Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Kĩ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động trong độ tuổi từ 18 đến 25 ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 127 trang )


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Đỗ Hồng Giang




KỸ NĂNG TÌM VIỆC LÀM
CỦA THANH NIÊN KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
TRONG ĐỘ TUỔI TỪ 18 ĐẾN 25 Ở HÀ NỘI





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC





Hà Nội – 2014


3

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




Đỗ Hồng Giang



KỸ NĂNG TÌM VIỆC LÀM
CỦA THANH NIÊN KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
TRONG ĐỘ TUỔI TỪ 18 ĐẾN 25 Ở HÀ NỘI

Chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Lê Thị Minh Loan




Hà Nội - 2014

4
LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ với đề tài “Kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động trong độ tuổi từ 18 đến 25 ở Hà Nội”- đã được hoàn
thành với nỗ lực của bản thân tác giả và sự quan tâm, giúp đỡ từ nhiều phía.
Em xin cảm ơn cô giáo hướng dẫn, PGS. TS. Lê Thị Minh Loan đã
nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ và động viên em trong quá trình thực hiện luận
văn.
Xin cảm ơn các bạn thanh niên khuyết tật đã tham gia trả lời phỏng
vấn, chia sẻ nhiều thông tin giúp tôi hoàn thành nghiên cứu và luôn cổ vũ tinh
thần cho tôi.
Luận văn khó tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý
kiến phản hồi và góp ý.
Tác giả

Đỗ Hồng Giang

5
LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ
với đề tài: “Kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động trong độ
tuổi từ 18 đến 25 ở Hà Nội”.
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu là kết quả quá trình làm việc của tôi.
Những nội dung tham khảo được trích dẫn nguồn gốc tài liệu. Kết quả nghiên cứu
thực tiễn là do tôi trực tiếp tiến hành khảo sát và chưa được công bố ở bất cứ công
trình khoa học nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về mọi nội dung trong đề tài.

Tác giả

6
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan 1
Mục lục 2
Danh mục các bảng số liệu 4
MỞ ĐẦU 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG TÌM VIỆC LÀM
CỦA THANH NIÊN KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG 9
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động 9
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng, kỹ năng nghề nghiệp trên thế giới 9
1.1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng, kỹ năng nghề nghiệp ở Việt Nam 11
1.1.3. Một số nghiên cứu về thanh niên khuyết tật dưới góc độ tâm lý học 15
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động 19
1.2.1. Khái niệm kỹ năng 19
1.2.2. Khái niệm thanh niên khuyết tật vận động 24
1.2.3. Khái niệm việc làm và quá trình tìm việc làm 37
1.2.4. Kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động 41
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 51
2.1. Tổ chức nghiên cứu 51
2.1.1. Vài nét về nhóm khách thể nghiên cứu 51
2.1.2. Tổ chức nghiên cứu 53
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 53
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 53
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu 53
2.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 54

2.2.4. Phương pháp trắc nghiệm 56
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê toán học 57

7
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ KỸ NĂNG TÌM VIỆC
LÀM CỦA THANH NIÊN CÓ KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG 58
3.1. Thực trạng nhận thức về ý nghĩa của kỹ năng tìm việc làm của thanh
niên khuyết tật vận động 58
3.1.1. Nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động về ý nghĩa của kỹ năng
lập kế hoạch nghề nghiệp 58
3.1.2. Nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động về ý nghĩa của kỹ năng
tìm kiếm thông tin việc làm 60
3.1.3. Nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động về ý nghĩa của kỹ năng
chuẩn bị hồ sơ xin việc 62
3.1.4. Nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động về ý nghĩa của kỹ năng
giao tiếp với nhà tuyển dụng 63
3.1.5. Tổng hợp nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động về ý nghĩa của
kỹ năng tìm việc làm 65
3.2. Thực trạng kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động 66
3.2.1. Kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp 66
3.2.2. Kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm 69
3.2.3. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ xin việc 72
3.2.4. Kỹ năng giao tiếp với nhà tuyển dụng 74
3.2.5. Tổng hợp mức độ kỹ năng tìm việc làm của
thanh niên khuyết tật vận động 76
3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết
tật vận động 81
3.3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng tìm việc làm 81
3.3.2. Ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng tìm việc làm 85
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 104



8
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Tên bảng
Nội dung
Trang
Bảng 1.1
Số trẻ em khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập và
chuyên biệt
30
Bảng 1.2
Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của người
khuyết tật
31
Bảng 3.1
Mức độ nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động
về ý nghĩa của kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp
59
Bảng 3.2
Mức độ nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động
về ý nghĩa của kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm
61
Bảng 3.3
Mức độ nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động
về ý nghĩa của kỹ năng chuẩn bị hồ sơ xin việc

63
Bảng 3.4
Mức độ nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động
về ý nghĩa của kỹ năng giao tiếp
64
Bảng 3.5
Mức độ nhận thức của thanh niên khuyết tật vận động
về ý nghĩa của kỹ năng tìm việc làm
66
Bảng 3.6
Thực trạng kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp của
thanh niên khuyết tật vận động
67
Bảng 3.7
Thực trạng kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm của
thanh niên khuyết tật vận động
69
Bảng 3.8
Thực trạng kỹ năng chuẩn bị hồ sơ xin việc của thanh
niên khuyết tật vận động
72
Bảng 3.9
Thực trạng kỹ năng giao tiếp với nhà tuyển dụng của
thanh niên khuyết tật vận động
74
Bảng 3.10
Thực trạng kỹ năng kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động
77
Bảng 3.11

Xác suất thành công của thanh niên khuyết tật vận động
trong quá trình tìm kiếm việc làm
79
Bảng 3.12
So sánh mức độ kỹ năng tìm việc làm với xác suất thành
công của thanh niên khuyết tật vận động trong quá trình
tìm kiếm việc làm
80
Bảng 3.13
Thực trạng tham gia các hình thức đào tạo kỹ năng tìm
việc làm
81
Bảng 3.14
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
nhóm khách thể phân theo nguồn đào tạo kỹ năng tìm
việc làm
83
Bảng 3.15
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
84

