Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Nhu cầu âm nhạc của sinh viên nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 141 trang )


Đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn




Hoàng diệu anh





Nhu cầu âm nhạc của sinh viên




Luận văn thạc sĩ tâm lý học









Hà Nội - 2009

Đại học quốc gia hà nội


Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn




Hoàng diệu anh



Nhu cầu âm nhạc của sinh viên
(Nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội)
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.80



Luận văn thạc sĩ tâm lý học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS. TS. Vũ Dũng








Hà Nội - 2009


1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 5
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 7
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Giả thuyết nghiên cứu 8
6. Phương pháp nghiên cứu 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 9
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 9
1.1.1. Những nghiên cứu về nhu cầu ở nước ngoài 9
1.1.1.1. Nghiên cứu nhu cầu từ góc độ triết học 9
1.1.1.2. Quan điểm về nhu cầu của Henry Alexander Murray 10
1.1.1.3. Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow 14
1.1.1.4. Luận điểm của X.L. Rubinstêin 18
1.1.1.5. Luận điểm của A.G. Côvaliôp 19
1.1.1.6. Luận điểm của A.N. Leonchiep 21
1.1.2. Những nghiên cứu nhu cầu ở Việt Nam 23
1.2. Một số vấn đề lý luận về nhu cầu thưởng thức âm nhạc của
sinh viên 24
1.2.1. Lý luận về nhu cầu 24
1.2.1.1. Khái niệm nhu cầu 24
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của nhu cầu 26
1.2.1.3. Phân loại nhu cầu 27


2
1.2.1.4. Nhu cầu và một số khái niệm liên quan 27
1.2.1.5. Văn hóa và nhu cầu văn hóa 29
1.2.2. Lý luận về nhu cầu thưởng thức âm nhạc 31
1.2.2.1. Khái niệm âm nhạc 31
1.2.2.2. Khái niệm nhu cầu thưởng thức âm nhạc 44
1.2.2.3. Khái niệm sinh viên 46
1.2.2.4. Đặc điểm hoạt động của sinh viên 47
1.2.2.5. Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên 48
1.2.2.6. Khái niệm nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên 52
1.2.2.7. Một số đặc điểm nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên 52
1.2.2.8. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thưởng thức âm nhạc của
sinh viên 54
Tiểu kết chương 1 57
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 58
2.1. Nghiên cứu lý luận 58
2.1.1. Mục đích nghiên cứu lý luận 58
2.1.2. Nội dung nghiên cứu lý luận 58
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu lý luận 58
2.2. Nghiên cứu thực tiễn 58
2.2.1. Mục đích nghiên cứu thực tiễn 58
2.2.2. Nội dung của nghiên cứu thực tiễn 58
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 58
2.2.3.1. Phương pháp điều tra bảng hỏi 58
2.2.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu 59
2.3.2.3. Phương pháp chuyên gia 61
2.3.2.4. Phương pháp thống kê toán học 61
Tiểu kết chương 2 62


3
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHU CẦU
THƯỞNG THỨC ÂM NHẠC CỦA SINH VIÊN 63
3.1. Nhận thức của sinh viên về âm nhạc 63
3.1.1. Đánh giá của sinh viên về vai trò của âm nhạc 63
3.1.2. Thái độ của sinh viên đối với âm nhạc 65
3.2. Thực trạng nhu cầu âm nhạc của sinh viên 67
3.2.1. Các loại hình âm nhạc sinh viên thưởng thức 67
3.2.2. Nội dung âm nhạc mà sinh viên thưởng thức 72
3.2.3. Phương thức thỏa mãn nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên 78
3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu âm nhạc của sinh viên 94
3.3.1. Các yếu tố sinh viên quan tâm khi thưởng thức âm nhạc 94
3.3.2. Mục đích đến với âm nhạc của sinh viên 95
3.4. Tác động của nhu cầu âm nhạc đến đời sống tinh thần của sinh viên . 99
Tiểu kết chương 3 102
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
PHỤ LỤC




4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


1. ĐHKHTN : Đại học Khoa học Tự nhiên
2. ĐHKHXH&NV : Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
3. SL : Số lượng
4. N : Tổng số

