Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 151 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THẾ HƯỞNG






VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC










HÀ NỘI - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THẾ HƯỞNG





VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI



Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế
Mã số : 60.31.40




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Tất Tố






HÀ NỘI - 2010




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6. Những đóng góp về khoa học và cấu trúc của luận văn
Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.1. Nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung tư tưởng và thực tiễn

hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
1.1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
1.1.4. Thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại nhân
dân trong thời kỳ đổi mới
2.1.1. Về khái niệm đối ngoại nhân dân
2.1.2. Vai trò, mục đích và nhiệm vụ của đối ngoại nhân dân
2.1.3. Hình thức, lực lượng, phương thức và nguyên tắc hoạt động
2.1.4. Đối tác của hoạt động đối ngoại nhân dân
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân
dân trong thời kỳ đổi mới
2.2.1. Hoạt động vì hòa bình, đoàn kết, hợp tác và hữu nghị nhân dân
2.2.2. Hoạt động nhân đạo và công tác viện trợ phi chính phủ nước ngoài
2.2.3. Hoạt động xóa đói giảm nghèo trong công tác đối ngoại nhân dân
2.2.4. Hoạt động thông tin đối ngoại trong công tác đối ngoại nhân dân
2.2.5. Hoạt động trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
1
3
6
7
7
8

9

9

9
11
12
20

29

30
30
33
35
36

37
38
56
63
66
79


Chương 3: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1. Một số kinh nghiệm
3.1.1. Nắm vững độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển
3.1.2. Chủ động, sáng tạo, linh hoạt, giữ vững mục tiêu và nguyên tắc
3.1.3. Tận dụng lợi thế phát huy vai trò, mở rộng, tạo sức mạnh tổng hợp
3.1.4. Trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
3.2. Một vài khuyến nghị
3.2.1. Vận dụng đường lối “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả” của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại nhân dân thời kỳ mới

3.2.2. Chủ động đối thoại và đấu tranh dư luận về vấn đề tôn giáo, dân chủ
và nhân quyền trong tình hình mới
3.2.3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại trong công tác đối
ngoại nhân dân thời kỳ hội nhập quốc tế
3.2.4. Đổi mới công tác vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài và
người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới
3.2.5. Xây dựng “Chiến lược phát triển công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ
hội nhập quốc tế” trong thế kỷ 21
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC







88
88
89
90
92
93
95

96

98


100

103

107
114
118
123













1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, sứ giả của hòa bình và tình hữu
nghị, danh nhân văn hóa thế giới. Người vừa là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà
chiến lược quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, nhà báo kiệt xuất của dân
tộc ta. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là người sáng

lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Tuy Người đã đi xa hơn 40 năm nhưng
cả cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người đã để lại một kho tàng
lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá cho non sông đất nước ta. Là kim
chỉ nam cho cách mạng Việt Nam nói chung và xây dựng nền ngoại giao nói
riêng, từng bước đánh thắng kẻ thù xâm lược và khảng định vị thế của nước ta
trên trường quốc tế, đồng thời có giá trị to lớn đối với công cuộc đổi mới, với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng của đất nước ta.
Trên nền tảng những giá trị lý luận và thực tiễn mà tư tưởng Hồ Chí Minh
để lại, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991) khảng định: "Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng" [24, tr.136]. Đồng
thời đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh là "tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân
tộc ta" [27, tr.84] và Đảng ta “phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [29, tr.282]. Thực tiễn cho thấy,
vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua
những khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những
trang sử hào hùng trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Một trong những di sản trong hệ thống tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho toàn Đảng, cho dân tộc và nhân dân ta là tư tưởng về đối ngoại nhân
dân. Đó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc
của Người, trên cơ sở những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, sự tiếp thu
tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua khảo
sát thực tiễn trong nước và thế giới sau bao năm hoạt động cách mạng để Người

2
hình thành nên tư tưởng đó. Những tư tưởng và quan điểm đó của Người đã trở
thành đường lối, chủ trương và chính sách đối ngoại của Đảng, hợp thành một
chỉnh thể trong chỉ đạo công tác đối ngoại nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, biết vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí

Minh về đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng, đã cho Đảng ta
những quan điểm cơ bản trong đường lối đối ngoại đúng đắn dần được hình
thành và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc (từ Đại hội VI tới Đại hội
X). Những thành tựu to lớn đạt được trên mặt trận đối ngoại nói chung, đối ngoại
nhân dân nói riêng trong gần 25 năm đổi mới đã minh chứng cho tính đúng đắn,
vận dụng sáng tạo, có hiệu quả của Đảng trong định hướng và phát triển công tác
đối ngoại nhân dân. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ ngày càng được coi trọng, trong Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã chỉ rõ: "Phối hợp chặt chẽ hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân" và phát
triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng
tạo và hiệu quả" [29, tr.115-116].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công gặt hái được, mặt trận đối ngoại
nhân dân Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ 21 cũng đang gặp phải
không ít những khó khăn, thách thức cần đổi mới trong bối cảnh đất nước đang
hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tình hình
trong nước và thế giới đang không ngừng vận động và biến đổi, nhiều vấn đề
mới nảy sinh, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách để can thiệp, chi phối
và phá hoại chúng ta, nhất là trên mặt trận đối ngoại.
Trước tình hình đó, với mong muốn đẩy mạnh nghiên cứu một cách sâu sắc,
toàn diện, có hệ thống tư tưởng của Người về công tác đối ngoại nhân dân trong
thời kỳ này và rút ra bài học kinh nghiệm thiết thực. Từ đó khai thác và vận dụng
một cách sáng tạo, linh hoạt, có hiệu quả tư tưởng của Người vào hoạt động đối
ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (cùng phối hợp với hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước để tạo thành một binh chủng đối
ngoại chung của đất nước) trong những thập niên đầu thế kỷ 21 có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy tôi chọn vấn đề "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới" làm đề tài luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành quan hệ quốc tế.