9
nhóm khách thể phân theo sự tham gia các tổ chức của
người khuyết tật
Bảng 3.16
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
nhóm khách thể phân theo mức độ lạc quan
85
Bảng 3.17
So sánh mức độ kỹ năng tìm việc làm với mức độ lạc

quan của thanh niên khuyết tật vận động
86
Bảng 3.18
Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa nhận thức và
kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận
động
87
Bảng 3.19
Thực trạng kỹ năng và nhận thức của thanh niên khuyết
tật vận động về ý nghĩa của kỹ năng tìm việc làm
88
Bảng 3.20
Mức độ các động cơ tìm việc làm của thanh niên khuyết
tật vận động
89
Bảng 3.21
So sánh mức độ kỹ năng tìm việc làm và việc có động cơ
mạnh hay không
90
Bảng 3.22
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
nhóm khách thể phân theo việc có ít nhất một động cơ
mạnh hay không
90
Bảng 3.23
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
nhóm khách thể phân theo trình độ học vấn
91
Bảng 3.24
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các

nhóm khách thể phân theo sự tham gia các hoạt động xã
hội
92
Bảng 3.25
So sánh điểm trung bình kỹ năng tìm việc làm của các
nhóm khách thể phân theo sự tham gia hoạt động đi làm
thêm
92
Bảng 3.26
Tổng hợp về các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tìm việc
làm
94









10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời
sống của người khuyết tật ở Việt Nam đang dần được cải thiện, sự hòa nhập và vai trò
của họ cũng được nâng cao. Nhiều người khuyết tật được đào tạo, có công ăn việc làm,
tích cực lao động để không chỉ giảm bớt gánh nặng cho gia đình mà còn phát huy
những phẩm chất, năng lực của bản thân, đóng góp cho cộng đồng. Nhiều tổ chức, cơ
quan và doanh nghiệp đã nhận thức được trách nhiệm xã hội trong vấn đề giải quyết

việc làm cho người khuyết tật và thấy được tiềm năng đóng góp của người khuyết tật
cho tổ chức của họ, những cơ hội việc làm cho người khuyết tật đã được mở ra ngày
càng nhiều.
Thế nhưng, nếu như người lao động khuyết tật không biết cách chủ động tìm
kiếm và nắm lấy những cơ hội đó mà chỉ trông chờ vào lòng hảo tâm, tinh thần từ
thiện của các nhà tuyển dụng thì cũng khó có thể có được một việc làm tốt, phù hợp
với điều kiện và khả năng của mình, cũng như khó có cơ hội để phát triển bản thân.
Kỹ năng tìm việc làm của người lao động đóng một vai trò quan trọng, không chỉ
đối với người tìm việc, mà nó còn giúp cho nhà tuyển dụng nâng cao được hiệu quả
tuyển dụng. Đối với người khuyết tật, kỹ năng tìm việc làm lại càng có ý nghĩa đặc
biệt bởi điều kiện sức khỏe và vẫn còn đó những rào cản về mặt xã hội làm cho cơ
hội việc làm của họ bị hạn chế. Gia nhập thị trường lao động vốn đã rất khó khăn
với thanh niên trong độ tuổi từ 18 đến 25 - những người mới bước vào độ tuổi lao
động- thì đối với thanh niên khuyết tật còn khó khăn hơn nhiều. Bên cạnh những
phẩm chất và năng lực chuyên môn cần phải có, họ cần có kỹ năng tìm kiếm việc
làm tốt. Nhiều người còn yếu về kỹ năng này nên dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp,
cuộc sống bấp bênh hoặc làm công việc không phù hợp năng lực, không phù hợp
điều kiện sức khỏe
Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng thì thủ đô là Hà Nội là một trong
những nơi có nhiều cơ sở đào tạo, dạy nghề và có nhiều tổ chức, doanh nghiệp thu
hút được một lực lượng đông đảo thanh niên khuyết tật về học tập, làm việc. Trong
đó, khuyết tật vận động chiếm tỷ lệ lớn. Người bị khuyết tật vận động nhìn chung

11
có rất nhiều thuận lợi so với người khiếm thị, khiếm thính hay khuyết tật trí tuệ
nhưng vấn đề tìm kiếm việc làm đối với họ cũng còn rất nhiều khó khăn.
Trước thực tế đó, đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng
kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động và đề xuất những giải pháp
nhằm giúp họ nâng cao kỹ năng này. Đồng thời đề tài cũng mong muốn đóng góp
cho công tác nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học lao động, tâm lý học hướng

nghiệp và những nghiên cứu về người khuyết tật ở Việt Nam nói chung và tiếp tục
nghiên cứu nội dung tương tự ở các nhóm người khuyết tật khác như khiếm thị,
khiếm thính và về người khuyết tật ở các địa phương khác.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng một số kỹ năng tìm việc làm cơ bản của thanh niên khuyết
tật vận động trong độ tuổi từ 18 đến 25. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm giúp thanh niên khuyết tật vận động phát triển kỹ năng, nâng cao hiệu quả của
quá trình tìm việc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Xây dựng các khái niệm cơ bản của đề tài: kỹ năng; kỹ năng tìm việc làm;
người khuyết tật; người khuyết tật vận động; thanh niên khuyết tật vận động; kỹ
năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động.
-Làm rõ mức độ biểu hiện của một số kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động.
-Phân tích tác động của một số yếu tố chủ quan và khách quan tới thực trạng
các kỹ năng này.
-Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao kỹ năng tìm việc làm của người
khuyết tật vận động.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Mức độ biểu hiện của một số kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật
vận động ở Hà Nội.
5. Khách thể nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu thực tiễn trên 108 thanh niên có các dạng khuyết
tật vận động khác nhau trong độ tuổi 18 đến 25 đang sống ở Hà Nội.

12
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu mức độ biểu hiện của bốn kỹ năng tìm việc làm
cơ bản là: -Kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp

-Kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm
-Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ xin việc
-Kỹ năng giao tiếp với nhà tuyển dụng.
6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu nhóm thanh niên khuyết tật vận động đã và đang tìm
kiếm việc làm, trong độ tuổi từ 18 đến 25.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động nói chung ở mức độ
trung bình, trong đó kỹ năng giao tiếp với nhà tuyển dụng là tốt nhất, kỹ năng tìm
kiếm thông tin việc làm là yếu nhất.
Mức độ biểu hiện của kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật vận động
chịu ảnh hưởng của cả các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan. Trong đó, một
số yếu tố khách quan cơ bản là: nguồn gốc đào tạo kỹ năng tìm việc làm; sự hỗ trợ
của các tổ chức của người khuyết tật; và một số yếu tố chủ quan cơ bản là tính lạc
quan; nhận thức về ý nghĩa của kỹ năng tìm việc làm.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu mà đề tài sử dụng là:
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
 Phương pháp trắc nghiệm
 Phương pháp phỏng vấn sâu
 Phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê toán học