5. SV : Sinh viên




5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Sự cần thiết của âm nhạc đối với sinh viên 63
Biểu đồ 3.1: Sự cần thiết của âm nhạc đối với sinh viên 64
Bảng 3.2: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của âm nhạc đối với
đời sống ………………………………………………………… 64
Bảng 3.3: Sự yêu thích nhạc của sinh viên 65
Bảng 3.4: Loại hình nghệ thuật được sinh viên yêu thích 66
Bảng 3.5: Các loại hình âm nhạc mà sinh viên thưởng thức 68
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ sinh viên yêu thích hai thể loại nhạc có lời và không lời 71
Bảng 3.6: Các chủ đề âm nhạc mà sinh viên muốn thưởng thức 72
Bảng 3.7: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của các chủ đề có
trong tác phẩm âm nhạc 74
Bảng 3.8: Mong muốn của sinh viên về một số yếu tố thể hiện trong tác
phẩm âm nhạc 75
Bảng 3.9: Thời gian để xem hoặc nghe ca nhạc 78
Biểu đồ 3.3: Thời gian nghe nhạc trong ngày của sinh viên 79
Bảng 3.9.1: Thời gian nghe nhạc mỗi ngày của sinh viên (so sánh về giới) 80
Biểu đồ 3.4: Thời gian nghe nhạc mỗi ngày của sinh viên (so sánh về giới) 80
Bảng 3.9.2: Thời gian thưởng thức âm nhạc (so sánh giữa năm thứ nhất và
năm thứ ba) 81
Biểu đồ 3.5: Thời gian thưởng thức âm nhạc của sinh viên (so sánh giữa
năm thứ nhất và năm thứ ba) 82
Bảng 3.9.3: Thời gian thưởng thức âm nhạc theo học lực 82

Biểu đồ 3.6: Thời gian thưởng thức âm nhạc của sinh viên theo học lực 83
Bảng 3.10: Địa điểm sinh viên thường nghe (xem) ca nhạc 84
Bảng 3.11: Lí do khiến sinh viên nghe (xem) ca nhạc ở rạp, nhà hát 86
Biểu đồ 3.7: Lí do khiến sinh viên nghe (xem) ca nhạc ở rạp, nhà hát 86
Bảng 3.12: Các cách thưởng thức âm nhạc của sinh viên 88
Biểu đồ 3.8: Các cách thưởng thức âm nhạc của sinh viên 90
Bảng 3.13: Sinh viên thường thưởng thức âm nhạc cùng ai? 91
Bảng 3.14: Các yếu tố sinh viên quan tâm khi thưởng thức âm nhạc 94
Bảng 3.15: Mục đích đến với âm nhạc của sinh viên 95
Bảng 3.16: Vì sao sinh viên không thích nghe nhạc 98
Bảng 3.17: Tác động của nhu cầu thưởng thức âm nhạc đến đời sống tinh
thần của sinh viên 100

6
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Âm nhạc là hiện tượng cổ xưa và phổ biến trong đời sống con người. Là
một trong những hình thái văn hóa của xã hội, cũng như những loại hình nghệ
thuật khác, âm nhạc thông qua những âm thanh đặc trưng nói lên tất cả những
gì mà trong cuộc sống con người đã trải qua. Nó gắn liền mọi khoảnh khắc,
mọi giai đoạn của đời người, từ lúc chào đời đến khi giã từ cuộc sống. Đó là
những khúc hát ru thuở ban đầu; những bài hát giao duyên, tỏ tình khi trưởng
thành; những bài ca sinh hoạt; những bài nhạc hiệu xuất trận; những bài hát
trong lao động, học tập và những khúc hát tiễn đưa con người trở về với cát
bụi… để đưa con người từ một tâm trạng này sang một tâm trạng khác. Âm
nhạc là hơi thở của cuộc sống, cần thiết cho cuộc sống như không khí cần cho
sự sống của mỗi người. Chính vì nhu cầu lớn lao này mà chỗ nào, lúc nào âm
nhạc cũng có mặt.
Âm nhạc không đơn thuần là giải trí mà còn góp phần hình thành, hoàn

thiện nhân cách, trí tuệ, tâm hồn của người nghe, đặc biệt là giới trẻ. Sự thu
hút đông đảo công chúng đến với loại hình nghệ thuật này cho thấy khả năng
phổ quát mạnh mẽ của âm nhạc, sự ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội và tạo ra
loại nhu cầu tinh thần mới - nhu cầu thưởng thức âm nhạc. Nhu cầu âm nhạc
tồn tại và phát triển mạnh mẽ ở công chúng sẽ có tác động sâu sắc tới sản xuất
và phát triển của nền âm nhạc nước nhà. Vì thế, các nghiên cứu về nhu cầu
âm nhạc sẽ giúp cho ngành Âm nhạc hiểu rõ hơn khách hàng của mình, nắm
bắt đầy đủ hơn nhu cầu của họ để có thể phát triển tốt hơn.
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng phải tham gia vào
nhiều công việc khác nhau và phải đáp ứng những yêu cầu cao về hiệu quả
công việc cũng như chất lượng sản phẩm mà họ làm ra. Trước những căng
thẳng về tinh thần và sự mệt mỏi về thể chất do áp lực của công việc và cuộc
sống, âm nhạc lại càng khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình
trong cuộc sống của con người. Âm nhạc giúp cho con người thấy thoải mái,