3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại nói chung và sự vận dụng
của Đảng ta được nhiều nhà khoa học, viện nghiên cứu quan tâm nghiên cứu,
nhất là trong những năm gần đây. Đến nay có không ít các công trình khoa học,
luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, sách chuyên đề, bài viết trên báo và tạp chí đã
đề cập đến. Tuy nhiên tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân, nhất là sự
vận dụng tư tưởng đó của Người trong thời kỳ đổi mới còn ít được các nhà khoa
học, các luận án và luận văn quan tâm nghiên cứu. Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng, mỗi nhà nghiên
cứu đều có cách tiếp cận, nhìn nhận, đánh giá vấn đề này ở những góc độ khác
nhau. Cụ thể là:
Đề tài và hội thảo khoa học
- Đề tài khoa học cấp bộ, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao
năm 2002, Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin làm chủ nhiệm. Đề tài gồm một số đề
tài nhánh, các tác giả đi sâu phân tích các nội dung: bối cảnh ra đời, quá trình
phát triển, nguồn gốc và những nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh,
phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao của Người.
- Đề tài khoa học cấp bộ, Vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh thời kỳ hội nhập, Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao, Bộ Ngoại giao năm
2008 do PGS,TS. Vũ Dương Huân làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu những nội
dung cơ bản về tư tưởng đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại
giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó thời kỳ hội nhập.
- Một số tài liệu hội thảo, tọa đàm khoa học có liên quan tới nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao như: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh (Bộ Ngoại giao-2000); Công tác đối ngoại nhân dân trong sự nghiệp
đổi mới (Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam - 2002).
Sách
- Viện Quan hệ Quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao
(Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990). Phản ánh khá đầy đủ tư tưởng, hoạt động, kinh
nghiệm của Người về ngoại giao được hình thành trong hoạt động cách mạng.

- Viện Quan hệ Quốc tế, Vũ Khoan chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác ngoại giao (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1999). Nội dung cuốn sách đã phân

4
tích một cách sâu sắc quá trình hoạt động đối ngoại của Người từ năm 1941 đến
năm 1969 và rút ra những bài học kinh nghiệm quý, khái quát về tư tưởng đối
ngoại, về phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Luân, Hồ Chí Minh: Trí tuệ lớn của nền
ngoại giao Việt Nam hiện đại (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), đã cố
gắng làm rõ một số quan niệm của Người về bạn thù, về sách lược tập hợp lực
lượng, về chính sách đối ngoại, về phương pháp dự báo thời cơ.
- Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn mới (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). Tác giả đã trình bày những nội dung chủ yếu
tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, nêu lên phương pháp, phong cách, nghệ
thuật trong hoạt động ngoại giao của Người. Đặc biệt về việc vận dụng tư tưởng
của Người vào xử lý một số vấn đề đối ngoại của đất nước ta hiện nay.
- Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hoạt động đối ngoại nhân dân
Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Đây là một cuốn sách hiếm
hoi chuyên ngành, các tác giả đã cố gắng giới thiệu một cách khái quát nhất bức
tranh về quá trình hình thành, phát triển của công tác đối ngoại nhân dân của
nước ta từ năm 1945 đến nay. Đây là nguồn tư liệu quý cho tác giả khi thực hiện
đề tài luận văn.
- Đinh Xuân Lý, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của
Đảng trong thời kỳ đổi mới (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007). Tác giả cũng
đã khái quát sự ra đời, quá trình phát triển, nguồn gốc, nội dung tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người thời kỳ đổi mới.
- Bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu Lịch sử ngoại giao, Vận dụng tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế (Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội, 2009). Các tác giả đề cập tới vấn đề đặt ra cho ngoại giao Việt Nam và vận

dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập.
- Một số cuốn sách khác như: Vũ Dương Huân: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao (2005); Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995) của Lưu
Văn Lợi, Nxb Công an nhân dân, 1996;; Phan Ngọc Liên: Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về một số vấn đề quốc tế (1995); Đỗ Đức Hinh: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đối ngoại - Một số nội dung cơ bản (2007), vv.

5
Luận văn và luận án
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, khoa học chính
trị, khoa học quan hệ quốc tế được thực hiện gần đây:
- Luận văn thạc sĩ (2008), “Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh vào
việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” của
tác giả Hoàng Thị Hương Thu, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh.“Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại và sự
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Phạm
Thanh Thuỷ, (2009), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ (2005), “Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
giai đoạn 1954 - 1969” của tác giả Trần Minh Trưởng, Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Báo và tạp chí
Nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các tổ chức đoàn thể
nhân dân, các nhà khoa học về hoạt động đối ngoại nói chung, về đối ngoại nhân
dân nói riêng được đăng tải trên các tạp chí như: Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Lịch
sử, Tạp chí Cộng sản, Thông tin đối ngoại, Nghiên cứu Quốc tế, Tạp chí Hữu
nghị, Tạp chí Quê hương.
- Vũ Dương Ninh: “Quan điểm quốc tế trong tư tưởng chiến lược đại đoàn
kết Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
- Văn Tạo: “Công tác đối ngoại hiện nay trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.

- Nguyễn Trọng Phúc: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao sau
hiệp định Giơnevơ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1995.
- Phạm Hồng Chương - Phùng Đức Thắng: “Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 12 - 1999.
- Vũ Xuân Hồng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân”
Tạp chí Cộng sản, số 12 - 2003.
- Nguyễn Dy Niên: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh ánh sáng soi đường
và đảm bảo thành công cho đối ngoại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin đối ngoại số
5 - 2004.