13
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG TÌM VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN

KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu kỹ năng tìm việc làm của thanh niên khuyết tật
vận động
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng, kỹ năng nghề nghiệp trên thế giới
Vấn đề kỹ năng đã được các nhà tâm lý học trên thế giới nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Khái quát lại, các công trình nghiên cứu kỹ năng có thể
phân theo hai hướng nghiên cứu chính:
-Hướng thứ nhất: Những công trình nghiên cứu cơ bản về kỹ năng, kỹ xảo,
mối quan hệ giữa kỹ năng và kỹ xảo, kỹ năng và năng lực, điều kiện hình thành kỹ
năng, kỹ xảo trong hoạt động nói chung. Tiêu biểu có các công trình của các tác giả
B.F.Lomov, E.N.Kabanova, N.D.Levitov, A.V.Petrovsky Chẳng hạn, khi nghiên
cứu về kỹ năng và kỹ xảo, B.F.Lomov, E.N.Kabanova đã phân tích nội hàm của
khái niệm kỹ năng, kỹ xảo và con đường hình thành chúng, nhấn mạnh điều kiện
hình thành kỹ năng là những tri thức, kinh nghiệm của chủ thể hoạt động. Theo họ,
muốn hình thành kỹ năng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó thì trước hết phải
cung cấp kiến thức về hành động cho người học. A.V.Petrovsky, Cruchetxki,
N.D.Levitov thì cho rằng kỹ năng có hai loại: kỹ năng bậc thấp và kỹ năng bậc cao.
Các tác giả đi sâu nghiên cứu kỹ năng bậc cao của các hành động phức tạp, trong
những điều kiện hành động không cố định. Theo họ, kỹ xảo là thành phần của kỹ
năng. [29, tr. 4]
-Hướng thứ hai: Những công trình nghiên cứu ứng dụng kỹ năng trong một
số lĩnh vực cụ thể như: kỹ năng trong lao động công nghiệp, kỹ năng sư phạm, kỹ
năng trong hoạt động tổ chức, kỹ năng sống. Ở hướng nghiên cứu này, các tác giả
đi sâu nghiên cứu ứng dụng kỹ năng trong những lĩnh vực cụ thể khác nhau để hình
thành và phát triển được kỹ năng của con người trong những lĩnh vực đó. Cụ thể ở
các lĩnh vực như sau:
Những công trình nghiên cứu về kỹ năng lao động công nghiệp, về kỹ năng
trong những mối quan hệ với máy móc, công cụ lao động, vấn đề luyện tập gian khổ

14

của người lao động trong quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Đại diện là các tác
giả V.G.Loox, V.V.Tsebưseva, K.K.Platonov, E.A.Milerian. Trong công trình
nghiên cứu của mình, V.V.Tsebưseva đã trình bày rõ về kỹ năng, kỹ xảo, đưa ra các
phương pháp hình thành kỹ năng. Theo bà, kỹ năng với tư cách là khả năng (trình
độ được chuẩn bị) thực hiện một hành động nào đó dựa trên cơ sở những tri thức và
kỹ xảo được hoàn thiện dần trong quá trình hoạt động. V.V.Tsebưseva đã nêu lên
các điều kiện và các bước hình thành kỹ năng. Bà đặc biệt nhấn mạnh vai trò tích
cực của người học trong quá trình hình thành kỹ năng. Bà đã chỉ ra "quá trình nhận
thức trong học tập càng tích cực bao nhiêu, thì kỹ năng, kỹ xảo càng hình thành
nhanh chóng và hoàn thiện hơn bấy nhiêu". Từ đó, bà quan niệm, trong quá trình
huấn luyện, nhà giáo dục rút dần vai trò của mình để người học tự nắm lấy thì kỹ
năng được hình thành nhanh chóng, ổn định hơn [29, tr. 5]
Những nghiên cứu ứng dụng kỹ năng trong công tác hoạt động tổ chức. Các
tác giả đã nghiên cứu hệ thống kỹ năng cần thiết giúp cho người làm công tác tổ
chức đạt hiệu quả cao. Đại diện là các tác giả: P.M.Kegensev, N.I.Mikheev,
L.Umansky, A.I.Kinv. P.M.Kegensev đã phân tích và đề xuất những yếu tố cơ bản
của công tác tổ chức như mục đích, các kiểu tổ chức, các phương pháp tổ chức,
những yêu cầu về phẩm chất của người làm công tác tổ chức. Tất cả những yếu tố
trên đều cần cho công tác tổ chức. Nhưng để vận dụng vào tổ chức một hoạt động
cụ thể thì người làm công tác tổ chức cần phải biết nắm vững tri thức về lĩnh vực
hoạt động cụ thể đó và phải có sự mềm dẻo, sáng tạo trong quá trình tổ chức mới
đạt được. N.I.Mikheev, L.Umansky, A.I.Kinv khi nghiên cứu về năng lực tổ chức
coi kỹ năng tổ chức là yếu tố quan trọng của năng lực tổ chức. Theo nhóm tác giả
này, điều kiện hình thành kỹ năng tổ chức thông qua học tập và rèn luyện thường
xuyên của người học. [25, tr. 12]
Những nghiên cứu ứng dụng kỹ năng trong hoạt động sư phạm nói chung, kỹ
năng của người giáo viên và kỹ năng của học sinh nói riêng. Dựa trên cơ sở nghiên cứu
đối tượng của hoạt động sư phạm là con người, là nhân cách của học sinh, các tác giả
một mặt nghiên cứu hệ thống kỹ năng trong hoạt động dạy học của giáo viên, một mặt
nghiên cứu các kỹ năng cần thiết trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh.