7
xóa đi sự mệt mỏi, căng thẳng. Âm nhạc đem lại nguồn sinh lực mới, giúp
chúng ta sống gần gũi nhau hơn, làm việc hăng say và hiệu quả hơn.
Sinh viên là những người của nhóm xã hội đặc biệt, nhóm người đang
chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp trong
tương lai. Để phát triển hoàn thiện, làm giàu vốn sống và kinh nghiệm, sinh
viên không chỉ cố gắng hoàn thiện nhiệm vụ học tập mà còn tham gia nhiều hoạt
động quan trọng khác như: Hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động xã hội,
các hoạt động vui chơi, giải trí, thậm chí cả hoạt động kiếm sống… Cùng với
những hoạt động trên, âm nhạc luôn bên họ, giúp họ thư giãn, sảng khoái, lấy lại
tinh thần để tiếp tục làm việc, học tập; gắn kết họ với nhau; tái nhận thức về cuộc
sống… Như vậy, âm nhạc giúp cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện.
Vì vậy, âm nhạc không chỉ có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của
con người nói chung mà âm nhạc còn rất cần thiết đối với sinh viên. Tuy
nhiên, cho đến nay, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ tâm

lý học còn rất ít, chủ yếu là lồng ghép vào chung với nội dung nghiên cứu khác.
Với những lý do trên, chúng tôi thấy việc nghiên cứu “nhu cầu âm nhạc của
sinh viên” sẽ tìm ra những giải pháp giúp họ thỏa mãn nhu cầu này, qua đó đề
xuất một số kiến nghị liên quan đến việc tổ chức, giáo dục âm nhạc cho sinh viên.
2. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên trường Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài khảo sát 300 sinh viên, gồm:
- 140 sinh viên trường ĐH KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- 140 sinh viên trường ĐH KHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phỏng vấn sâu: 20 sinh viên.

8
2.3. Phạm vi nghiên cứu
a. Về địa bàn nghiên cứu: Đề tài khảo sát tại 2 trường: ĐH KHXH&NV;
ĐH KHTN (Đại học Quốc gia Hà Nội).
b. Về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu về nhu cầu thưởng
thức âm nhạc của sinh viên.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực trạng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên, từ đó
đề tài đề xuất những biện pháp nhằm định hướng và nâng cao chất lượng nhu
cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên hiện nay.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận của đề tài (các khái niệm, đặc
điểm của nhu cầu thưởng thức âm nhạc, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu
thưởng thức âm nhạc của sinh viên ).
4.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên
Đại học Quốc gia Hà Nội.

4.3. Đề xuất các kiến nghị định hướng và nâng cao chất lượng nhu cầu
thưởng thức âm nhạc của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Trong nhu cầu thưởng thức âm nhạc của mình, sinh viên thích nghe thể
loại nhạc trẻ, pop/rock hơn nhạc truyền thống dân tộc; sinh viên có nhu cầu
thưởng thức âm nhạc ở mức độ khá cao; không có sự khác biệt đáng kể về
nhu cầu thưởng thức âm nhạc giữa sinh viên 2 trường, năm thứ, giới, độ tuổi.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu
6.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
6.4. Phương pháp chuyên gia
6.5. Phương pháp thống kê toán học

9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Những nghiên cứu về nhu cầu ở nước ngoài
Khái niệm nhu cầu của con người có rất nhiều ý kiến khác nhau và được
tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như: triết học, tâm lý học cá nhân, tâm lý
học nhân cách, tâm lý học xã hội, tâm lý học hành vi Các nhà nghiên cứu
tập trung tìm hiểu nhu cầu ở các khía cạnh: Quan niệm về nhu cầu, vai trò
động lực của nhu cầu, phân loại nhu cầu và mối quan hệ của nó với lợi ích,
giá trị và định hướng giá trị
Trong phần này, tôi xin được trình bày quan điểm của một số nhà nghiên
cứu về nhu cầu với tính chất là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu tiếp theo về
nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên.
1.1.1.1. Nghiên cứu nhu cầu ở góc độ triết học