6
- Minh Thắng: “Đổi mới và mở rộng công tác đối ngoại nhân dân: Lý luận
và thực tiễn”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 6 - 2005.
- Vũ Xuân Hồng: “Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi
mới và quan hệ nhân dân với Lào, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 6 - 2007.
- Đức Vượng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ”, Tạp chí Tuyên
giáo, số 1 - 2010.
Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết trên ngày càng làm rõ hơn tư
tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh nói chung và bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu tư
tưởng của Người về công tác đối ngoại nhân dân, phân tích sự vận dụng đó của
Đảng ta trong cách mạnh trước đây và công cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên
đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học cụ thể nào trực tiếp đi sâu nghiên
cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong
thời kỳ đổi mới một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc. Các công trình nghiên
cứu nêu trên là cơ sở để cung cấp luận cứ, luận chứng để tác giả nghiên cứu và
hoàn thành đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Làm rõ nội dung cơ bản về quá trình hình thành tư tưởng và thực tiễn hoạt
động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nghiên cứu sự

vận dụng tư tưởng đó vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ
- Làm rõ hơn quá trình hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác đối ngoại nhân dân, nêu khái quát một số quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
- Tìm hiểu, làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và đoàn thể
nhân dân ta vào hoạt động đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới.
- Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình vận dụng tư
tưởng của Người thời kỳ đổi mới.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức, khả
năng vận dụng sáng tạo và có hiệu quả tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế những thập niên đầu
của thế kỷ 21.

7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình hình thành và những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại nhân dân.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại nhân dân trong thời
kỳ đổi mới.
- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại nhân dân.
- Một số nội dung cơ bản và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
- Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và một số tổ

chức đoàn thể nhân dân ta vào một số lĩnh vực cụ thể trong công tác đối ngoại
nhân dân thời kỳ đổi mới. Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm, đưa ra
một số khuyến nghị vận dụng trong đối ngoại nhân dân thời kỳ hội nhập.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
- Luận văn thực hiện trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác -Lênin về cách mạng và phương pháp đấu tranh cách mạng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân và những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới.
- Những quan điểm của các nhà khoa học trong và ngoài nước về công tác
đối ngoại nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm rõ vấn đề.
- Tuân thủ các nguyên tắc: khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát
triển để luận giải và dự báo vấn đề nghiên cứu.

8
- Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: khoa học
xã hội và nhân văn, lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, hệ thống, so sánh,
tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, để làm rõ nội dung đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học và cấu trúc của luận văn
a) Những đóng góp về khoa học
- Góp phần tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống và luận giải những nội
dung chủ yếu, những giá trị thực tiễn trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại nhân dân trong quá trình hoạt động cách mạng.
- Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng, nhân dân ta trong thời kỳ
đổi mới. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu và các nhà
khoa học đi trước, luận văn cố gắng khái quát, hệ thống, làm rõ hơn nguồn gốc

và quá trình hình thành tư tưởng và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại nhân dân và thực tiễn hoạt động của Người, cũng như sự vận
dụng tư tưởng đó của Đảng và nhân dân ta vào hoạt động đối ngoại nhân dân trên
một số lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đổi mới.
- Trên cơ sở nghiên cứu, bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm và đề
xuất một số khuyến nghị trên một số lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt góp phần tiếp tục
vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào xây dựng đường lối và chiến lược đối
ngoại nhân dân của Đảng ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay
và trong những thâp niên đầu của thế kỷ 21.
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân. Nó còn phục vụ tốt cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, giữ gìn, tuyên truyền, vận dụng, kế thừa,
phát triển sáng tạo tư tưởng của Người thời kỳ hội nhập quốc tế.
b) Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo; cấu trúc của luận văn được chia làm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Quá trình hình thành tư tưởng và thực tiễn hoạt động đối ngoại
nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân
dân trong thời kỳ đổi mới.
Chương 3: Một số kinh nghiệm và khuyến nghị.

9
Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta thường
phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần, thời chiến cũng như thời bình
ông cha ta thường chọn giải pháp ngoại giao thương lượng hoặc hòa hiếu với lân

bang để làm kế "sâu rễ, bền gốc". Tiếp thu tinh hoa kim, cổ, đông, tây về ngoại
giao và trên cơ sở kế thừa tri thức ngoại giao của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã xây dựng nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, trong đó công tác
đối ngoại nhân dân được Người quan tâm rất sớm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại nhân dân được hình thành và phát triển cùng với những biến cố lịch sử của
dân tộc và những hoạt động thực tế trong ngoại giao của Người. Thế giới nay đã
đổi thay, công tác đối ngoại nhân dân Việt Nam ta ngày nay đã có bước trưởng
thành vượt bậc trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng thời đại mà chúng ta đang
sống với các mối quan hệ quốc tế luôn biến đổi phức tạp, rất khó dự báo. Đòi hỏi
chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý,
tri thức tinh hoa về ngoại giao của cha ông ta để lại, đặc biệt là tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh. Do đó việc tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành, những
nội dung cơ bản và thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại
nhân dân là cơ sở đảm bảo cho tiếp nối những thành công của kênh đối ngoại
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
1.1. Nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung tư tưởng và thực tiễn hoạt
động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và công tác đối
ngoại nhân dân nói riêng được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, kết
hợp truyền thống văn hóa dân tộc với truyền thống ngoại giao Việt Nam. Việc đi
sứ bang giao của cha ông ta trước đây đều có mối quan hệ đến “an nguy hay tồn
vong” của dân tộc. Người xưa có câu: “Tài trai không làm khanh tướng thì làm
sứ giả”; những người đi sứ xưa kia còn là người phải có ý chí, lòng dũng cảm,

