Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào việc xây dựng đội ngũ đảng viên ở huyện tân kỳ (nghệ an) trong giai đoạn hiện nay luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.44 KB, 75 trang )

Lời cảm ơn
Trong q trình làm khóa luận này, ngồi nỗ lực của bản thân, tơi cịn
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Hội đồng khoa học khoa Giáo
dục chính trị, các thầy cơ giáo trong Tổ bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh; Sự
khích lệ, động viên, chia sẻ của gia đình, bạn bè và của người thân; Đặc biệt
là sự dẫn dắt chu đáo, nhiệt tình của cơ giáo, Ths. Bùi Thị Cần - Người trực
tiếp hướng dẫn tơi làm khóa luận này. Chính sự hướng dẫn nhiệt tình và những
tình cảm q báu đó đã động viên, thơi thúc, giúp tơi có thể hồn thành tốt
khóa luận của mình.
Chính vì thế, nhân dịp này cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân
thành tới Hội đồng khoa học của khoa Giáo dục chính trị, các thầy cơ giáo
trong khoa, tới gia đình, bạn bè, người thân và đặc biệt là cô giáo, Ths. Bùi
Thị Cần.
Trong q trình thực hiện khóa luận, mặc dù đã rất cố gắng nhưng
chắc chắn cịn có những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự quan
tâm, chỉ bảo và góp ý của các thầy cơ giáo, bạn bè để khóa luận được hồn
thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài Thu


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1: TƯ TƯỞNG CHÍ MINH VỀ VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
ĐẢNG VIÊN..............................................................................................................8
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng..............................
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ đảng viên.........................


Chương 2: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN Ở HUYỆN TÂN KỲ
(NGHỆ AN) DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.........................3
2.1. Tình hình xây dựng đội ngũ đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An)......
................................................................................................................................
2.2. Định hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ
đảng viên huyện Tân Kỳ (Nghệ An) dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh...........
KẾT LUẬN..............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................
PHỤ LỤC


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ đảng viên là nhân tố chính, cơ bản, chủ yếu nhất cấu thành tổ
chức của Đảng. Cho nên, một khi đã xây dựng được đội ngũ đảng viên thật sự
trong sạch, vững mạnh sẽ là điều kiện, tiền đề đặc biệt quan trọng, góp phần
quyết định làm cho từng tổ chức đảng vững mạnh, theo đó, cả hệ thống tổ
chức Đảng và toàn Đảng vững mạnh. Khẳng định nội dung tư tưởng này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết một cách cơ đọng: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi
bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [19, 92].
Ngày nay, đứng trước thời cơ và vận hội mới cách mạng nước ta cũng
đang phải đối mặt với những thách thức khó khăn. Trong thời gian qua với
những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới, đặc biệt là sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu thì các thế lực thù địch đã ráo riết tập trung
đánh vào tổ chức Đảng. Do đó, để nắm bắt và vận dụng thời cơ vượt qua thử
thách với tinh thần tiến công đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên theo con
đường Chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn, để giữ vững ngọn cờ lãnh đạo cách

mạng, củng cố niềm tin từ nơi dân, lái con thuyền dân tộc tới bờ vinh quang
thì vấn đề sống cịn của Đảng là phải tự đổi mới, xây dựng trong sạch, vững
mạnh toàn diện.
Hiện nay, cả nước đã và đang thực hiện nhiệm vụ trọng tâm và then
chốt,

là xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vựng mạnh, phát triển kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ mới đang đặt ra
hàng loạt các vấn đề rất mới mẻ, vừa có những thời cơ, thuận lợi lớn, đồng
thời, cũng xuất hiện khơng ít những khó khăn và phức tạp, địi hỏi đội ngũ
đảng viên của Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao cả về phẩm chất, năng lực
trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hoạt động thực tiễn. Trong khi đó
những năm qua, cơng tác xây dựng Đảng bộ ở Tân Kỳ nói chung và xây dựng
4