Trong tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx, K.Marx đã bàn về nhu
cầu thông qua việc nghiên cứu những tiền đề lịch sử đầu tiên của mọi tồn tại
người và coi đó là tiền đề của mọi lịch sử. Theo K.Marx, nhu cầu của con
người tuỳ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, chịu sự chi phối
của những nhu cầu trực tiếp và gián tiếp. Do đối tượng phản ánh rộng nên nhu
cầu của con người hết sức phong phú và đa dạng. K.Marx viết: “Người ta phải
có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì
trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo. Song để có thức ăn,
thức uống, quần áo thì con người phải lao động ” [19; tr 49-50]. Ngay trong
xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người đã biết lấy nhu cầu làm người thầy
dạy bảo và chính họ đã biết phát minh ra lưỡi câu và cây gậy để câu cá, cung
tên để bắn, làm quần áo từ vỏ cây, da thú, dùng lửa để nấu ăn. Việc sản xuất

10
ra những tư liệu sản xuất nhằm thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu ấy được
Marx gọi là hành vi lịch sử. Nhưng khi những nhu cầu sống của con người đã
được thỏa mãn thì ở con người lại xuất hiện những nhu cầu mới. Chính việc
sản sinh ra những nhu cầu mới này cũng được Marx gọi là “hành vi lịch sử
đầu tiên”. Marx viết: “Sự thỏa mãn nhu cầu đầu tiên, khi đã có được hành
động thỏa mãn ấy và công cụ để thỏa mãn - đưa tới những nhu cầu mới và sự
sản sinh ra nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên” [ 19; tr 287]. Khi nhu
cầu mới xuất hiện, con người lại tìm kiếm phương tiện để thỏa mãn; và khi
nhu cầu mới này được thỏa mãn thì ở con người lại xuất hiện những nhu cầu
mới khác. Quá trình xuất hiện và thỏa mãn nhu cầu ở con người cứ liên tục
diễn ra như vậy. Có thể nói, nhu cầu của con người là vô tận, do đó hoạt động
của con người cũng là bất tận.
K. Marx còn bàn tới nhân tố ý thức của con người, ông khẳng định: Bản
thân ý thức cũng chỉ xuất hiện từ nhu cầu giao tiếp với người khác. Như vậy,
nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong 5 nhân tố của những quan hệ lịch sử
đầu tiên. Theo K.Marx, nhu cầu vừa có vai trò thúc đẩy hành vi lịch sử đầu

tiên, vừa có vai trò trong việc duy trì nòi giống, lại vừa quy định hệ thống
những mối liên hệ vật chất giữa người - người, quy định sự hình thành ý thức
và ngôn ngữ ở con người. Nhu cầu có vai trò lớn lao như vậy là vì nhu cầu là
những đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện nhất định,
bảo đảm cho sự sống và phát triển của con người.
1.1.1.2. Quan điểm về nhu cầu của Henry Alexander Murray
Henry Alexander Murray (1893-1988) là nhà tâm lý học người Mỹ,
người đã phát triển Thematic Apperceotion Test (TAT) và dày công nghiên
cứu lý thuyết về nhân cách với những quan điểm nổi tiếng về nhu cầu.
Theo H. Murray, nhu cầu được hiểu là một tổ chức cơ động. Nó tổ chức
và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng tượng và hành vi. Ông phân biệt

11
áp lực khác với nhu cầu chỉ ở hướng đi của vectơ: Nhu cầu là một động lực
xuất phát từ cơ thể, trong khi đó áp lực là lực tác động vào cơ thể. Nhu cầu và
áp lực tồn tại cùng nhau. Sự thỏa mãn của nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động
qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục đích đạt
được sự thích ứng; đồng thời bản thân các tình huống này cũng như nhu cầu
của con người có thể bộc lộ với tư cách là những kích thích hoặc trở ngại.
Bằng thuật ngữ “nhu cầu”, H.Murray muốn chỉ một biến số (tham biến)
có tính chất giả thuyết nào đó, mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, nó sẽ bộc lộ khi
thì dưới dạng động cơ, khi thì dưới dạng những đặc điểm. Trong trường hợp
bộc lộ dưới dạng những đặc điểm, nhu cầu mang tính chất ổn định và trở
thành những phẩm chất của tính cách. Do đó, nhiệm vụ của các nhà tâm lý
học là vạch ra những tích hợp của các đặc điểm đặc trưng cho một người nào
đó, những mối liên hệ qua lại và thứ bậc của chúng. Theo ông, phần lớn các
tích hợp không bộc lộ trong những hành vi có thể quan sát được, chủ thể
không có một biểu tượng nhỏ nhất nào về chúng cả, nói cách khác, chúng tồn
tại trong trạng thái ẩn giấu, tiềm tàng. Chỉ có bằng những phương pháp phóng
ngoại và phân tâm – mới có thể hiểu được bản tính của tính cách cá nhân, mới