15
Bên cạnh đó, các tác giả cũng làm rõ sự khác biệt giữa hệ thống kỹ năng trong hoạt
động sư phạm và hệ thống kỹ năng trong hoạt động lao động và các hoạt động khác.
Đại diện tiêu biểu là G.X.Catchuc, N.A.Menchiuscaia, X.I.Kixegov, N.V.Cuzmina …
Các nghiên cứu ứng dụng kỹ năng trong lĩnh vực kỹ năng sống của các nhà
nghiên cứu hành vi, các chương trình giáo dục kỹ năng sống của các tổ chức như
WHO, UNICEF, UNESCO Trong các nghiên cứu này, các tác giả hướng tới đưa
ra chương trình giáo dục các kỹ năng sống cụ thể với các nhóm đối tượng khác nhau
nhằm trang bị cho họ những kỹ năng sống cơ bản, giúp ứng phó với một số vấn đề
cụ thể trong cuộc sống. [29, tr. 6]
Như vậy, dù xuất phát từ đối tượng của các lĩnh vực hoạt động khác nhau
nhưng các hướng nghiên cứu kỹ năng ở các góc độ khác nhau không có gì mâu
thuẫn. Các tác giả đều thống nhất ở quan điểm: để hình thành kỹ năng thì cần có tri
thức và sự rèn luyện tích cực của chủ thể hoạt động.
1.1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng, kỹ năng nghề nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề kỹ năng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu,
đặc biệt là kỹ năng lao động, kỹ năng sư phạm, kỹ năng quản lý, kỹ năng tổ chức, dưới
góc độ nghiên cứu lý luận cũng như nghiên cứu thực tiễn.
Tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007) trong cuốn
"Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm" đã chỉ ra sự hình thành kỹ năng phải
dựa trên cơ sở kiến thức để từ đó giải quyết một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Các tác giả
trên cũng chỉ ra yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng là do khả năng nhận
dạng kiểu nhiệm vụ, kiểu bài tập [14, tr.118-121]
Tác giả Vũ Dũng (2008) phân biệt các khái niệm "Kỹ năng nhận thức", "Kỹ
năng trí tuệ" và "Kỹ năng vận động". Theo ông, kỹ năng nhận thức là sự phản ánh
một cách cảm tính và tự động những thuộc tính và những đặc điểm của đối tượng rất
quen thuộc đã được tri giác nhiều lần trước đó. Kỹ năng trí tuệ là phương thức và
phương pháp có tính tự động hóa để giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ mà chủ thể đã
gặp trước đó. Kỹ năng vận động là sự tác động có tính tự động hóa lên các khách thể

bên ngoài nhờ những vận động đã được thực hiện nhiều lần trước đó để cải tạo khách

16
thể. Kỹ năng vận động là khả năng thực hiện những vận động mà không cần đến sự
kiểm soát của ý thức và được hình thành bằng con đường luyện tập. Kỹ năng vận động
bao gồm kỹ năng nhận thức và kỹ năng trí tuệ. Kỹ năng vận động điều khiển hai kỹ
năng này trên cơ sở phản ánh có tính tự động hóa các sự vật, điều kiện và trật tự thực
hiện các thao tác hành động hướng tới việc cải tạo hiện thực khách quan. [10, tr. 401]
Theo tác giả Phạm Tất Dong, có bốn giai đoạn hình thành kỹ năng. Mỗi giai
đoạn có những đặc điểm, đặc trưng và những yêu cầu nhất định:
-Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn này được gọi là giai đoạn hình thành những kỹ
năng sơ bộ. Con người trước khi hành động phải nhận thức được hành động. Dựa
vào kỹ năng, kỹ xảo đã nắm được để tìm kiếm phương thức hoạt động. Ở giai đoạn
này hoạt động diễn ra theo phương thức "thử" và "sai".
-Giai đoạn thứ hai: con người có những tri thức về các phương thức thực
hiện hoạt động và sử dụng được những kỹ xảo đã có. Đây là giai đoạn hoạt động
với những kỹ năng chưa thành thạo.
-Giai đoạn thứ ba: con người có những kỹ năng chung, cần thiết cho mọi
hoạt động khác nhau. Đây là điều kiện không thể thiếu được để hình thành kỹ năng
chuyên môn. Trên cơ sở những kỹ năng chung, con người sẽ sử dụng một cách sáng
tạo những tri thức và kỹ xảo cần thiết trong quá trình hoạt động. Đây là giai đoạn
phát triển cao.
-Giai đoạn thứ tư: con người sử dụng một cách sáng tạo những kỹ năng khác
nhau. Đây là giai đoạn cao nhất của sự phát triển kỹ năng. Ở trình độ này, con người
dễ dàng thực hiện công việc. [25, tr. 15]
Tác giả Phạm Thành Nghị nghiên cứu về kỹ năng học tập đã chỉ ra "kỹ năng
học tập là tập hợp những hành động học tập như phân tích, mô hình hóa, khái quát
hóa các đối tượng nhận thức bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có
để đạt được những kết quả học tập một cách thành thục”. Theo tác giả này, việc
thực hiện bất cứ kỹ năng nào cũng cần những cơ sở lý thuyết nhất định, điều quan

trọng là phải phát hiện ra những thuộc tính và quan hệ vốn có trong nhiệm vụ, bài
tập để thực hiện mục đích nhất định. Sự vận dụng kiến thức để khám phá, biến đổi
đối tượng chính ra tạo ra kỹ năng. Như vậy, thực chất của việc hình thành kỹ năng

17
là hình thành ở người học hệ thống các thao tác nhằm làm sáng tỏ những thông tin
chứa đựng trong bài tập, nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể.
Do vậy, người dạy cần:
-Giúp người học đưa ra nhận xét về các yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối
quan hệ giữa chúng.
-Giúp người học hình thành mô hình khái quát để giải bài tập
-Giúp người học xác lập mối liên hệ giữa mô hình khái quát với các kiến
thức tương ứng. [24, tr.79]
Về những nghiên cứu thực tiễn, các tác giả Việt Nam cũng đã quan tâm
nghiên cứu vấn đề kỹ năng trong nhiều lĩnh vực như giao tiếp và kỹ năng nghề
nghiệp trong một số ngành nghề.
Tác giả Lê Thị Thanh Thủy nghiên cứu về “Kỹ năng tư vấn của giảng viên ở
một số trường đại học”, đã chỉ ra mức độ thường xuyên trong việc sử dụng kỹ năng
tư vấn của giảng viên trong các lĩnh vực chính là phương pháp học tập; định hướng
ngành học, nghề nghiệp; những vấn đề tâm lý và khó khăn trong cuộc sống về các
điều kiện sinh hoạt, học tập ở trường đại học. Những kỹ năng tư vấn được nghiên cứu
trong đề tài này là: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thấu hiểu, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ
năng cung cấp thông tin. [18, tr. 281]
Cùng hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương đã nghiên
cứu về “Kỹ năng tư vấn của cố vấn học tập trong các trường đại học”. Tuy nhiên,
trong đề tài này, kỹ năng tư vấn lại được nghiên cứu theo một cấu trúc khác, với các
thành phần là kỹ năng thiết lập mối quan hệ với sinh viên, kỹ năng khai thác thông
tin và kỹ năng lập kế hoạch hành động. [18, tr. 312]
Tác giả Đinh Thị Mai nghiên cứu về “Kỹ năng đối thoại của báo cáo viên cơ
sở trong tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” nhằm phân tích các mặt