đội ngũ đảng viên nói riêng, tuy có đạt được những kết quả bước đầu rất quan
trọng, song cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng
kịp những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh thì việc
vận dụng và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đang được đẩy mạnh trong tất cả
các ngành, các lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Đặc biệt cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng đội
ngũ Đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) đã được Đảng ủy, các ban ngành,
tổ chức đồn thể trong huyện ln quan tâm thực hiện và đạt được những kết
quả quan trọng. Nghiên cứu hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ Đảng viên chỉ dẫn cho một thế hệ của đất nước trên nhiều

phương diện. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng đội
ngũ đảng viên và xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, từ chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt để khắc phục những hạn
chế, thiếu sót từ thực trạng cơng tác xây dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện Tân
Kỳ (Nghệ An) thì việc học tập, quán triệt và vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng đội ngũ Đảng viên đáp ứng được yêu cầu mới của sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn cấp thiết và lâu dài.
Với những lý do cơ bản trên, tôi chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào việc xây dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện Tân Kỳ ( Nghệ An)
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đội ngũ đảng viên đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Các
cơng trình đều đã đề cập đến nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ Đảng viên, đặc biệt là về giáo dục, bồi dưỡng Đảng viên.
Làm rõ sự cần thiết của công tác xây dựng đội ngũ Đảng viên, những nội
dung cần xây dựng đội ngũ Đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phương
5


châm, phương pháp xây dựng đội ngũ Đảng viên. Đề ra một số giải pháp hữu
hiệu để giải quyết thực trạng cho đội ngũ Đảng viên hiện nay dựa vào căn cứ
đặc thù của từng địa phương, từng vùng miền trên cơ sở vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ Đảng viên cho sự nghiệp xây dựng Đảng
và công cuộc đổi mới đất nước.
Một số tác giả đã dày công nghiên cứu vấn đề này trên nhiều góc độ
khác nhau, được trình bày bằng các luận văn, luận án, sách, bài nói, các tài
liệu, tạp chí, cơng trình nghiên cứu khoa học khác nhau như:
* Nhóm đề tài nghiên cứu về xây dựng Đảng:

Các tác giả nghiên cứu về xây dựng Đảng đã khái quát được nội dung
vấn đề xây dựng, phát triển Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Cụ thể là
về năng lực, sức chiến đấu của Đảng trong từng giai đoạn đổi mới đất nước,
công tác lý luận của Đảng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đổi mới
nhận thức trong lãnh đạo của Đảng. Nhóm đề tài bao gồm:
- Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nơng thơn
đồng bằng sơng Hồng, luận án Phó tiến sỹ khoa học lịch sử, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 1995.
- Phó giáo sư, Tiến sỹ Tơ Huy Rứa và Phó giáo sư, Tiến sỹ Trần Khắc
Việt đồng chủ biên, Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay, 2000.
- Dương Huỳnh Khải, Nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long, luận văn thạc sĩ, 1993.
- Nguyễn Văn Biểu, Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ, 1994.
- Nguyễn Dũng Sinh, Công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ, 1996.
- Khổng Minh Trà, Những vấn đề chủ yếu về đổi mới công tác bảo vệ
Đảng trong tình hình hiện nay, luận án tiến sĩ, 1997.

6


- Nguyễn Đức Ái, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, luận án tiến sĩ, 2001.
- Lê Kim Việt, Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, luận án tiến sĩ, 2002.
- Nguyễn Thế Tư, Công tác kiểm tra của Đảng hiện nay, luận văn thạc
sĩ, 1993.
- Nguyễn Viết Thụy, Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng phường ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận văn thạc sĩ, 1993.
* Nhóm đề tài nghiên cứu về xây dựng đội ngũ đảng viên:
Các tác giả đã đề cập, nghiên cứu đến vấn đề cấp thiết của mỗi giai
đoạn phát triển đất nước là xây dựng đội ngũ đảng viên ngày càng vững
mạnh. Các tác giả đã nêu lên được thực trạng vấn đề xây dựng đội ngũ đảng
viên. Từ đó, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên về đạo đức cách mạng, tư cách, lối sống, năng lưc, trí tuệ để ra sức xây
dựng Tổ quốc. Nhóm đề tài bao gồm:
- Đặng Đình Phú, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ
chức cơ sở Đảng phường, xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay, luận án
tiến sĩ, 1996.
- Võ Duy Phán, Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
của người cán bộ đảng viên, luận văn thạc sĩ, 1993.
- Nguyễn Văn Giang, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có
đồng bào cơng giáo ở các tỉnh ven biển Đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn
hiện nay, luận án tiến sĩ, 2003.
- Lê Thị Minh Loan, Công tác phát triển Đảng trong thanh niên của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội hiện nay, luận văn thạc sĩ, 1996.
- Lê Quốc Sen, Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong giáo
viên Phổ thông ở tỉnh Tiền Giang hiện nay, luận văn thạc sĩ, 1998.