có thể hiểu được không chỉ cái vị thế nóng hổi của nhân cách, mà cả lịch sử
xuất hiện của những tích hợp này hay tích hợp kia nữa.
Murray xây dựng bảng phân loại các nhu cầu. Xét về mặt liên quan đến
động cơ, ông chia ra hai loại là các nhu cầu do nội tạng sinh ra (viscerogenic)
như: Ăn, uống và các nhu cầu tâm sinh (psychogenic), H.Murray còn gọi
các nhu cầu đó là nhu cầu nguyên phát và thứ phát.
Nhu cầu nguyên phát là những nhu cầu tự nhiên của con người với tư
cách là một cơ thể sống.
Murray quan tâm chủ yếu đến những nhu cầu thứ phát, đặc trưng cho
con người như là một tồn tại xã hội và bắt nguồn từ sự giao tiếp của con

12
người. Quan trọng nhất trong các nhu cầu đó là nhu cầu về tình yêu, sự hợp
tác, sự sáng tạo Đây là một trong những bảng phân loại phổ biến nhất ở
phương Tây. Trong tác phẩm “Explorations in Personality”(1938), ông mô tả
các nhu cầu như sau:
1. Nhu cầu chiếm ưu thế: Muốn kiểm soát, gây ảnh hưởng, điều khiển hành
vi bằng lời nói, mệnh lệnh, thuyết phục, gây trở ngại, hạn chế những người khác.
2. Nhu cầu gây hấn: Muốn bằng lời nói hay hành động để làm nhục, lên
án, nguyền rủa, nhạo báng, lăng mạ, tiêu diệt đối phương.
3. Nhu cầu tìm kiếm các mối liên hệ bạn bè: Muốn hữu nghị tình yêu, ý
chí tốt lành, thiện cảm với người khác, đau khổ khi không có quan hệ bạn bè,
mong muốn mọi người xích lại gần nhau, khắc phục các trở ngại.
4. Nhu cầu bỏ rơi người khác: Muốn khước từ những cố gắng xích lại
gần nhau, hay chỉ trích, thô tục, “không dây” với người khác, vô cùng biệt
lập, vô liêm sỉ.
5. Nhu cầu tự trị: Thể hiện nổi bật sự vượt ra khỏi bất kỳ sự hạn chế nào,
muốn thoát khỏi sự bảo trợ, khỏi quy chế, sự quy định công việc nặng nề. Hay
đỏng đảnh trong quan hệ qua lại với những người khác, vô độ, lấy mình làm
trung tâm, thích thay đổi vị trí hành trình.

6. Nhu cầu phục tùng thụ động: Tuân thủ thụ động sức mạnh, chấp nhận
số phận, thừa nhận sự kém cỏi của mình.
7. Nhu cầu về sự tôn trọng, ủng hộ: Thể hiện sự tôn trọng đối với những
người khác (cha mẹ, người lãnh đạo, thầy giáo, người xuất chúng…), có
nguyện vọng muốn làm việc dưới quyền lãnh đạo của người mạnh hơn, thông
minh hơn, muốn trở thành người kế tục của một ai đó.
8. Nhu cầu thành đạt: Muốn chiến thắng, đánh bại, trội hơn những người
khác, muốn làm cái gì đó nhanh chóng và tốt đẹp, muốn đạt trình độ cao trong
một công việc nào đó, muốn trở thành người nhất quán và có mục đích.

