
nước Nga. Ông luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, luôn quan tâm tới sự ổn định,
phồn thịnh và dân chủ ở Nga. Đúng như lời nhận xét của cựu Tổng thống Nga B.Elsin,
V.Putin đã “quy tụ quanh mình những người quyết tâm làm sống lại trong thế kỷ XXI một
nước Nga lớn [34, tr. 505]”. Chính niềm tin và sự quyết tâm đó đem lại thành công cho
V.Putin và cho nước Nga.


19


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN
BANG NGA DƯỚI THỜI
TỔNG THỐNG V.PUTIN

2.1. Quá trình hình thành chính sách đối ngoại
2.1.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại
Ngày 31 tháng 12 năm 1999, V.Putin nhận chức quyền Tổng thống Liên bang Nga
từ tay người tiền nhiệm B.Elsin. Ông hiểu rằng, đây không phải là món quà ngọt ngào chào
đón thế kỷ mới. Trước mắt ông bây giờ là những khó khăn và thách thức. V.Putin phải làm
gì để cải thiện được tình hình của nước Nga và đồng thời lấy lại được hình ảnh của một
cường quốc.
Qua những năm tháng làm việc cùng A.Sobchak tại Saint-Peterburg, qua thực tế
đang diễn ra ở nước Nga, V.Putin hiểu rằng phải tìm ra được cho nước Nga một chiến lược
lâu dài, mà ưu tiên trước mắt là tạo sự ổn định và phát triển kinh tế của quốc gia chứ không
phải là tăng cường ảnh hưởng ra bên ngoài.V.Putin hiểu rằng trong thế giới ngày nay, sức

mạnh kinh tế, quyền lực kinh tế trở nên quan trọng hơn, quyết định đến sự tồn tại và hưng
thịnh của một quốc gia. Khi nước Nga có được dấu hiệu hồi phục và bắt đầu đi vào quỹ
đạo phát triển thì ưu tiên tiếp theo đó là khôi phục địa vị cường quốc thế giới cho nước
Nga. Việc xác định mục tiêu này đóng một phần quan trọng trong sự thành công của chính
sách đối ngoại. Trong “Chiến lược đối ngoại của Liên bang Nga”, công bố ngày 28 tháng 6
năm 2000, V.Putin đã từng khẳng định:“Một đường lối đối ngoại thành công của Nga phải
được xây dựng trên cơ sở tuân thủ sự cân bằng giữa các mục tiêu và khả năng đạt được các
mục tiêu đó”.
Chiến lược đối ngoại mới của Nga phải nhằm hai mục tiêu:
- Một là, tạo mọi điều kiện thuận lợi để có thể ổn định tình hình chính trị và từng
bước khôi phục, phát triển nền kinh tế trong nước.

20
- Hai là, bảo đảm cho nước Nga giữ được vị trí nhất định trên trường quốc tế, trước
hết là ở các khu vực, lĩnh vực chiến lược quan trọng nhất.
Đây được xem là mục tiêu cơ bản trong chính sách đối nội và chính sách đối ngoại
của Tổng thống V.Putin. Nhưng ở Tổng thống V.Putin có điểm khác biệt so với những
người tiền nhiệm trước, đó là ranh giới giữa chính sách đối ngoại và đối nội của ông hầu
như đã bị xoá nhoà. Chính sách đối ngoại của Nga phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản của
nhân dân Nga: tích cực vượt qua nghèo đói, xây dựng đội ngũ công chức trong sạch không
tham nhũng, hạn chế ảnh hưởng của “bọn tài phiệt”, chấm dứt chiến tranh ở Chechnya,…
Việc củng cố thể chế nhà nước Nga cũng như sự gia tăng tốc độ phát triển kinh tế đã ảnh
hưởng tích cực tới vị thế quốc tế của nước Nga và ngược lại một mối quan hệ hợp tác quốc
tế hiệu quả sẽ có thể đem lại lợi ích trong phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hoá -
giáo dục trong nước.
Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga cần đóng góp thiết thực vào những nhiệm
vụ chung của quốc gia như nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Nga, tăng cường
xuất khẩu hàng hoá, bảo vệ lợi ích của các công ty Nga ở nước ngoài và thúc đẩy sự liên
kết giữa kinh tế Nga với nền kinh tế thế giới, góp phần thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi
tổng sản phẩm quốc nội của Nga vào năm 2010.