biểu hiện của kỹ năng đối thoại và đánh giá thực trạng mức độ thành thạo trong việc
sử dụng các kỹ năng này, thể hiện qua ba mặt biểu hiện là kỹ năng hỏi, kỹ năng tiếp
nhận ý kiến của người được tuyên truyền và kỹ năng giải đáp ý kiến. [18, tr. 293]
Tác giả Trần Thị Thu Hằng khi nghiên cứu “Một số vấn đề tâm lý về kỹ năng
nghề cơ khí ô tô”, đã quan niệm “kỹ năng là sự thực hiện một hành động nào đó đạt

18
kết quả, trên cơ sở vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có phù hợp với những
mục tiêu, điều kiện thực tế đã cho” và “kỹ năng nghề cơ khí ô tô là sự thực hiện một
hành động nghề nào đó đạt kết quả, trên cơ sở vận dụng những tri thức, kinh
nghiệm nghề nghiệp đã có phù hợp với những mục tiêu, điều kiện cụ thể.” Tác giả
chỉ ra các nhóm kỹ năng cơ bản của nghề cơ khí ô tô là: kỹ năng chuẩn bị (gồm: kỹ
năng chuẩn bị phương tiện, thiết bị) và kỹ năng chuẩn bị vật tư, vật liệu), kỹ năng
thực hiện (gồm kỹ năng sử dụng phương tiện, thiết bị, kỹ năng thực hiện các thao
tác kỹ thuật và kỹ năng phối hợp công việc với các thành viên trong nhóm) và kỹ
năng kiểm tra và hoàn thiện công việc (gồm: kỹ năng kiểm tra và hoàn thiện chất
lượng sản phẩm và kỹ năng an toàn vệ sinh lao động). Các kỹ năng được đánh giá
theo ba tiêu chí gồm: tính chính xác (tính đúng đắn trong từng thao tác), tính thành
thạo (tốc độ thực hiện nhanh) và tính mềm dẻo, linh hoạt (khả năng thực hiện tốt
hành động trong điều kiện thay đổi). [18, tr. 556 ]
Tác giả Trần Thị Thanh Tâm nghiên cứu về “Kỹ năng làm việc nhóm trong
học tập ở tuổi thiếu niên” đã nghiên cứu mức độ thường xuyên trong việc sử dụng
và mức độ thành thạo của các nhóm kỹ năng ở học sinh trung học cơ sở, bao gồm
kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng trình bày mạch lạc vấn đề, kỹ năng điều khiển,
điều chỉnh hành vi và cảm xúc của mình và người khác. Tác giả còn nghiên cứu ảnh
hưởng của các yếu tố giáo dục từ gia đình và nhà trường đến việc hình thành các kỹ
năng làm việc nhóm của học sinh. [29, tr. 114]
Về kỹ năng tìm việc làm, tuy những năm gần đây đã có rất nhiều tài liệu
được phát hành, nhưng đại đa số là những tài liệu tập huấn, rất ít các công trình
nghiên cứu khoa học. Một trong số các nghiên cứu về đề tài này là “Giải pháp nâng

cao kỹ năng tìm việc làm của sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân” của nhóm tác
giả Lê Phương Mai, Lê Thị Thêm và Nguyễn Thị Hoài Thu. Đề tài đã xây dựng
được một hệ thống các tiêu chí đánh giá kỹ năng tìm việc làm, phản ánh thực trạng
kỹ năng tìm việc làm và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng này ở sinh viên Đại học
Kinh tế Quốc dân. Tuy nhiên, đề tài này lại nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học, với
khái niệm trọng tâm là khái niệm việc làm, đề cập nhiều đến các yếu tố của thị
trường lao động, sự tiến bộ của công nghệ, môi trường giáo dục đại học ở Việt Nam

19
và công tác đào tạo của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, phương pháp nghiên cứu
lại chỉ sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. [22, tr. 5]
Nhìn chung, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về kỹ năng hiện nay chủ
yếu tập trung vào kỹ năng giao tiếp và kỹ năng nghề nghiệp ở các đối tượng khách
thể khác nhau. Các nghiên cứu về kỹ năng tìm việc làm còn khá ít ỏi, đặc biệt là kỹ
năng tìm việc làm của người khuyết tật chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, chúng
tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
1.1.3. Một số nghiên cứu về thanh niên khuyết tật dưới góc độ tâm lý học
Để có được những thông tin, dữ liệu về người khuyết tật, bên cạnh hệ thống số
liệu thống kê tại các cấp, các ngành thì những nghiên cứu khoa học là rất cần thiết.
Trong khi các số liệu thống kê, khảo sát có thể đưa ra những phân tích, nhận định
khái quát về nhiều vấn đề của người khuyết tật thì những nghiên cứu khoa học sẽ
cung cấp những bằng chứng sinh động, thuyết phục về từng vấn đề riêng biệt, làm
cơ sở cho những chính sách hỗ trợ cụ thể. Theo Ủy ban Y tế Hà Lan - Việt Nam,
nhìn chung, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nghiên cứu về người khuyết tật
phần lớn là nghiên cứu định lượng, các nghiên cứu định tính còn rất hạn chế [39, tr.
4]. Việc phát triển các hướng nghiên cứu định tính, trong đó có nghiên cứu tâm lý
học là hết sức cần thiết. Thông qua những nghiên cứu này, chúng ta có thể thu thập
được những thông tin sâu sắc hơn về các lĩnh vực cuộc sống của người khuyết tật,
đặc biệt là hiểu được những vấn đề liên quan đến đời sống tinh thần, thái độ và nhu
cầu của họ để nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ.