13
9. Nhu cầu trở thành trung tâm của sự chú ý: Thể hiện ở nguyện vọng
muốn chinh phục những người khác, thu hút sự chú ý để mình, làm người
khác ngạc nhiên về những thành tích và phẩm chất nhân cách của mình.
10. Nhu cầu vui chơi: Thích chơi bất cứ một hoạt động nguy hiểm nào,
muốn giải trí, chè chén lù bù, thích bông đùa. Đôi khi được kết hợp với sự vô
tâm, vô trách nhiệm.
11. Ích kỷ: Nguyện vọng đặt quyền lợi của mình lên trên hết, muốn hài
lòng về mình, tự gợi dục, có khuynh hướng chủ quan khi tri giác thế giới bên
ngoài; thường hợp nhất với nhu cầu gây hấn hay khước từ.
12. Nhu cầu vì xã hội: Lãng quên quyền lợi riêng vì quyền lợi của nhóm,
xu hướng vị tha, hào hiệp, nhường nhịn quan tâm đến những người khác.
13. Nhu cầu tìm người bảo trợ: Chờ mong lời khuyên nhủ, giúp đỡ, bất
lực, tìm kiếm sự an ủi, khuyên nhủ đối xử nhẹ nhàng.
14. Nhu cầu giúp người: Là người “bạn của những kẻ đau buồn”, có
nguyện vọng quan tâm đến người khác giúp đỡ vật chất, cho phép cư trú.
15. Nhu cầu tránh bị trách phạt: Kìm nén những xung động của mình
nhằm tránh bị trách phạt hoặc bị lên án. Có nhu cầu chú ý đến dư luận xã hội,
tự chủ, nhã nhặn, gìn giữ những quy tắc chung.
16. Nhu cầu tự vệ: Luôn luôn chuẩn bị đề phòng đầy đủ trong quan hệ

với địch thủ, khó thừa nhận sai lầm của mình, luôn luôn biện hộ bằng những
viện dẫn đưa ra, từ chối sự phân tích những sai lầm của mình.
17. Nhu cầu tránh thất bại: Nhu cầu này khác với nhu cầu thành đạt ở
chỗ điểm nổi bật là sức mạnh của ý chí, sự kiên trì, dũng cảm.
18. Nhu cầu an toàn: Sợ hãi, lo lắng, kinh hoàng, hoảng loạn, tính cảnh giác
quá mức là vốn có đối với người này, không có sáng kiến, tránh sự đấu tranh.
19. Nhu cầu ngăn nắp, trật tự: Có xu thế ngăn nắp, trật tự, cẩn thận,
chính xác, đẹp đẽ.

14
20. Nhu cầu phán đoán: Muốn đặt ra những vấn đề chung và trả lời về
chúng, say mê đối với những biểu đạt trừu tượng, khái quát hoá, hấp dẫn bởi
những vấn đề vĩnh cửu về ý nghĩa cuộc sống, về cái thiện và cái ác…
Về cấu trúc của nhân cách, Murray cũng giữ lập trường của phân tâm
học. Theo Murray, ý nghĩa chẩn đoán của các câu chuyện trong test TAT là
sự phóng ngoại chủ yếu lớp bên trong của nhân cách. Nói cách khác, nhu cầu
càng ít được thoả mãn trong đời sống thực bao nhiêu, thì nó càng giữ vị trí to
lớn trong tưởng tượng bấy nhiêu.
Về cơ bản, H. Murray vẫn giữ nguyên những quan điểm của Phân tâm
học: Tất cả những nhu cầu và những tích hợp của chúng quy định xu hướng
của nhân cách đều có khởi nguyên từ những ý hướng libido vô thức. Những
đặc điểm tính cách là sự biến đổi thăng hoa của chúng dưới tác động của các
yếu tố xã hội. Do tính không lặp lại của con đường đúng của mình mà mỗi
người có một tập hợp cá biệt các đặc điểm, đem lại tính có một không hai
trong hành vi và tính cách của họ.
1.1.1.3. Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Abraham Maslow (1908-1970) là nhà tâm lý học người Mỹ, nhà sáng lập
trường phái “Tâm lý học nhân văn” và xây dựng học thuyết về nhu cầu và sự
phát triển của con người vào những năm 1950, để giải thích những nhu cầu
nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng

đến một cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
Trong tác phẩm “Motivation and Personality” (1954), Maslow đã hình
dung nhu cầu và sự phát triển nhu cầu của con người theo một chuỗi liên tiếp
bậc thang. Ông đã phân loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo
tính đòi hỏi và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy về năm loại, sắp
xếp thành năm bậc thang về nhu cầu con người từ thấp đến cao.
a. Nhu cầu sinh lý
Thứ bậc đầu tiên này rất cơ bản và đặc biệt quan trọng. Nó là nhu cầu
tâm lý nguyên thuỷ nhất, lâu dài nhất, cơ bản nhất, sơ cấp nhất và rộng rãi