10
độc lập tự cường và không được run sợ trước uy vũ để bảo toàn quốc mệnh.
Đồng thời cũng phải là những người đại diện xứng đáng cho nền văn hiến dân
tộc, thấu suốt cổ kim” [48, tr.34]. Đó còn là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống

lao động cần cù, sáng tạo trong xây dựng đất nước, anh dũng trong chống giặc
ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, có truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt
Nam. Với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, truyền thống ngoại giao của cha
ông với nền ngoại giao yêu nước, vì dân, chính nghĩa, hòa hiếu và nhân đạo "lấy
đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo". Tuy có bề dày lịch sử
hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, nhưng cha ông ta vẫn luôn đấu tranh để
khảng định: “Nước Nam ta là của người Việt Nam, bờ cõi đã phân chia, sách trời
đã định” cùng “ngoại giao tâm công” của Nguyễn Trãi. Những tư tưởng đó được
kế thừa, phát huy cao độ nhờ nhân cách, bản lĩnh, nghệ thuật và trí tuệ tầm cao
Hồ Chí Minh.
Thứ hai, kế thừa tinh hoa văn hóa đông, tây, kim, cổ của nhân loại như nho
giáo, phật giáo, tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục Hưng, của cách
mạng tư sản phương Tây, chủ nghĩa Tam Dân ở Trung Quốc, cũng như phương
pháp “tìm kiếm bạn đồng minh, cả trong và ngoài nước” của Tôn Dật Tiên,
nghiên cứu binh pháp của Tôn Tử. Từ đó Người rút ra bài học về việc dùng
ngoại giao để thắng địch: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ hai là
đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh. Vây thành mà đánh là kém
nhất, ” [59, tr.518]. Người rất coi trọng vai trò của nhân dân trong hoạt động
ngoại giao vì hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới
tạo thành nền tảng, kết hợp với tinh hoa ngoại giao của thế giới.
Thứ ba, tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, một trong những
nguồn gốc lý luận và tư tưởng cơ bản để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại. Đặc biệt Người rất coi trọng vai trò của nhân dân làm ra lịch sử dân tộc và
lịch sử thế giới, là động lực phát triển của xã hội, của cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người tiếp thu và vận dụng kinh nghiệm
ngoại giao nhân dân của Liên Xô, Trung Quốc.
Thứ tư, từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn và sự rèn luyện trong công tác
đối ngoại của Hồ Chí Minh: Kể từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước đến khi
Đảng ta được thành lập (1911-1930) và tiến hành công tác đối ngoại của Đảng


11
(1930-1945), chỉ đạo công tác ngoại giao Nhà nước, đối ngoại của Đảng, công
tác đối ngoại nhân dân, cho tới khi Người qua đời (1945-1969). Người đã sáng
lập, xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gồm ba bộ phận cấu thành được kết hợp chặt chẽ với nhau, để tạo nên sức
mạnh tổng hợp to lớn của nền ngoại giao Việt Nam. Tư tưởng và hoạt động thực
tiễn đối ngoại của Người đã trở thành khoa học và nghệ thuật ngoại giao của
nước nhà trong thời đại Hồ Chí Minh.
1.1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
Lịch sử và truyền thống dân tộc ta đã truyền vào con người Hồ Chí Minh
với đầy đủ tố chất của những sứ giả xưa kia, cùng với lịch sử dân tộc với hàng
nghìn năm dựng nước, giữ nước, bề dày lịch sử bang giao quốc tế. Lịch sử bang
giao quốc tế của dân tộc ta còn ghi lại một số hoạt động của các sứ thần nước ta
như: Mạc Đĩnh Chi, Lê Văn Thịnh, Giang Văn Minh, Lê Quý Đôn, những nhà
bác học thông tuệ của Việt Nam đã làm rạng rỡ hai tiếng Việt Nam qua cách ứng
xử trí tuệ khi đi sứ. Với tinh thần yêu nước, mối đồng cảm với những người cần
lao trên thế giới cũng là cơ sở để Người tiếp thu một cách tự nhiên chủ nghĩa
Mác - Lênin. V.I Lênin cho rằng: “Nếu không có sự tham gia của các dân tộc
thuộc địa thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thắng lợi, không thể chiến
thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản” [48, tr.28].
Thời kỳ Người hoạt động ở Pháp những năm hai mươi của thế kỷ 20, với sự
vận động quốc tế để ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam,
thực chất là hoạt động đối ngoại nhân dân. Người đã nhận thức đúng vai trò và vị
trí công tác quan trọng này, đã nâng tầm đối ngoại nhân dân thành binh chủng
hợp thành đội quân làm công tác đối ngoại chung của đất nước. Khi ở Liên Xô và
Trung Quốc, ngoài hoạt động Quốc tế Cộng sản, Người còn đi tuyên truyền và
vận động các tổ chức, đoàn thể quần chúng ở Liên Xô, Trung Quốc anh em ủng
hộ nhân dân ta chống thực dân Pháp; giúp các cán bộ, thanh niên và nhi đồng ưu
tú của nước ta đi học tập, bồi dưỡng ở các nước đó. Người còn lập ra ở Trung
Quốc “Hội đoàn kết những dân tộc bị áp bức châu Á”. Trong thời gian diễn ra

cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Người cùng Đảng ta và Mặt trận Việt Minh
với nhiều hình thức hoạt động phong phú, gắn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Liên Xô, Trung

12
Quốc, với nhân dân thế giới. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, Người lập Hội Việt - Trung thân hữu. Trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với kênh
ngoại giao Nhà nước, các hoạt động tích cực, kịp thời của kênh đối ngoại nhân
dân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước (4-1975). Với tư tưởng lớn và tiến bộ vượt bậc so với
các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ 20, đó là tư tưởng gắn cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Pháp. Người cũng
bền bỉ đi tuyên truyền, vận động không chỉ những người cộng sản, mà còn tất cả
các tầng lớp nhân dân, nhân sĩ trí thức Pháp, những người nước ngoài ở Pháp,
nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân trên thực tế
đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Chính tư tưởng của Người đã tạo ra một “đội ngũ
những người làm công tác đối ngoại nhân dân” đó là: Cán bộ các đoàn thể, tổ
chức quần chúng, các tầng lớp nhân dân, những người đảm đương một loại hình
công tác mới rất riêng biệt, nó bổ sung, hỗ trợ cho kênh ngoại giao chính thức
của Đảng và Nhà nước. Người cho rằng: “muốn làm tốt công tác đối ngoại phải
hiểu tình hình nước mình, vì “mang quốc mệnh trên vai” và hiểu người, hiểu bạn
bè quốc tế” [48, tr.36]. Những chặng đường lịch sử ấy đã thể hiện nổi bật quá
trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân.
1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hòa bình, đoàn kết và
hữu nghị, hợp tác trên cơ sở bình đẳng: Đó là nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí

Minh, thể hiện nhất quán toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Người về
quan hệ quốc tế, được đúc kết thành chân lý của thời đại “không có gì quý hơn
độc lập tự do”. Người nhấn mạnh: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy
mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào; đồng thời công
việc của ta trước hết ta phải làm lấy”, “Về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính,
ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh” và Người gọi đó “là cái gốc, là điểm mấu
chốt” của mọi vấn đề” [10, tr.6]. Một trong những mối quan hệ quan trọng nhất

13
khi đó là giữa Việt Nam với hai nước trên bán đảo Đông Dương, vì cùng trong
“xứ Đông Dương thuộc Pháp”. Với tầm nhìn chiến lược, ngay từ khi thành lập
Đảng (3-2-1930), Hồ Chí Minh đã đề ra việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
chứ không thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương như ý kiến của Quốc tế Cộng
sản. Thực tế lịch sử quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia những năm sau này đã
chứng minh tính đúng đắn tư tưởng đó của Người. Khi phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế bị chia rẽ, chính tư tưởng về đoàn kết quốc tế, về quan hệ bình
đẳng giữa các dân tộc, về không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tạo cho
Việt Nam một lợi thế để tranh thủ được tình đoàn kết của phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế đối với cách mạng nước ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, góp phần đoàn kết phong trào.
Tư tưởng của Người về hoà bình và chống chiến tranh phi nghĩa: Được thể
hiện trong bức thư Người gửi cho nhân dân Pháp năm 1947, với tinh thần “còn
nước còn tát”, Hồ Chí Minh kiên trì tìm kiếm giải pháp cứu vãn hòa bình cho
cuộc xung đột thực dân Pháp gây ra ở Đông Dương. Người nhấn mạnh: “Chúng
tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng
máu đó chúng tôi đều quý như nhau” và Người nêu cao ngọn cờ hòa bình, ra sức
tập hợp lực lượng rộng rãi chống những thế lực hiếu chiến “Chúng ta không thể
nói khối phương Đông và khối phương Tây. Tôi muốn nói có những người yêu
chuộng hòa bình và có những kẻ chủ trương chiến tranh” [10, tr.7]. Mặt khác, Hồ
Chí Minh cũng cho rằng hòa bình và chống chiến tranh xâm lược phải gắn liền

với đấu tranh cho độc lập dân tộc. Người còn nêu rõ: “Nhân dân Việt Nam rất
yêu chuộng hòa bình, nhưng hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc, Muốn
có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự; và đấu tranh cho độc lập tức là đấu
tranh bảo vệ hòa bình” và Người còn khẳng định: “Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn
không để cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn
không xâm lược nước khác” [10, tr.7].
Về phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng: Khi còn
hoạt động ở hải ngoại, Hồ Chí Minh đã nhận rõ âm mưu thâm độc của các thế
lực thực dân và đế quốc gieo rắc hận thù giữa các dân tộc ở Đông Dương để
nhằm duy trì sự thống trị của chúng. Người nêu rõ “sự biệt lập và thiếu tin cậy
lẫn nhau” đã làm suy yếu các dân tộc phương Đông và trong thông cáo chính

14
sách đối ngoại đầu tiên của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ngày 3-10-1945, Người nêu rõ: “Ba nước phải cùng nhau đấu tranh để cởi ách đô
hộ, giúp đỡ lẫn nhau giành lại và duy trì nền độc lập của mình, Ba nước sẽ giúp
đỡ lẫn nhau trong công cuộc kiến thiết và cùng nhau tiến lên trên con đường tiến
bộ” [10, tr.8]. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Người xác định Việt
Nam “cần giúp đỡ Lào, Miên để bạn tự làm lấy”, giúp “vô điều kiện”, xem đó là
“nghĩa vụ quốc tế”, đồng thời “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp
mình”. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai quan hệ giữa các nước trên
bán đảo Đông Dương bước vào giai đoạn mới. Việt Nam đã triển khai quan hệ
với các nước bạn linh hoạt, hình thành mặt trận đoàn kết của nhân dân Đông
Dương chống xâm lược. Những mối quan hệ đó mang tình nghĩa sâu đậm “hợp
tác bền vững lâu dài”. Với Trung Quốc, Hồ Chí Minh dày công vun đắp mối tình
“vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Người nêu rõ: “Thời xưa nhân dân hai nước
Việt - Trung là những người bạn cùng bị áp bức, ngày nay là bạn chiến đấu, cùng
làm cách mạng” [10, tr.8]. Đặc biệt, tài ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh đã
thể hiện sự am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Hoa, phù hợp với truyền thống hòa
hiếu bang giao giữa hai nước và quan hệ toàn cầu.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, về quyền tự quyết, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ dân tộc, cho tới nay vẫn luôn là mục tiêu và động lực cho các
hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và công tác đối ngoại nhân
dân. Theo tư tưởng của Người thì: “Các nước thuộc địa không phải cứ ngồi chờ
sự giúp đỡ của người đồng chí mình, mà phải “mang sức ta để giải phóng cho ta”,
phải “chủ động” và “tự bản thân mình”. Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới chính là ở chỗ “phải tự bản
thân mình tạo nên sức mạnh cho mình để khi cách mạng ở thuộc địa thành công
thì họ có thể giúp những anh em mình ở phương Tây trong sự nghiệp giải phóng
hoàn toàn” [48, tr.28]. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người
luôn nêu cao mục tiêu: Nâng cao uy tín đất nước, để “sánh vai cùng các cường
quốc năm châu” và “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới”. Vào những năm đầu thế kỷ 20, nước ta có các phong trào yêu nước nổ
ra, nhưng đều thất bại. Trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã gắn
kết một cách biện chứng giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải

15
phóng xã hội, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Tư tưởng của Người về cùng tồn tại hòa bình giữa các chế độ chính trị, xã hội
khác nhau và bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau trong quan hệ quốc tế. Theo luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hòa bình
thật sự chỉ khi giai cấp bị bóc lột trên toàn thế giới được giải phóng.
Tư tưởng về đồng minh, về đoàn kết lực lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn thể hiện rõ ở cách chọn đối tượng trong kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, những người cần tranh thủ trước hết là nhân dân chính quốc, tranh thủ làm
công tác địch vận, binh vận. Chính vì vậy trong kháng chiến chống thực dân
Pháp chúng ta có nhiều bạn Pháp đã cùng đứng trong hàng ngũ với chúng ta để
chiến đấu. Cho tới nay số người này họ vẫn đang là những nhà hoạt động tích
cực cho quan hệ hữu nghị Việt-Pháp. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân ta, tư tưởng về đối ngoại nhân dân của Người thể hiện rõ trong

việc phân biệt ai là bạn, ai là thù và ai là đồng minh. Các thế lực phản động trong
Chính phủ Mỹ là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, nhân dân Mỹ là bạn của Việt
Nam. Lúc sinh thời Người căn dặn: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải
phân biệt ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bạn bớt thù. Mọi người yêu
nước tiến bộ là bạn của ta. Đế quốc Mỹ, bọn phản cách mạng là kẻ thù của ta”
[48, tr.32]. Lời dạy đó của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác
đối ngoại nhân dân của Người: Xuất phát từ sức mạnh của dân tộc Việt Nam là
tổng hợp các yếu tố vật chất, tinh thần, truyền thống và hiện đại. Người xác định:
“Sức mạnh, sự vĩ đại và bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết
của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới” và năm 1961, khi
phân tích về chiều hướng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta,
Người nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng lại có sự ủng hộ của nhân dân thế
giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng
thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng” [10, tr.7].
Người cũng xem trọng sự đoàn kết giữa các lực lượng tiến bộ trên thế giới,
Người cho rằng điểm then chốt là không ngừng mở rộng tập hợp lực lượng quốc
tế, thêm bạn bớt thù, với phương châm: “Làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và
nhiều bạn đồng minh hơn hết” [10, tr.7].

16
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, xây dựng mặt
trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam, đấu tranh vì mục tiêu chung
của thời đại: Đây cũng là tư tưởng mang tính chiến lược xuyên suốt trong hoạt
động quốc tế của Người, của Đảng ta và nhân dân ta. Tư tưởng đó là một đặc
điểm lớn của dân tộc và cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử, trong đoàn kết
chống giặc ngoại xâm và phòng chống thiên tai để xây dựng đất nước. Tư tưởng
của Người về “thêm bạn, bớt thù”, về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được
hội tụ trong 14 chữ vàng đó là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công,
thành công, đại thành công”. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế

trước hết là đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, những người cùng chung nỗi
nhục mất nước. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tham gia
thành lập Liên hiệp Hội các dân tộc bị áp bức. Đoàn kết giữa các nước thuộc địa
và chính quốc là liên hiệp giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, để “hình
thành một lực lượng khổng lồ”. Cũng theo tư tưởng của Người, đoàn kết là làm
cho các thuộc địa từ chỗ “cách biệt nhau” đến “hiểu biết nhau hơn và đoàn kết
hơn”. Nếu xét về địa lý chính trị, thì tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trước hết phải đoàn kết giữa các nước láng giềng cùng chung cảnh ngộ.
Đây là tư tưởng về xây dựng mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt - Lào và
Campuchia; mối quan hệ hữu nghị Việt - Trung; các quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa Việt Nam và Ấn Độ. Có thể nói rằng, đối ngoại nhân dân Hồ Chí Minh đã
góp công to lớn trong phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nhân dân thế giới, làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ
về Đông Dương (7-1954) giải phóng miền Bắc, tạo cơ sở quyết định giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước (4-1975). Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, hoạt động đối ngoại nhân dân được phát triển mạnh mẽ trong quan hệ
với các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia), với nhân dân, bè bạn
trên thế giới, nhất là nhân dân Mỹ. Chính sự hiểu biết khách quan của nhân dân
Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa của chính quyền Mỹ ở Việt Nam đã
thúc đẩy phong trào đấu tranh chống Mỹ xâm lược Việt Nam lên cao. Chính cuộc
đấu tranh này đã góp phần ngăn cản Quốc hội Mỹ trong giai đoạn cuối của cuộc
chiến tranh không thông qua quyết định sai lầm để tiếp tục dính líu sâu vào cuộc
chiến, đẩy chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã bị suy yếu mau chóng tan rã. Tư tưởng

17
Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù” còn xuất phát ở tính nhân dân cao cả, với
một tầm nhìn chính trị rất sâu sắc, Người luôn phân biệt ai là bạn, ai là thù trong
quan hệ quốc tế. Năm 1941, Người sang Trung Quốc và bị bắt, khi ở trong tù
được biết J.Nê-ru, lãnh tụ phong trào giải phóng Ấn Độ cũng bị thực dân Anh bắt
giam, Người đã viết bài thơ gửi J.Nê-ru, nội dung bài thơ thể hiện rõ tầm nhìn về