Trên thực tế ở Việt Nam cũng đã bước đầu phát triển các nghiên cứu về đời
sống tâm lý người khuyết tật nhưng phần lớn xuất phát từ các nhà nghiên cứu
chuyên nghiệp hoặc không chuyên hoạt động trong lĩnh vực y tế và công tác xã hội.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã tìm được một số trong các
công trình nghiên cứu đó.
Nghiên cứu "Tình yêu và đời sống hôn nhân từ góc nhìn của phụ nữ khuyết
tật" của tác giả Nguyễn Hồng Hà và Đỗ Thanh Toàn năm 2006 được thực hiện theo
phương pháp phỏng vấn sâu và nghiên cứu trường hợp nhằm tìm hiểu nhận thức,
thực trạng và mong đợi của phụ nữ khuyết tật về tình yêu và hôn nhân và nhận thức

20
của những người thân của họ (chồng, người yêu, cha mẹ) về vấn đề này. Đa số phụ
nữ khuyết tật trong nghiên cứu có tâm lý mặc cảm, tự ti trong tình yêu và tự định
kiến, cho rằng hôn nhân là một điều xa vời với người khuyết tật, đặc biệt là phụ nữ
khuyết tật. Họ thường không bày tỏ tình cảm của mình và cũng cảm thấy khó khăn
khi đón nhận tình cảm của người khác. Một số chị đã lập gia đình, kể cả với người
chồng không khuyết tật vẫn cảm thấy không tự tin, lo sợ mình là gánh nặng cho
chồng, lo lắng về việc sinh con và nuôi dạy con, sợ con cũng bị khuyết tật Chồng
và người yêu của những phụ nữ này cũng phải trải qua nhiều khó khăn tâm lý của
bản thân và những rào cản từ phía gia đình, xã hội, có những người đàn ông vượt
qua được và quyết định kết hôn nhưng đa số trường hợp họ không vượt qua được.
Một số phụ nữ khuyết tật lựa chọn làm bà mẹ đơn thân với mong muốn có đứa con
làm chỗ dựa sau này. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các bậc cha mẹ có con gái bị
khuyết tật thường ít quan tâm giáo dục cho con về giới tính cũng như vai trò của
một người phụ nữ trong gia đình tương lai. Các cha mẹ hầu như chỉ quan tâm chăm
sóc, cải thiện về sức khỏe, về việc làm cho con chứ không mong đợi về tình yêu và
hôn nhân cho con gái mình. Điều này đã làm tăng sự mặc cảm, tự ti cho trẻ em gái
và phụ nữ khuyết tật ngay từ nhỏ. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp phụ nữ
khuyết tật lập gia đình và có được một gia đình hạnh phúc với người chồng khuyết
tật hoặc không khuyết tật. [39, tr. 13]

Nghiên cứu "Nhận thức về sức khỏe sinh sản và xâm hại tình dục của trẻ vị
thành niên khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi Chức năng cho Trẻ Khuyết tật- Thụy
An, Ba Vì, Hà Tây" do tác giả Tạ Hải Giang và Nguyễn Thị Lý thực hiện năm 2006.
Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu thực trạng nhận thức của trẻ vị thành niên
khuyết tật, đặc biệt là các em gái về sức khỏe sinh sản, xâm hại tình dục, ảnh hưởng
của việc giáo dục từ phía Trung tâm, gia đình và các nguồn thông tin khác đến nhận
thức của trẻ về vấn đề này. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các trẻ khuyết tật ở đây nói
chung đã có kiến thức cơ bản về giới tính như sự khác biệt cơ thể về giới, những
thay đổi cơ thể trong tuổi dậy thì, tuy nhiên nhận thức về tình dục an toàn và xâm
hại tình dục còn rất hạn chế. Việc giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật chưa thực sự
được quan tâm và cũng gặp nhiều khó khăn do đặc thù khuyết tật của trẻ (khiếm

21
thính, khiếm thị, khuyết tật trí tuệ). Những tài liệu giáo dục giới tính cho trẻ khuyết
tật còn rất thiếu. Cũng như nhiều vị thành niên không khuyết tật, các em khuyết tật
ở đây tự tìm hiểu về các vấn đề giới tính, tình dục qua mạng. internet và như vậy sẽ
rất dễ tiếp nhận những thông tin lệch lạc, không lành mạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của các em. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc giáo dục giới tính, chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên khuyết tật còn đang là một nhu cầu cấp thiết
cần được ngành y tế, giáo dục và lao động xã hội quan tâm đặc biệt để các em
không bị thiệt thòi so với bạn bè cùng trang lứa không khuyết tật [39, tr. 171].
Nghiên cứu "Nhu cầu việc làm của thanh niên khuyết tật trên địa bàn Hà Nội"
của tác giả Phạm Thị Ngân, năm 2010. Mục đích của nghiên cứu này là phản ánh
thực trạng nhu cầu về việc làm của thanh niên khuyết tật, chỉ ra những đặc trưng
của nhu cầu này ở thanh niên khuyết tật, từ đó đề xuất một số kiến nghị về việc làm
cho thanh niên khuyết tật tại địa bàn Hà Nội. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả đã
rút ra một số kết luận như sau:
Nhu cầu việc làm của thanh niên khuyết tật trên địa bàn Hà Nội là rất lớn, là nhu
cầu quan trọng bậc nhất trong các nhu cầu hiện nay của họ. Đa số thanh niên khuyết
tật đều nhận thức được sự cần thiết của sự làm việc đối với người khuyết tật. Họ muốn

được làm việc, được sống tự lập bằng công sức lao động của mình, được giao lưu,
giao tiếp, để trợ giúp gia đình và đóng góp cho xã hội.
Phần lớn thanh niên khuyết tật hiện nay có mong muốn làm công việc cụ thể,
mang tính thực tế, gắn với điều kiện hoàn cảnh, tình trạng sức khỏe của họ. Nhìn
chung, thanh niên khuyết tật mong muốn về thái độ của mọi người ở nơi làm việc
với mình là: hòa đồng, bình đẳng, giúp đỡ, tôn trọng, thân thiện, cởi mở…
Nhìn chung thanh niên khuyết tật hiện nay đều làm các công việc tương đối phù
hợp với hoàn cảnh khuyết tật của mình. Đa số người khuyết tật chỉ cảm thấy hài
lòng ở mức độ nhất định với công việc hiện nay của mình.
Trung bình mức thu nhập của thanh niên khuyết tật trên địa bàn Hà Nội hiện nay
là rất thấp so với điều kiện kinh tế xã hội. Thanh niên khuyết tật rất khó khăn trong
việc đảm bảo cuộc sống và những chi phí cá nhân cho mình.