7


- Bùi Văn Khoa, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nơng thơn
ngoại thành thuộc thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ, 1998.
- Bùi Thị Bích, Cơng tác giáo dục đảng viên của Đảng ở nông thôn
Đồng bằng Bắc Bộ, luận văn thạc sĩ, 1993.
- Lê Hữu Xanh, Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn nước ta hiện nay, luận văn thạc sĩ,

1994.
- Phùng Xuân Thành, Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng
viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay, luận án tiến sĩ, 1992.
- Nguyễn Thị Mỹ Trang, Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
thời kỳ đổi mới, luận án tiến sĩ, 2001.
- Ngơ Kim Ngân, Khắc phục sự thối hố, biến chất của đảng viên
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, luận án Phó tiến sỹ khoa học lịch
sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ chí Minh, 1996.
- Đặng Đình Phú, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ
chức cơ sở đảng phường và xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay, luận
án Phó tiến sỹ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
1996.
- Nguyễn Văn Giang, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có
đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn
hiện nay, luận án Tiến sỹ chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh, 2003.
Như vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới những góc độ khác
nhau tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ đảng viên. Kết quả của
những cơng trình nghiên cứu là nguồn tư liệu hết sức quan trọng giúp chúng
tôi tiếp thu, tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Cho
đến nay, vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ đảng

8


viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) hiện nay, thì chưa có một cơng trình nào đề
cập tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích:

Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng đội ngũ Đảng viên, làm cơ sở lý luận để tìm hiểu thực trạng cơng tác
xây dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) và đề xuất một số
giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ
Đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng đội ngũ Đảng viên.
- Phân tích thực trạng cơng tác xây dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện
Tân Kỳ – Nghệ An trong khoảng 5 năm (2006 – 2010).
- Trình bày định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây
dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ Đảng viên.
- Thực trạng của công tác xây dựng đội ngũ đảng viên ở huyện Tân
Kỳ (Nghệ An).
- Sự vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ đảng
viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ Đảng viên.
- Vấn đề công tác xây dựng đội ngũ Đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ
An) trong khoảng thời gian từ 2006 – 2010.
9


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:

Đề tài được triển khai trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ
Đảng viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử với logic, phương pháp phân
tích – tổng hợp, so sánh, nghiên cứu điều tra thực tế...để thực hiện đề tài này.
6. Đóng góp khoa học của khóa luận
- Khóa luận góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ đảng viên;
Nhận định đúng đắn, khách quan về công tác xây dựng đội ngũ đảng viên ở
huyện Tân Kỳ, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
xây dựng đội ngũ đảng viên ở huyện Tân Kỳ (Nghệ An) theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Khóa luận cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp Đảng bộ
huyện Tân Kỳ trong việc xây dựng và tổ chức các chương trình đào tạo và
chương trình hành động cho đội ngũ đảng viên huyện Tân Kỳ. Ngồi ra, đề tài
cịn được dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu cho đội ngũ đảng viên các
cấp.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài gồm 2 chương 4 tiết.

10


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ ĐẢNG VIÊN
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC XÂY

DỰNG ĐẢNG
1.1.1. Xây dựng Đảng là vấn đề có tính quy luật, khách quan, tất
yếu, cấp bách, lâu dài.
Hơn 80 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền
với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người tổ chức và lãnh đạo
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và
Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách
lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm
qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, "Đó
chính là chủ nghĩa Mác – Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất
về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người"
[9, 314]. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã
có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong
phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa
cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên trái
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những
chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc

11


lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành
công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên
mới của dân tộc Việt Nam – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng
nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp
công nhân – không ngừng củng cố và tăng cường” [9, 9].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo học thuyết về chính Đảng vơ sản vào hồn cảnh cụ thể của nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác ngồi con đường cách mạng vô
sản. Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng cộng sản lãnh đạo.
Thực tiễn ở nước ta cho thấy Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định, là người
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách
để đến với con đường thắng lợi. Như vậy, cách mạng muốn đi đến thắng lợi
cuối cùng thì phải có một chính Đảng, chính Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác
– Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh luận điểm then chốt này,
Người viết: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa
cũng như người mà khơng có trí khơn, tàu khơng có la bàn chỉ hướng. Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin" [9, 268].
Trong điều kiện hiện nay, hơn bao giờ hết cần phải khẳng định vai trò
lãnh đạo tiên phong của Đảng, cần phải đấu tranh chống lại những luận điểm
12


phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin, thái độ thờ ơ, bàng quang về