đồng minh, về kẻ thù. Tư tưởng về “thêm bạn, bớt thù” của Người không chỉ
dừng lại ở tư tưởng, mà còn trở thành những hành động cụ thể. Người đã làm rất
nhiều việc để vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Như lập Uỷ ban bảo
vệ hòa bình thế giới của Việt Nam (11-1950) và chính Hồ Chí Minh là Chủ tịch
danh dự đầu tiên của Uỷ ban bảo vệ hòa bình thế giới Việt Nam.
Về sách lược lợi dụng mâu thuẫn: Vào những năm 1960, khi Liên Xô và
Trung Quốc bất đồng sâu sắc, Hồ Chí Minh chủ trương giữ gìn đoàn kết, giữ
vững quan hệ cân bằng với cả hai nước lớn xã hội chủ nghĩa anh em, không đi
với nước này chống nước kia. Người nêu rõ: “Mục đích của ta là vì đoàn kết.
Tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu ai, Phải làm sao cho trong
Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các nước bạn anh em”
và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, một mặt quyết tâm “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Nguỵ nhào”, mặt khác ta luôn bày tỏ thiện chí hòa bình, khảng định
Việt Nam có thể “trải thảm đỏ” để quân Mỹ rút về nước”. [10, tr.8]. Như vậy, Hồ
Chí Minh đã đề ra những quan điểm sáng tạo, sâu sắc, để lại những kinh nghiệm
và bài học quý về quan hệ và cách ứng xử với nước lớn.
Về quan điểm, đường lối, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại
giao: được Người thể hiện trong đường lối cách mạng Việt Nam và thực tiễn
hoạt động ngoại giao đa phương, phong phú, linh hoạt qua nhiều thời kỳ cách
mạng của dân tộc Việt Nam. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với phong cách
ứng xử linh hoạt, nhân nhượng có nguyên tắc, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ đối phương và vận dụng nhuần nhuyễn “5 điều biết” là những phong cách và
nghệ thuật ngoại giao được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng triệt để. Tư tưởng đó
của Người có tầm lý luận cao, vừa có tính thực tiễn sâu sắc. Sự tương tác giữa lý
luận và thực tiễn làm tăng giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh được coi
là “nền tảng và kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Đảng ta”. Nó được thể
hiện ở chỗ:

18
Trước hết, tư tưởng ấy không chỉ soi rọi cho chính sách đối ngoại của

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là đảm bảo cho sự thành công về
đối ngoại nói chung và công tác đối ngoại nhân dân Việt Nam trong mọi thời kỳ
cách mạng. Nội dung tư tưởng của Người còn thể hiện bản chất của nền ngoại
giao cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là: hoà bình, hữu nghị và
hợp tác, chống chiến tranh xâm lược trong quan hệ với các nước, đặc biệt coi
trọng quan hệ với các nước lớn. Bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản và đề cao đạo
lý trong quan hệ quốc tế; gắn Việt Nam với thế giới, giữa độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội; giữa độc lập, tự chủ, tự cường với đoàn kết hợp tác quốc tế, coi
ngoại giao là một mặt trận, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc
biệt, với phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, đã để
lại cho chúng ta những mẫu mực trong cách ứng xử các vấn đề ngoại giao trong
mọi thời kỳ cách mạng. Tư tưởng ngoại giao ở Người luôn trở thành một mặt
trận của cách mạng, đàm phán các hiệp định quốc tế lớn, có ý nghĩa quan trọng
để phát huy cao độ thắng lợi trên chiến trường, tạo tiền đề kết thúc cuộc chiến
vào thời điểm có lợi nhất cho dân tộc.
Hai là; dự báo, nắm bắt kịp thời cơ, vững vàng nguyên tắc, linh hoạt về
sách lược trong thực tiễn với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Như vậy
cái “bất biến” đó là nguyên tắc độc lập, thống nhất, tự do, hạnh phúc của nhân
dân và chủ quyền quốc gia; còn “vạn biến” là sách lược tuỳ từng hoàn cảnh, điều
kiện mà ta áp dụng biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, hòa hoãn khi cần thiết, thỏa
hiệp có nguyên tắc, để đạt mục đích cao nhất cho dân tộc. Ngoại giao “tâm công”
và 5 điều biết (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa) là
những phương pháp ngoại giao tiêu biểu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì đối
ngoại là hoạt động đa dạng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi phải
biết nắm vững, kết hợp quyền biến, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, có phương
pháp phù hợp và bối cảnh cụ thể. Dự báo và nắm bắt thời cơ cho đất nước không
chỉ là trí tuệ và khả năng tiên tri của Người, còn là yêu cầu có ý nghĩa quyết định
trong hoạt động đối ngoại. Với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ
Chí Minh vừa dựa trên nền tảng đó, vừa là đỉnh cao của việc kết hợp hài hòa giữa
kiên định mục tiêu, nguyên tắc với linh hoạt, chủ động về sách lược. Coi trọng

lựa chọn thời cơ, xử lý uyển chuyển các quan hệ đối ngoại.

19
Ba là; chính nhờ sự góp sức to lớn của mặt trận ngoại giao nhân dân
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ta đã tranh thủ
được nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc
kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Mặt trận ngoại giao nhân dân đã tạo ra
một phong trào phản đối chiến tranh xâm lược chiến đấu ngay trong lòng quốc
gia của kẻ thù xâm lược như: Đã tạo nên phong trào nhân dân Pháp rầm rộ đấu
tranh, nằm trên đường ray xe lửa để phản đối những chuyến tàu chở vũ khí giết
người sang Việt Nam; với những cuộc mít tinh, biểu tình của hàng chục vạn quần
chúng, gây chia rẽ lớn trong nội bộ nước Pháp. Chính mặt trận ngoại giao nhân
dân này đã góp phần buộc thực dân Pháp phải từ bỏ xâm lược. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ xâm lược, mặt trận nhân dân thế giới đã ra sức đoàn kết, ủng hộ
Việt Nam. Chính sức mạnh ngoại giao đó kết hợp với sức mạnh của dân tộc, góp
phần to lớn buộc Mỹ phải xuống thang, đi đến kết thúc chiến tranh. Trong Di
chúc, khi nói về ngoại giao nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi sẽ thay
mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa
và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống
Mỹ cứu nước của nhân dân ta" [76, tr.88].
Bốn là; trong cách ứng xử quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tư
tưởng bình đẳng, tự do. Trong những năm hai mươi của thế kỷ 20, hình ảnh
người thanh niên Việt Nam Nguyễn Ái Quốc phát biểu trước các hội nghị quốc tế
và làm việc trong Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản đã để lại những ấn
tượng về cách ứng xử tự tin và tư tưởng về quyền bình đẳng, bác ái giữa con
người và các dân tộc. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh sau ngày nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, đi hiên ngang trước hàng rào danh dự quân Pháp và
Người bước ngang hàng với chính khách Pháp để bắt tay, đã thể hiện bản lĩnh tự
tin, quan niệm bình đẳng giữa các dân tộc. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nhận xét về Người: “Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại

giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại” [10, tr.8]. Phong cách ngoại
giao Hồ Chí Minh phản ánh nhân cách của Người, thể hiện tư duy độc lập, tự chủ
và sáng tạo, nhạy bén, thấm nhuần chất văn hóa, phong cách mới, viết giản dị, dễ
hiểu, giàu sức cảm hóa và thuyết phục. Người cho rằng: “Nắm vững nghệ thuật
của điều có thể, không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể” [10, tr.9]. Điểm