15
nhất của con người. Nhu cầu vật chất bao gồm: thức ăn, nước uống, quần áo,
nhà ở Nói cách khác, nếu những nhu cầu cơ bản không được đáp ứng, con
người sẽ chết. Đặc biệt đối với trẻ em, chúng hiển nhiên phụ thuộc rất nhiều
vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này, nếu những
nhu cầu cơ bản của trẻ không được đáp ứng, trẻ sẽ “bị tắc” ở thứ bậc này của
hệ thống thứ bậc nhu cầu và không thể tiến thêm nữa.
b. Nhu cầu về an ninh và sự an toàn
An ninh và sự an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có
lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. Đây cũng là nhu
cầu sinh lý và tâm lý khá cơ bản và phổ biến của con người.
Nội dung nhu cầu an toàn bao gồm các mặt sau: An toàn sinh mệnh, an
toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn kinh tế, an toàn nghề nghiệp, an
toàn ở và đi lại, an toàn nhân sự, an toàn sức khoẻ và an toàn tâm lý, trong đó
cơ bản nhất là an toàn sinh mệnh.
Việc xây dựng các loại luật pháp, quy tắc, chế độ thực chất là để bảo
đảm nhu cầu an toàn chung cho mọi người. Do đó, chúng ta có thể hiểu vì sao
những người phạm pháp và vi phạm các quy chế lại bị mọi người căm ghét, vì
người có hành vi phạm tội đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
Nhu cầu an toàn nếu không được bảo đảm thì cuộc sống sẽ bị đe dọa,

công việc của mọi người sẽ không được tiến hành bình thường và các nhu cầu
khác sẽ không được thực hiện.
c. Nhu cầu được thừa nhận
Con người về bản chất luôn luôn tạo dựng mối quan hệ, sự thừa nhận và
tình yêu thương từ người khác. Nếu không cảm thấy được giao tiếp và quan
hệ với người khác thì con người khó có thể tồn tại. Tình yêu thương và sự
chấp nhận đến với chúng ta qua gia đình, bạn bè, hàng xóm, cộng đồng và
thậm chí qua các tổ chức hoặc hiệp hội.

16
So với nhu cầu vật chất và nhu cầu an toàn thì thời gian xuất hiện nhu
cầu được quan hệ và được thừa nhận muộn hơn, nhưng nội dung của nó
phong phú, tế nhị, kỳ diệu và phức tạp hơn hai nhu cầu trước. Tuỳ theo tính
cách, cảnh ngộ, sự lịch duyệt, trình độ văn hóa, đặc điểm dân tộc, đặc điểm
khu vực, chính trị, tín ngưỡng và các quốc gia khác nhau mà có đủ các hình
thái muôn màu muôn vẻ của nhu cầu này.
Nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận gồm có các vấn đề tâm lý như:
Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi thân cận, tán thưởng, ủng hộ…
Nhu cầu đó được bắt buộc từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ
bị cô độc, bị xem thường, buồn rầu, mong muốn được hoà nhập, khát khao
tình hữu nghị, lòng tin cậy và lòng trung thành giữa con người với nhau.
Yêu là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình yêu, tình
bạn, tình thân ái là nội dung lý tưởng mà nhu cầu được thừa nhận luôn theo
đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát
triển của nhân loại.
d. Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu được tôn trọng gồm hai loai: Lòng tự trọng và được người khác
tôn trọng.
Tự trọng được hiểu là sự quan tâm đúng đắn về nhân phẩm hay chuẩn mực
đạo đức của một người, nói cách khác là cảm thấy tốt về bản thân, trải nghiệm

những ý nghĩa về giá trị của bản thân và tự hào về các thành quả của cá nhân.
Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muốn đạt được lòng tin, có năng
lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu
hiện và tự hoàn thiện. Về bản chất, đó là sự tìm kiếm tình cảm tự an ủi, tự bảo
vệ mình.
Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng có được uy tín, được
thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự, được biết đến. Uy tín là một