tình hình chính trị của đất nước ở một bộ phận đảng viên hiện nay.
Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào cơng nhân và phong trào u nước. Vì vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của
dân tộc Việt Nam. Để thực hiện vai trị tiên phong của mình, Đảng phải ln
ln tự hồn thiện mình, phải được xây dựng thực sự trong sạch vững mạnh
để xứng đáng: "là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân
dân".
Để làm tốt điều ấy thì mỗi cán bộ, Đảng viên của Đảng phải "thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí, cơng, vơ tư". Đối
với Đảng đạo đức là nền tảng bởi: "Cũng như sơng có nguồn mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân" [11, 252 – 253].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta là đạo đức, là văn minh, do vậy xây dựng
Đảng là một yêu cầu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nói chung.
Vấn đề này đang trở nên cần thiết bởi thực tế một số cán bộ, đảng viên khơng
cịn là người "đầy tớ" của nhân dân mà đã trở thành những "ông quan phụ
mẫu", "ông chủ của nhân dân". Những cán bộ, đảng viên thái hóa biến chất đó
như "con sâu làm rầu nồi canh" làm tổn hại đến danh dự, uy tín của Đảng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi mà kẻ thù đang ra sức tấn công
vào đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm làm suy yếu cán bộ Đảng ta thì việc chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa "hồng" vừa "chuyên" là điều vơ
cùng quan trọng. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: "Đảng không cần con số nhiều,
tuy nhiều là tốt nhưng phải cần cái chất của người Đảng viên" [20, 233].
Về xây dựng chỉnh đốn Đảng, Người khơng coi đó là biện pháp tình thế
mà là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng,
là sự vận động trong quá trình phát triển. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn
13



Đảng để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, khơng để
rơi vào tình trạng dao động, bi quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh
đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi
Đảng cầm quyền, đảng viên rất dễ đánh mất mình, ngày hơm qua vĩ đại,
khơng nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến nếu họ không trong
sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy lại càng cần coi trọng chỉnh đốn Đảng.
Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử mới
và trước thực trạng của Đảng ta hiện nay thì nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng vừa là cơ bản, thường xuyên lại vừa rất cấp bách.
1.1.2 Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng rất phong phú,
sâu sắc và thiết thực. Đó là những chỉ dẫn quý báu mà Người đã chắt lọc được
những tinh hoa lý luận về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ
những thực tiễn kinh nghiệm xây dựng Đảng của Đảng ta và của các Đảng
của anh em. Những chỉ dẫn của Người đã góp phần to lớn trong việc giáo dục,
rèn luyện và xây dựng đội ngũ đảng viên từng bước trưởng thành hơn, để có
đủ sức đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều thử thách.
Hồ Chủ tịch luôn chăm lo xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Người coi việc giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình. Với Người, sự đồn kết, thống nhất của phải Đảng được
thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tình hình càng phát
triển, nhiệm vụ càng nặng nề, sự đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành
động của Đảng càng quan trọng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo.
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân của khối đại đồn kết, nên
trong q trình cách mạng, từ khi sáng lập Đảng Người rất coi trọng xây dựng
khối đồn kết, thống nhất, ln đề cao vai trị lãnh đạo của Đảng, thường
xuyên quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng Đảng, chăm lo giáo dục, rèn
luyện đội ngũ Đảng viên về phẩm chất đạo đức cách mạng nhằm xây dựng
Đảng ta thành một Đảng cách mạng, trong sạch, đồn kết, một lịng một dạ

14


phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy
nên khi nói về Đảng, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”. Chính “Nhờ đồn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng
ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng đội ngũ đảng viên, Mỗi khi cách
mạng chuyển giai đoạn chiến lược, Người đều nhắc nhở phải xây dựng đôi
ngũ đảng viên, làm cho đội ngũ đảng viên xứng đáng với yêu cầu nhiệm vụ
mới. Người đã nhạy bén thấy trước những hiện tượng cần phải xây dựng đội
ngũ đảng viên ngay sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng
theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới, của giai cấp vơ sản. Đó là tập
trung dân chủ, là nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, kỷ luật
nghiêm minh và tự giác: "Sức mạnh vô định của Đảng là tinh thần kỷ luật tự
giác, ý thức nghiêm minh của cán bộ đảng viên" [20, 235].
Người coi phê bình và tự phê bình "là phương thuốc hay nhất để Đảng
nhận thức sửa chữa và khắc phục sai lầm, khuyết điểm". Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln nhắc nhở: "Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình...
rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính" [16, 261].
Và theo Người "Thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là thứ vũ
khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm. Như vậy
chẳng những chúng ta phải thực hiện mở rộng phê bình và tự phê bình trong