Mục tiêu cao nhất của đường lối đối ngoại là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và
các cá nhân. Muốn hồi sinh lại nước Nga, chính sách đối ngoại của V.Putin phải đạt được
các mục tiêu trên, trong đó quan trọng nhất là bảo vệ vững chắc an ninh của đất nước, giữ
gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị trí và uy tín của nước Nga trong cộng
đồng thế giới, đưa nước Nga trở thành một cường quốc. Từ đó, hình thành một vành đai
láng giềng thân thiện xung quanh biên giới nước Nga, xoá bỏ và ngăn chặn việc nảy sinh
những cuộc xung đột ở khu vực gần kề lãnh thổ Nga.
V.Putin muốn đưa nước Nga trở thành cường quốc thế giới bằng sức mạnh của
chính nước Nga. Muốn làm được điều đó thì Nga phải có một nền kinh tế phát triển. Và
V.Putin đã đề ra một nguyên tắc, đó là lấy ngoại giao phục vụ kinh tế, lấy mục tiêu đối
ngoại để phục vụ mục tiêu đối nội. Theo V.Putin, mục tiêu cơ bản của chính sách ngoại
giao là tạo ra và duy trì môi trường quốc tế và môi trường xung quanh tốt đẹp để tập trung
sức lực và tài nguyên giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Lợi ích kinh tế không

21
chỉ là nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga mà đó còn là động
cơ thúc đẩy sự phát triển của nền ngoại giao Nga.
Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga thuộc lĩnh vực quyền lực của Tổng thống,
Chính phủ không hề ảnh hưởng gì tới chính sách đó. Chính sách đối ngoại cuối cùng phải
giành thắng lợi, phải tạo điều kiện thuận lợi để chiếm lĩnh thị trường bên ngoài cho các nhà
máy, xí nghiệp trong nước. Tại hội nghị ngành ngoại giao mang chủ đề “Các cuộc cải cách
ở Nga và nhiệm vụ của ngành ngoại giao”, ngày 12 tháng 7 năm 2004, Tổng thống V.Putin
đã khẳng định: “nhiệm vụ ưu tiên là phải bảo vệ lợi ích của Nga ở nước ngoài. Nước Nga
không cho phép người khác chà đạp lên quyền lợi của công dân nước ta và coi họ như
những công dân loại hai. Vì thế, chúng ta có thể áp dụng mọi biện pháp ngoại giao truyền
thống tới biện pháp mậu dịch kinh tế nghiêm khắc. Tất cả mọi người cần nhớ rằng, bài
xích nước Nga là việc không thể làm được và cũng không có kết quả gì. Nhiệm vụ của
chính sách đối ngoại là nâng cao uy tín của nước Nga. Nếu không làm được như vậy,
chúng ta vừa không bảo vệ được công dân nước mình, vừa không thể giúp được ngành
xuất khẩu nước ta. Do đó, từ nay về sau, chúng ta phải tích cực tham gia gìn giữ hoà bình

và hành động, tham gia vào hoạt động của các tổ chức khu vực và quốc tế”[64].
Quan điểm chiến lược của V.Putin: “Lấy lợi ích quốc gia làm hạt nhân; lấy phát
triển kinh tế làm tiền đề; lấy tinh thần dân tộc làm động lực; lấy chính quyền hiệu quả làm
chỗ dựa; lấy đoàn kết xã hội làm biện pháp; lấy lịch sử làm bài học kinh nghiệm; không chỉ
một chiều phê phán sai lầm của thời kỳ Liên Xô mà còn khẳng định những thành tựu của
thời kỳ Liên Xô; lấy việc chọn con đường phát triển phù hợp làm phương hướng; không đi
theo con đường của Châu Âu và Mỹ; lấy hợp lý hóa môi trường bên ngoài làm điều kiện và
cuối cùng lấy chấn hưng địa vị nước lớn làm mục tiêu” [52, tr. 61].
Chính sách đối ngoại của Nga phải hướng tới mục tiêu tác động vào tiến trình
chung của thế giới nhằm xây dựng một trật tự thế giới ổn định, công bằng và dân chủ trên
cơ sở những nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được thừa nhận, kể cả những mục tiêu và
nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, trên cơ sở bình đẳng và quan hệ đối tác giữa
các quốc gia.
Nhìn chung, chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia đều nhằm ba mục tiêu cơ bản là
an ninh, phát triển và phát huy ảnh hưởng của quốc gia trên thế giới. Ba mục tiêu này có
quan hệ chặt chẽ với nhau và thứ bậc ưu tiên của mỗi mục tiêu trong việc hoạch định và

22
triển khai chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể
trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách đối ngoại của V.Putin cũng nhằm thực hiện
những mục tiêu đó. Và khi được bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng thống Nga, V.Putin đã quyết
định bắt tay ngay vào công cuộc khôi phục đất nước bằng mọi giá. V. Putin cho rằng đó là
mục tiêu lớn nhất, là ý nghĩa sống còn của cuộc đời ông. Ông nói: “Số phận đã mang đến
cho tôi cơ hội giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc và tôi có nhiệm vụ phải thực
hiện trọng trách đó” [66].
Với những mục tiêu trên, chúng ta thấy ở V.Putin một con người yêu nước, tràn
đầy ý tưởng về sự vĩ đại của nước Nga. Ông muốn nước Nga giữ một vị trí xứng đáng trên
trường quốc tế và được thế giới kính trọng.