22
Đa số thanh niên khuyết tật đều có những hành động tích cực để kiếm việc làm
cho mình, họ đã biết huy động nhiều nguồn lực khác nhau, đặc biệt là từ những
người cùng hoàn cảnh, sự trợ giúp của gia đình và xã hội.
Nhìn chung, thanh niên khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn trong công việc. Những
khó khăn đó chủ yếu là về sức khỏe, trình độ văn hóa, tay nghề và sự kỳ thị, bất bình
đẳng của xã hội trong việc nhìn nhận và tuyển dụng người khuyết tật vào làm việc.
Những mong muốn, đề nghị của thanh niên khuyết tật vận động vẫn tập trung đi sâu
vào những vẫn đề giúp đỡ học nghề, hướng nghiệp và khắc phục những thiếu hụt do
điều kiện sức khỏe để làm việc một cách tốt nhất. [23, tr. 110]
Nghiên cứu "Nhu cầu, năng lực học nghề và tìm kiếm việc làm của nữ thanh
niên khuyết tật- Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Vĩnh Phúc" do tác giả Bùi Kim Chi
chủ trì, năm 2006. Đề tài đã tìm hiểu nhu cầu và năng lực tìm kiếm việc làm của nữ
thanh niên khuyết tật, các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu và năng lực tìm kiếm việc
làm và đề xuất những biện pháp giúp họ đáp ứng nhu cầu việc làm, phát huy khả
năng của bản thân và đóng góp cho gia đình, xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy
nhu cầu về học nghề và việc làm của nữ thanh niên khuyết tật ở đây chủ yếu tập

trung vào các ngành nghề như mây tre đan, may mặc, da giày Họ có nhu cầu làm
việc với nhiều mục đích khác nhau như tự nuôi sống bản thân, hỗ trợ gia đình, có
thêm các mối quan hệ giao tiếp xã hội, giảm bớt mặc cảm tự ti Tuy nhiên cũng có
một số ít trường hợp lại không có nhu cầu học nghề và tìm việc làm do ngại giao
tiếp, ngại đi lại chỉ mong muốn ở nhà phụ giúp các công việc nội trợ trong gia
đình hoặc buôn bán nhỏ tại nhà. Số lượng nữ thanh niên khuyết tật được học nghề
và tìm được việc làm không nhiều, do nhiều nguyên nhân như: địa phương chưa tổ
chức được nhiều hoạt động dạy nghề ưu tiên cho người khuyết tật, địa điểm học
nghề và nơi làm việc xa gây khó khăn cho người khuyết tật. Việc tham gia Hội phụ
nữ ở địa phương giúp tăng cơ hội học nghề và tìm việc làm cho nữ thanh niên
khuyết tật. Nữ thanh niên khiếm thị có cơ hội học nghề và tìm việc làm cao hơn
những khuyết tật khác do hoạt động hiệu quả của Hội người Mù. Nghiên cứu chỉ ra
một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề học nghề và tìm kiếm việc làm của nữ thanh
niên khuyết tật: tâm lý mặc cảm, tự ti của bản thân người khuyết tật; trình độ học

23
vấn thấp; chưa tiếp cận thông tin, thái độ của gia đình thiếu tin tưởng vào khả năng
của con em, từ phía các doanh nghiệp, từ phía cộng đồng vẫn còn thiếu quan tâm và
tồn tại những quan niệm tiêu cực về nhận lao động là người khuyết tật Các tác giả
đi đến kết luận là nhu cầu tìm kiếm việc làm của nữ thanh niên khuyết tật cao nhưng
họ không có đủ năng lực để tự mình tiếp cận cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm.
Mong đợi của nữ thanh niên khuyết tật và gia đình là người khuyết tật được tạo cơ
hội việc làm bình đẳng hơn, phát triển những khóa đào tạo nghề và cơ sở sản xuất
dành riêng cho người khuyết tật [39, tr. 37].
Qua phương pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, nghiên cứu này đã cung
cấp nhiều thông tin rất cụ thể, sinh động và hữu ích cho công tác hỗ trợ người
khuyết tật tìm việc làm. Tuy nhiên nghiên cứu mới chỉ xem xét năng lực tìm việc
làm của nhóm khách thể dựa vào việc hiện tại họ đang có việc làm hay không, đã
từng thành công hay thất bại khi tìm việc làm trong quá khứ và triển vọng tìm việc
làm trong tương lai ra sao. Đề tài chưa xây dựng được các tiêu chí đánh giá về năng

lực tìm việc làm. Khách thể nghiên cứu được xem xét là những người thụ động chờ cơ
hội việc làm do các cơ quan đoàn thể giới thiệu. Kỹ năng tìm việc làm chưa được đề
cập đến ở nghiên cứu này.
Tóm lại, các nghiên cứu về người khuyết tật dưới góc độ tâm lý học còn ít và chủ
yếu đi vào nghiên cứu về nhận thức và nhu cầu xoay quanh một số vấn đề đời sống và
việc làm của người khuyết tật. Vấn đề kỹ năng tìm việc làm của người khuyết tật nói
chung và kỹ năng tìm việc làm của người khuyết tật vận động nói riêng, chưa được
nghiên cứu. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu này.
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về kỹ năng tìm việc làm của thanh niên
khuyết tật vận động
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
1.2.1.1. Một số định nghĩa về kỹ năng
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều
định nghĩa khác nhau cho khái niệm kỹ năng. Trong từ điển tiếng Anh, thuật ngữ
chỉ kỹ năng "Skill" được định nghĩa là: “the ability (from training and practise) to