Đảng và trong cơ quan chính quyền mà chúng ta cịn phải hoan nghênh những
lời phê bình thành thật của nhân dân" [17, 262].
15


Như vậy, theo Hồ Chí Minh phê bình và tự phê bình là một nguyên tắc,
yêu cầu rất quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng.
Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
tham ô, lãng phí. Người coi đó là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu
“phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Để thực hiện tốt điều đó, trước
hết đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ trí
tuệ và năng lực lãnh đạo, được nhân dân tin yêu, xứng đáng là tấm gương, là
ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Đồng thời Đảng phải không ngừng đổi mới và
chỉnh đốn đội ngũ. Chính vì vậy, điều dặn dị trước lúc đi xa của Người là
“Trước hết nói về Đảng”. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đồn kết,
“phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau”, phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, để xứng đáng là đội
quân tiên phong và người lãnh đạo xuất sắc trong mọi hồn cảnh.
Trong cơng tác xây dựng Đảng Hồ Chí Minh ln coi "cán bộ là cái
gốc của mọi công việc" nên Đảng phải đặc biệt coi trọng việc nâng cao trình
độ lý luận, đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho người cán bộ vì thực
tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh rằng cán bộ là một trong những nhân
tố quyết định sự thành cơng của sự nghiệp cách mạng.
Người nói: “Tồn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.Theo Người, Đảng ta phải
xây dựngvà củng cố được đội ngũ đảng viên đông đảo vững vàng, từng bước
nâng cao năng lực, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu cách mạng, hồn thành
những trọng trách được giao phó, được nhân dân tin cậy và ủng hộ.

Đảng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ đảng viên. Đây là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi
của cách mạng nước ta. Cùng với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thì cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là
16


thể hiện trách nhiệm và tình cảm của Đảng đối với Bác. Đó là những cuộc vận
động liên quan đến vận mệnh của Đảng, của chế độ, của dân tộc. Vì vậy, xây
dựng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ của toàn Đảng và cũng là nguyện vọng,
trách nhiệm của tồn dân.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VIỆC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
1.2.1. Vai trò của đội ngũ đảng viên
Hồ Chí Minh quan niệm đội ngũ đảng viên có một vai trị hết sức
quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ; là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Vai trò của đội ngũ đảng viên thể hiện ở ba mối quan hệ sau:
Thứ nhất, đảng viên với mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
Đảng viên là người tham gia xác định mục đích, lý tưởng; tham gia
xây dựng lên đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời là người
đi đầu thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Mọi cơng việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi Nghị
quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành… Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch
của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện” [14, 235-236]. Mục đích của
Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, thực hiện thành công Chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là
Chủ nghĩa cộng sản. Mục đích, lý tưởng của Đảng được cụ thể hóa ở đường
lối, chủ trương của Đảng. Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên

phong của giai cấp công nhân, là người tiên phong trong nhận thức, tiên
phong trong hành động, trong sinh hoạt, làm tấm gương tốt cho quần chúng
noi theo. Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, đấu tranh có hiệu quả
với các biểu hiện của tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, xét lại hoặc giáo điều, bảo
thủ, làm cho Đảng ln ln vững vàng, kiên định, có sức chiến đấu cao. Vì
vậy, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định thành công hay thất
17


bại của việc thực hiện mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng. Đảng viên là người giác ngộ lý tưởng cộng sản và nguyện suốt đời
phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng.
Thứ hai, đảng viên với tổ chức Đảng: Đảng là do các đảng viên mà tổ
chức nên, vì vậy chất lượng đội ngũ đảng viên có quan hệ quyết định đến chất
lượng của tổ chức Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng là gồm các
đảng viên mà tổ chức nên” [14, 235], “đảng viên phải tốt thì Đảng mới mạnh”
[16, 235]. Người nhấn mạnh: “Để lãnh đạo cách mạng Đảng phải mạnh. Đảng
mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [19, 92]. Nhìn
tổng quát, chất lượng đội ngũ đảng viên có quan hệ quyết định đến nhiều mặt
của tổ chức Đảng như: chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định;
chất lượng công tác xây dựng nội bộ Đảng, thực hiện các nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt; chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ, phương thức lãnh đạo,

Thứ ba, đảng viên với quần chúng: Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng
vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng. Hai yêu cầu này
không mâu thuẫn với nhau mà còn thống nhất với nhau một cách hài hịa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Mỗi đảng viên phải xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên là một người
thay mặt cho Đảng để giải thích chính sách của Đảng, của Chính phủ cho
quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành. Muốn cho quần chúng thi hành, thì