20
nổi bật trong nghệ thuật này là lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương và
biết nhân nhượng có nguyên tắc, đúng lúc để bảo vệ, phát triển thực lực cách
mạng, đi tới giành thắng lợi.
Tư tưởng của Người luôn coi nhân dân là bạn, phân biệt rõ nhân dân ở
chính quốc với thực dân và kẻ xâm lược. Người luôn giải thích và thực hiện mối
quan hệ thân thiện, hữu nghị, đoàn kết với nhân dân các nước, đó là khẩu hiệu
“bốn phương vô sản đều là anh em”. Người cũng giáo dục nhân dân ta cần biết
phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là thù, phân biệt bọn thực dân Pháp và bọn xâm lược
Mỹ, với nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ. Có thể thấy rằng, trong thế kỷ 20 chưa
có nước nào trên thế giới có khả năng tập hợp lực lượng toàn thể nhân loại tiến
bộ để đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, giải phóng dân tộc cho tổ
quốc mình như Việt Nam. Vì thế mặt trận đối ngoại nhân dân ta mang đậm dấu
ấn tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh, lấy bản sắc truyền thống văn hóa dân
tộc Việt Nam, với tinh hoa văn hóa của thế giới, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, gắn cách mạng Việt Nam với phong trào tiến bộ của nhân dân thế
giới. Lấy đoàn kết là sức mạnh theo tinh thần "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết -
Thành công, thành công, đại thành công" làm nền tảng đối ngoại nhân dân. Nội
dung tư tưởng đó của Người đều hàm chứa những định hướng chiến lược, những
giải pháp giàu tính nghệ thuật cách mạng và ý chí tiến công như: Lấy yếu đánh
mạnh, biết lợi dụng và khai thác xu thế dân chủ đi tới gây tiếng vang lớn, tạo sức
mạnh dư luận. Nhờ đó mà đấu tranh ngoại giao nhân dân Việt Nam được thực
hiện liên tục và luôn giành thắng lợi trong mọi hoàn cảnh và mọi thời kỳ cách
mạng khác nhau.

1.1.4. Thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Mở đầu hoạt động đối ngoại của Người là hoạt động đối ngoại nhân dân từ
khi Người ra đi tìm đường cứu nước, trước hết là khảng định quyền dân tộc tự
quyết cho dân tộc Việt Nam, cùng với lịch trình đi qua các nước thuộc địa và
chính quốc từ năm 1911 đến khi gặp được chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Pháp với
việc thay mặt nhân dân Việt Nam, Người đưa yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị
Véc-xây để đòi các quyền cơ bản cho nhân dân Việt Nam là: tự do, dân chủ và
các quyền sơ đẳng khác. Các hoạt động khác của Người như: tham dự Hội nghị
Nông dân quốc tế, dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản và nhiều đại hội của các tổ

21
chức quốc tế khác. Đây là dịp để Người tiếp xúc với lãnh đạo phong trào cách
mạng vô sản trên thế giới, học hỏi kinh nghiệm và phối hợp hành động. Ngay cả
khi Đảng ta ra đời (3-2-1930) và nước nhà tuyên bố độc lập (2-9-1945), Người
vẫn chỉ đạo và trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại nhân dân. Có thể nói rằng
công tác đối ngoại nhân dân là một sáng tạo, một bước tiến lớn trong thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nhất là trong bối cảnh
khi vận mệnh đất nước đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và bị cô lập
với thế giới bên ngoài. Khi đó, Người thường xuyên vận động quốc tế, tranh thủ
tình hữu nghị, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp, các nước thuộc địa phụ
thuộc và nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là nhân dân Liên Xô và Trung
Quốc, Ấn Độ đối với nhân dân ta. Thông qua giới thiệu, thông tin về tình cảnh
dân tộc Việt Nam bị thực dân Pháp áp bức bóc lột. Sau Đại hội lần thứ I của
Đảng (3-1935), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh giải phóng
của nhân dân ta với thực hiện nhiệm vụ chung của nhân dân thế giới chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc, ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp
và tranh thủ sự ủng hộ đó đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta. Những hoạt động đó, chứng tỏ Người luôn coi trọng và biết tận dụng tối đa để
phát huy lợi thế của công tác này.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), với những hoạt

động đối ngoại của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân trong
thời kỳ này đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của Quốc tế Cộng
sản, của Liên Xô và cách mạng Trung Quốc đối với cách mạng nước ta. Thông
qua Mặt trận Việt Minh tăng cường phối hợp với cuộc đấu tranh giải phóng của
nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Lào, nhân dân
Campuchia; ủng hộ cuộc chiến đấu chống phát xít của nhân dân Liên Xô, nhân
dân Trung Quốc. Gắn cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Nhật - Pháp với
cuộc chiến đấu của lực lượng Đồng minh chống phát xít, tạo điều kiện thuận lợi
cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Với Bản Tuyên ngôn độc lập
của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu rõ: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng” và độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc. Đây là thể hiện
một sự sáng tạo về hoạt động ngoại giao nhân dân của Hồ Chí Minh. Nếu như

×