24
do something well”, (dịch nghĩa: “khả năng (do được huấn luyện và thực hành) để
làm tốt một việc nào đó" [42; pg. 589]
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa "Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế" [27, tr. 520]
Dưới góc độ tâm lý học, có thể khái quát thành hai luồng tư tưởng là quan
niệm coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động và quan niệm coi kỹ năng là mặt
năng lực của con người:
-Hướng quan niệm coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động.
Theo quan niệm này, kỹ năng là phương thức hành động đã được con người
nắm vững. Có nghĩa là con người có tri thức về một hành động nào đó, là con người
nắm được các tri thức về cách thức tiến hành hành động đó và thực hiện hành động
đúng yêu cầu của nó. Với quan niệm này, các tác giả không đề cập đến vấn đề kết
quả của hành động. Bởi họ quan niệm thực hiện đúng kỹ thuật hành động thì chắc

chắn mang lại kết quả nhất định. Còn kết quả cao hay thấp thì còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố khác trong năng lực của chủ thể.
Một số tác giả theo hướng quan niệm này có thể kể đến như
A.V.Covaliov coi kỹ năng là phương thức hành động thích hợp với mục đích
và những điều kiện hành động. Ông không đề cập đến kết quả hành động. Theo ông,
kết quả hành động phụ thuộc vào năng lực con người chứ không phải đơn giản nắm
được các cách thức hành động thì mang lại kết quả tương ứng.
Theo V.A.Cruchetki, Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động đã được
con người nắm vững." Theo ông, chỉ cần nắm vững được phương thức hành động
thì con người đã có kỹ năng, không cần tính tới kết quả của hành động.
Tác giả Trần Trọng Thủy coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động. Con người
nắm được các hành động tức là có kỹ thuật hành động và có kỹ năng. [25, tr. 18]
-Hướng quan niệm coi kỹ năng là mặt năng lực của con người.
Theo quan niệm này, kỹ năng thể hiện ở năng lực thực hiện một hành động
có kết quả với chất lượng cần thiết trong điều kiện xác định. Các tác giả này quan
niệm không chỉ đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện của

25
năng lực. Họ chú ý đến kết quả của hành động để khẳng định chủ thể hành động có
kỹ năng hay không.
Một số tác giả theo hướng quan niệm này là:
N.D.Levitov, ông xem xét kỹ năng gắn liền với kết quả hành động và cho
rằng, kỹ năng là sự thực hiện có kế hoạch một hoạt động phức tạp bằng cách lựa
chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định.
Ông nhấn mạnh, muốn hình thành kỹ năng, con người cần không chỉ nắm lý thuyết
về hành động mà còn phải biết vận dụng vào thực tế. [25, tr. 18]
B.Ph.Lomov nhận định: "Kỹ năng không chỉ bao gồm những hành động vận
động mà cả những hành động trí tuệ. Hành động có kỹ năng là những hành động
với trí tuệ, độc lập trong kế hoạch, quá trình làm việc, tìm thấy trong mỗi trường
hợp cụ thể các phương pháp hành động hợp lý.” [20, tr. 343]

Paul Hersey, Ken Blanc Hard quan niệm: "Kỹ năng là khả năng sử dụng tri
thức, các phương pháp, kỹ thuật và thiết bị cho việc thực hiện những nhiệm vụ nhất
định có được từ kinh nghiệm, giáo dục và đào tạo." [29, tr. 10]
Trong "Từ điển Tâm lý học" do Vũ Dũng chủ biên: "Kỹ năng là năng lực vận
dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực
hiện những nhiệm vụ tương ứng." [9, tr. 131]
Theo tác giả Phạm Thành Nghị (2011), "kỹ năng là khả năng vận dụng kiến
thức để giải quyết một nhiệm vụ cụ thể." [24, tr. 78]
Theo các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Hải Khoát và Nguyễn Quang Uẩn (1995),
"Kỹ năng là một hệ thống các hành động thể lực và trí tuệ, các biện pháp và cách thức
mà nhờ đó, một dạng hoạt động nào đó được thực hiện và đạt tới mục đích đề ra."
Kỹ năng không đồng nhất với kiến thức. Bất kỳ một kỹ năng nào cũng đều đòi
hỏi phải có sự hiểu biết, có kiến thức nhất định. Song không phải kiến thức nào
cũng có sự liên hệ với một kỹ năng tương ứng. Ví dụ như kiến thức lịch sử. Kiến
thức biểu hiện chủ yếu trong các phán đoán và lập luận trong đó phản ánh đúng đắn
hiện thực. Còn kỹ năng biểu hiện rõ nét trong các hành động thể chất hoặc trí tuệ.
Kỹ năng thuộc về hoạt động thực tế và sự vận dụng kiến thức. Thiếu kiến thức thì
không thể hình thành được kỹ năng

26
Kỹ năng cần phải tương ứng với dự định của bản thân. Bất kỳ một kỹ năng nào
cũng đòi hỏi sự đầy đủ, sự đúng đắn nhất định của các thao tác riêng lẻ. [6, tr. 105]
Về thực chất, quan niệm coi kỹ năng là mặt năng lực của con người không phủ
nhận quan niệm coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, mà chỉ là mở rộng thêm
thành phần cấu trúc của kỹ năng, đặc biệt là các yếu tố định tính như tinh thần, tri
thức, khả năng trí tuệ. Trong cuộc sống, điều kiện hành động không phải là ổn định
trong mọi trường hợp. Do vậy, khi thực hành động chủ thể phải tùy hoàn cảnh, mục
đích mà sử dụng các thao tác cho phù hợp.
Từ các quan niệm trên, chúng tôi đưa ra cách hiểu về khái niệm kỹ năng trong
đề tài nghiên cứu này như sau:

Kỹ năng là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm để thực hiện có kết
quả hành động hay hoạt động trong lĩnh vực nhất định.
Trong cách hiểu này có ba vấn đề cốt lõi của khái niệm kỹ năng là:
-Kỹ năng thể hiện trình độ tư duy và hành động của cá nhân trong lĩnh vực
hoạt động cụ thể. Kỹ năng gắn liền với việc thực hiện hoạt động đạt hiệu quả cao.
-Nói đến kỹ năng, bao giờ cũng phải là kỹ năng về một lĩnh vực hoạt động
chuyên biệt nào đó
-Kỹ năng có được do học tập và rèn luyện chứ không phải là yếu tố bẩm sinh
1.2.1.2. Các mức độ kỹ năng
Theo quan niệm của K.K.Platonov và G.G.Golubev thì kỹ năng có 5 mức độ
từ thấp đến cao như sau:
-Kỹ năng sơ đẳng: Con người ý thức được mục đích hành động và tìm kiếm
cách thức thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ xảo sinh hoạt đời
thường, hành động được thực hiện bằng cách "thử" và "sai".
-Biết cách làm nhưng không đầy đủ: Có hiểu biết về phương thức thực hiện
hành động, sử dụng được các kỹ năng, kỹ xảo sơ đẳng, nhưng chưa đầy đủ hoặc
chưa được luyện tập thường xuyên trong hoạt động cụ thể.
-Có kỹ năng chung: Có hàng loạt kỹ năng nhưng còn mang tính chất đơn lẻ.
Chúng cần thiết cho các hoạt động khác nhau.

×