đảng viên phải xung phong làm gương để quần chúng làm theo. Đảng viên
phải là người đầy tớ của nhân dân, người phục vụ nhân dân, bởi vì họ khơng
có mục đích nào khác là suốt đời phấn đấu qn mình vì mục đích, lý tưởng
của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Là người lãnh đạo quần chúng, đảng
viên không phải đứng trên quần chúng, xa rời quần chúng, mưu cầu những
đặc quyền, đặc lợi, mà phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng, đặt lợi ích quần
chúng lên lợi ích cá nhân. Là người đầy tớ trung thành, tận tụy phục vụ nhân
dân, đảng viên không tự hạ thấp trình độ nhận thức, phẩm chất chính trị của
18


mình, khơng theo đi quần chúng mà phải là chiến sĩ tiên phong, đại biểu
chính trị tiên tiến của giai cấp công nhân, luôn luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của Đảng để lãnh đạo, giáo dục quần chúng, nâng cao trình
độ quần chúng, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng theo đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng.
Bởi vậy, đảng viên là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của tổ chức
Đảng. Chất lượng của đội ngũ đảng viên có quan hệ quyết định đến chất
lượng tổ chức Đảng, quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Do đó, xây dựng đội ngũ đảng viên là một nhiệm vụ cơ bản trong công tác
xây dựng Đảng.
1.2.2. Xây dựng đội ngũ đảng viên thành đội ngũ vững mạnh – lực
lượng xây dựng sự nghiệp cách mạng
Trong suốt cuộc đời hoạt động và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của
Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên.
Trước khi từ biệt chúng ta, trong Di chúc, Người đã căn dặn: "Đảng ta
là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân" [19, 498]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những

luận điểm rất quan trọng về đạo đức cách mạng; tính tiên phong gương mẫu
của người đảng viên; cơng tác tự phê bình và phê bình; cơng tác kiểm tra đối
với cán bộ, đảng viên mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn còn nóng hổi
tính thời sự trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa
chuyên, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời khơng ngừng chăm lo xây dựng
Đảng ta cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, nhưng vẫn chú trọng hơn
đến tư cách, đạo đức cách mạnh của người đảng viên, Người nói: "Cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có
19


gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [12, 252253]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ đề ra một hệ thống chuẩn mực đạo
đức cách mạng cho đảng viên học tập mà bản thân Người đã suốt đời gương
mẫu thực hiện. Nhờ tấm gương cao đẹp của Người và của các lãnh tụ tiền bối
xung quanh Người, đa số đảng viên các thế hệ đã hình thành được một nếp
sống trọng đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Vì vậy, trong diễn
văn kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Người đã khẳng định: Đảng ta là đạo
đức, là văn minh.
Thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng và đấu tranh giành chính quyền, đầu
năm 1927, trong trang đầu cuốn Đường cách mệnh, Người đã nêu những yêu
cầu về "Tư cách một người cách mệnh", trong đó xác định về đạo đức mà
người cách mạng phải có: vị cơng vong tư; khơng hiếu danh, khơng kiêu
ngạo; nói thì phải làm; giữ chủ nghĩa cho vững; hy sinh; ít lịng tham muốn về
vật chất; trực mà khơng táo bạo; quyết đốn; dũng cảm; phục tùng đồn thể.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khi Đảng ta trở thành Đảng
cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước hồn cảnh mới, người
đảng viên có chức, có quyền dễ bị quan liêu, hách dịch, tha hóa, biến chất,

Người nói: "Có những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành,
không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, khơng sợ qn địch, nghĩa là có cơng
với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu
ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ơ, lãng phí, quan liêu, khơng tự giác, mà biến
thành người có tội với cách mạng" [13, 494]. Người ln nhấn mạnh phải
nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xem tham ơ, lãng
phí, quan liêu,... là "thứ giặc nội xâm", chung quy tất cả những thói hư tật xấu
đều do từ chủ nghĩa cá nhân mà ra và cần kiên quyết chống. Người nhắc nhở,
cảnh báo: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi

20


người u mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh về đạo đức là gốc của người cách
mạng nhưng không coi nhẹ tài năng. Người nói: "người có đức mà khơng có
tài thì dùng vào việc gì cũng khó, nhưng người có tài mà khơng có đức thì
khơng dùng vào việc gì được cả". Với mọi đảng viên, Người yêu cầu: "vững
về chính trị, giỏi về chuyên môn; nghề nào cũng phải học, phải thông thạo".
Người nhắc nhở: "không thể lãnh đạo chung chung được nữa, chỉ có nhiệt
tình khơng thơi thì chưa đủ, phải có tri thức nữa".
Ngồi phẩm chất, năng lực, Người cịn u cầu đảng viên cách mạng
phải có phong cách cơng tác khoa học, chống chủ quan, khoe khoang, kiêu
ngạo, quan liêu đại khái, phơ trương, ham chuộng hình thức; chống lối làm
việc gặp đâu hay đấy, thiếu kế hoạch, thiếu kiểm tra.
Người căn dặn: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [16, 293]. Vì vậy,

đảng viên phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng ở mọi
lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực và môi trường công tác.
Hiểu rõ và đánh giá đúng đảng viên mới phát hiện được người có tài
để sử dụng, đề bạt và mới có cơ sở để bồi dưỡng đảng viên đó. Trước khi cất
nhắc phải nhận xét rõ ràng, phải xem xét cả công tác và cách sinh hoạt; cách
nói, cách viết và việc làm; cách đối xử với mọi người, biết cả ưu điểm và
khuyết điểm của người đảng viên. Đồng thời tránh rụt rè hoặc quá khắt khe,
cũng như tránh vội vàng, thiếu nghiên cứu, cân nhắc khi bố trí, sắp xếp, đề bạt
đảng viên. Sử dụng đảng viên và đặt người phải đúng việc, vì việc mà đặt
người chứ khơng vì người mà định việc. Người nói: "người đời ai cũng có chỗ
hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở" [12,
72], và phê phán: "khơng biết tùy tài mà dùng người...thợ rèn thì bảo đi đóng
tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết
21


tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành cơng" [12, 274-275]. Phải
cơng tâm, có lịng u thương đảng viên và nắm vững yêu cầu của tổ chức.
Trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, Người còn lưu ý giải
quyết mối quan hệ giữa đảng viên trẻ và đảng viên già, đảng viên cũ và đảng
viên mới, phải biết "tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đồn kết chặt
chẽ với nhau" [12, 237]. Phải bố trí sao để đảng viên trẻ và đảng viên già,
đảng viên mới và đảng viên cũ có thể đồn kết, bổ sung, giúp nhau cùng hồn
thành nhiệm vụ.
Đảng lãnh đạo khơng phải chỉ bằng chủ trương, đường lối mà còn
bằng sự nêu gương, phát huy tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán
chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến... Muốn hướng dẫn nhân dân mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [12, 552], Người nói: "đối với
dân tộc phương Đơng thì một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài

diễn văn tuyên truyền. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng ta qua mỗi thời kỳ
cách mạng, rất nhiều tấm gương cán bộ, đảng viên trong chiến đấu, lao động
và học tập đã gương mẫu trước quần chúng và làm lên những thành tích vẻ
vang" [12, 557].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra phương pháp cơng tác của đảng viên,
Người viết: "đảng viên đi trước, làng nước theo sau" [19, 438]. Sự gương mẫu
đi đầu, lời nói đi đôi với việc làm mẫu mực là sự thuyết phục, cảm hóa để lơi
cuốn nhân dân vào các phong trào cách mạng. Theo Người, đảng viên phải
làm gương cho nhân dân cả về lời nói và việc làm, để cho dân tin, dân phục,
dân yêu, từ đó làm cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và làm theo chính
sách của Đảng và Chính phủ. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền thì người lãnh
đạo cấp cao, người có chức vụ càng cao phải thể hiện là tấm gương càng
sáng, để cấp dưới và quần chúng noi theo, Người nói: "Nhất là những người
cán bộ và lãnh tụ, càng phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của
dân tộc. Càng phải làm gương cho cả đảng viên, tất cả quần chúng noi theo"
22