2.1.2. Những giai đoạn chính trong quá trình hình thành chính sách đối ngoại

của Tổng thống V.Putin
Chính sách đối ngoại của V.Putin được hình thành và phát triển qua hai giai đoạn
chính, tương đương với hai nhiệm kỳ Tổng thống của ông.
* Nhiệm kỳ I (2000-2004):
Ngay từ những ngày tháng đầu tiên của nhiệm kỳ Tổng thống, V.Putin đã đề ra một
đường lối đối ngoại, có thể nói là phù hợp với hoàn cảnh thực tế của nước Nga và đáp ứng
được yêu cầu của người dân Nga. Đường lối đó thể hiện qua các văn bản đã được công bố.
Đó là: “Nguyên tắc chung chính sách ngoại giao Liên bang Nga” (4-2000), “Ý tưởng chính
sách ngoại giao Liên bang Nga” (7-2000), “Chiến lược đối ngoại của Liên bang Nga” (28-
6-2000). Ngoài ra, còn có các văn bản khác như: “Chiến lược an ninh quốc gia Nga” (10-1-
2000),“Học thuyết quân sự Liên bang Nga”, Đây là những văn kiện có ý nghĩa quan
trọng nhất và là bước tiến đáng kể nhất trong lĩnh vực đối ngoại của Liên bang Nga suốt
hơn mười năm qua.
Trong các văn bản này, V.Putin đã thể hiện rõ quan điểm của mình. Trước hết,
V.Putin đã xác định vị trí của nước Nga trong cộng đồng thế giới, các lợi ích quốc gia của
Nga, các nguy cơ và những biện pháp cụ thể để bảo đảm an ninh quốc gia Nga. Theo ông,
nguy cơ trong nước là tình trạng kinh tế sa sút, suy giảm nặng nề và kéo dài, và đó được
coi là nguy cơ hàng đầu đe doạ an ninh quốc gia. Ngoài ra còn là sự thiếu hoàn thiện của

23
bộ máy chính quyền; sự phân hoá về kinh tế, chính trị, xã hội; sự gia tăng tội phạm có tổ
chức; chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo cực đoan Bên cạnh đó là những nguy cơ bên ngoài
trong các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, thông tin, môi trường, cũng đe doạ đến an
ninh quốc gia và lợi ích cá nhân, xã hội, nhà nước Nga. Thời điểm này, V.Putin cũng đã
nhận ra nguy cơ của chủ nghĩa khủng bố: “vấn đề khủng bố trở nên hết sức căng thẳng,
mang tính chất xuyên quốc gia, đe doạ sự ổn định thế giới ”. Từ việc xác định những
nguy cơ đối với quốc gia, chiến lược đã chỉ ra các nhiệm vụ để bảo đảm an ninh cho nước
Nga, “bảo đảm an ninh cho cá nhân, xã hội và nhà nước, bảo vệ đất nước trước những mối
đe dọa từ bên ngoài và bên trong trong mọi lĩnh vực cuộc sống”. Để thực hiện những
nhiệm vụ đó, công tác đối ngoại được đặt lên hàng đầu.

Dựa trên tình hình thế giới và đặc biệt chú trọng đến chính sách đối ngoại của Nga
sau chiến tranh lạnh, nước Nga dưới thời V.Putin sẽ theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập
và xây dựng. Chính sách đó dựa trên sự nhất quán và chủ nghĩa thực dụng cùng có lợi.
Chính sách đó phải hoàn toàn rõ ràng, có tính đến lợi ích hợp pháp của các nước khác và
nhằm tìm kiếm những giải pháp chung.
Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga cần nhằm thúc đẩy thực hiện phương
châm ngoại giao tích cực. Trước hết, cần củng cố cơ chế quản lý đa phương tiến hành
chính trị và kinh tế có tính mấu chốt, tạo điều kiện có lợi cho phát triển kinh tế và xã hội
của đất nước, bảo đảm ổn định toàn cầu và khu vực, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của công dân Nga sống ở nước ngoài.
Nước Nga cần phát triển quan hệ với các quốc gia thành viên của Cộng đồng các
quốc gia độc lập theo chuẩn mực luật pháp quốc tế, phát triển tiến trình nhất thể hoá thích
ứng với lợi ích của Nga trong phạm vi Cộng đồng các quốc gia độc lập. Phải bảo đảm việc
Nga gia nhập cơ cấu kinh tế, chính trị toàn cầu và khu vực với tư cách là một thành viên
được hưởng quyền lợi đầy đủ, được hỗ trợ giải quyết xung đột, bao gồm tham gia vào các
hoạt động gìn giữ hoà bình mà Liên Hợp quốc, Hội đồng Bảo an và cộng đồng các quốc
gia độc lập lãnh đạo.
Nước Nga phải tìm kiếm sự tiến bộ trong lĩnh vực giám sát vũ khí hạt nhân, bảo vệ
sự ổn định chiến lược, bảo vệ và tăng cường địa vị của “Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo”
ký năm 1972. Thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực cắt giảm và tiêu huỷ vũ khí giết người
hàng loạt và vũ khí thông thường, thi hành biện pháp củng cố sự tín nhiệm và ổn định.

×