[12, 253]. Mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện, phấn đấu: "Đặt lợi ích
của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết" [19, 439].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin về tự phê bình và phê bình vào hồn cảnh cụ thể và truyền thống
của dân tộc Việt Nam, Người chỉ rõ: Tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển tất yếu của một đảng, là vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và
phát triển ưu điểm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích của tự phê bình và phê bình
là nhằm xây dựng, thúc đẩy sự tiến bộ của mỗi đảng viên, mang tính văn hóa,
nhân văn. Người viết: Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn
kết và thống nhất nội bộ. Đồng thời, Người cũng phê phán “Sợ mất oai tín và

thể diện mình, khơng dám tự phê bình”.
Lại nói: nếu phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của
Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ lợi dụng mà cơng kích ta. Nói như vậy là lầm
to. Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ
phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi
bệnh ngày càng nặng, không chết "cũng la lết quả dưa" [12, 260].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh tự phê bình và phê bình phải
đi đơi với nhau. Tự phê bình phải thật thà, có khuyết điểm gì nói hết, không
giấu giếm và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Phê bình phải trung thực,
ngay thẳng, thành thật, khơng giấu giếm, không thổi phồng. Người cũng yêu
cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tự phê bình và phê bình thường xuyên, phải tự
sửa chữa khuyết điểm như rửa mặt, hít thở khơng khí hàng ngày. Nhưng hiện
nay tình trạng tự phê bình và phê bình cịn rất yếu, tại sao chúng ta khơng sợ
mất lịng dân, khơng sợ mất lịng Đảng, lại sợ mất lòng nhau, dẫn đến nể
nang, né tránh, ngại va chạm còn khá phổ ở biến trong Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích và ý nghĩa tác dụng của
công tác kiểm tra: "Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có
23


ngọn đèn "pha". Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao
nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết
điểm trong cơng việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra" [12, 521]. Kiểm tra
không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc được chất lượng đội ngũ đảng viên,
ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm, chống được bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy,
xa rời thực tiễn, mà còn giúp đảng viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm, thúc đẩy và giáo dục cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao,
nêu cao tính tiền phong gương mẫu trước quần chúng. Trong các hình thức và
phương pháp kiểm tra, Người đặc biệt đề cao kiểm tra thường xuyên đối với
cán bộ, đảng viên: Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới

chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ.
Qua thực tiễn, Người đã phê phán hai loại đảng viên: một là, cậy mình
là công thần cách mạng rồi đâm ra ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật, khơng
thực hiện nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Họ kiêu ngạo, bất chấp kỷ luật,
kỷ cương. Với những người này cần phải khép vào kỷ luật của Đảng và Chính
phủ; hai là, những người nói suông. Hạng người này tuy thật thà, trung thành
nhưng không có năng lực làm việc, chỉ biết nói sng.
Các thế lực thù địch luyện, trưởng thành trong kháng chiến dần dần sẽ
không tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý mới được đào tạo cơ bản, có kiến thức chuyên mơn cao,
nhiều người được đào tạo ở nước ngồi, thích ứng với kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, song cần chú ý nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm
chất, đạo đức lối sống để bảo đảm sự kế thừa và phát triển. Đó là những thách
thức lớn đối với cơng tác xây dựng Đảng nói chung và cơng tác giáo dục cán
bộ, đảng viên nói riêng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Thấm nhuần và thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công
tác xây dựng Đảng, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có đủ phẩm chất và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo và là người đầy tớ

24


thật trung thành của nhân dân, theo đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
1.2.3. Xây dựng đội ngũ đảng viên về chính trị
Vấn đề cơ bản hàng đầu trong xây dựng đội ngũ Đảng viên là giữ
vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị,
năng lực trí tuệ.
Hồ Chí Minh chủ rõ: Bản chất giai cấp cơng nhân là thuộc tính cơ bản
nhất, bao trùm nhất của Đảng, có ý nghĩa quyết định nhất đối với vai trị, vị

trí, chức năng, nhiệm vụ và các mối quan hệ của Đảng. Không ngừng củng
cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng và phát
triển Đảng là vấn đề có tính ngun tắc của Đảng Cộng sản.
Người nói: "Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân
tộc, không thiên tư, thiên vị" [25, 467]. Luận điểm đó đã định hướng cho việc
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn bó máu thịt
với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong mọi giai
đoạn, mọi thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng càng quan trọng. Ngày
nay, chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng chỉnh đốn
Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa và mở của hội nhập quốc tế trong một tình hình hết sức phức tạp. Ta
đang đứng trước những thời cơ, vận hội lớn nhưng cũng phải đối mặt với
những thách thức, nguy cơ.
Với vai trị, vị trí của Đảng cầm quyền, lực lượng tiên phong lãnh đạo
toàn thể xã hội, bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng có ý nghĩa quyết định
đối với bản chất truyền thống và sự tồn tại của Đảng cùng với hệ thống chính
trị nước ta. Vì vậy, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân vừa
có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì bản chất giai cấp công nhân
được biểu hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng, đường lối, chiến lược, sách
25


×