17
loại sức mạnh vô hình được người khác công nhận. Vinh dự là sự đánh giá
khá cao của xã hội đối với con người. Tôn trọng là được người khác coi trọng,
ngưỡng mộ.
e. Nhu cầu khẳng định bản thân
Đây là bậc cuối cùng trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của Maslow, là
bước phát triển nhất về tâm lý và phức tạp nhất trong tất cả các bước. Đó là
nhu cầu về sự trưởng thành cá nhân, cơ hội cho sự phát triển và học hỏi của cá
nhân. Nhu cầu về sự trưởng thành cá nhân này có thể được hiểu là sự tiếp cận
với hệ thống giáo dục, bao gồm cả việc học ở nhà, đào tạo kỹ năng nghề
nghiệp, chơi thể thao, trải nghiệm - tất cả những gì có thể mang lại cơ hội cho
con người nâng cao năng lực cá nhân, năng lực tinh thần, trí tuệ và phát triển
toàn diện.
Nhu cầu khẳng định bản thân được Maslow gọi là nhu cầu muốn thể hiện
toàn bộ tiềm năng của con người.
Sơ đồ 1.1: Hệ thống thứ bậc nhu cầu con người của Maslow
(Theo Dr. C. George Boeree)



18
A.Maslow gọi 4 mức nhu cầu đầu tiên: Nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn,

nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu tôn trọng là nhóm các nhu cầu thiếu hụt, các
nhu cầu ở nhóm thứ 5 (các nhu cầu hiện thực hóa bản thân – self actualization
needs) được ông chia thành các nhu cầu nhỏ hơn: Nhu cầu hiểu biết, nhu cầu
thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và được gọi là nhóm các nhu cầu phát triển.
A.Maslow cho rằng, tuy phân chia các mức độ như vậy song vị trí của chúng
trên tháp nhu cầu không phải là cố định mà chúng linh hoạt thay đổi tuỳ theo
điều kiện cụ thể.
Trong tác phẩm Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,
tác giả B.Ph.Lomov đã nhận xét: “Tháp Maslow bao gồm cả những nhu cầu
có nguồn gốc sinh học và xã hội, nhưng đặc điểm của các mức độ nêu trên hết
sức vô định hình. Theo tác giả, nguyên nhân để đưa đến cách phân cấp nhu
cầu như vậy của A.Maslow là do việc tách nhu cầu của cá nhân ra khỏi hệ
thống quan hệ xã hội, và đặt nhu cầu nằm ngoài mối liên hệ xã hội, không chỉ
ra được trong những điều kiện xã hội nào nhu cầu đó được thỏa mãn và những
nguyên nhân chuyển tiếp nào từ mức độ này sang mức độ khác.
1.1.1.4. Luận điểm của X.L. Rubinstêin
Xuất phát từ chỗ cho rằng, bản chất con người là tổng hòa các mối quan
hệ xã hội, Rubinstêin rất chú ý đến mối quan hệ giữa con người với môi
trường xung quanh. Theo ông, nhu cầu của con người thể hiện sự liên kết, sự
phụ thuộc của con người với thế giới xung quanh. Để tồn tại và phát triển, con
người luôn luôn phải đáp ứng những đòi hỏi nhất định. Những đòi hỏi ấy
chính là nhu cầu. Nhu cầu là sự đòi hỏi “cái gì đó” nằm ngoài chủ thể. “Có gì
đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thoả mãn nhu cầu
thông qua hoạt động của chủ thể. Vì vậy, theo ông, phải thống nhất các yếu tố
khách quan (thuộc về đối tượng) với các yếu tố chủ quan (thuộc về chủ thể -
trạng thái tâm lý của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thoả mãn nhu
cầu. Nhu cầu vừa mang tính tích cực vừa mang tính thụ động. Nhu cầu đòi

19
hỏi cần được thoả mãn hay không lại phụ thuộc vào hệ thống đối tượng trong

những điều kiện cụ thể. Trong trường hợp này, chủ thể chịu sự chi phối của
thế giới đối tượng.
Theo X.L Rubinstêin, sự hình thành một nhu cầu cụ thể có tham gia của
ý thức và trải qua các giai đoạn sau:
- Ý hướng, là bước khởi đầu của nhu cầu, chủ thể mới xuất hiện trạng
thái thiếu thốn của cơ thể, chưa có ý thức đầy đủ về đối tượng và khả năng
thoả mãn của nó.
- Ý muốn, là khi chủ thể đã ý thức rõ về đối tượng, mục đích hoạt động
nhằm thoả mãn nhu cầu, nhưng chưa có, đang tìm kiếm phương thức, điều
kiện thoả mãn nhu cầu.
- Ý định, là giai đoạn chủ thể ý thưc đầy đủ về ý thức, phương thức,
phương tiện, điều kiện thoả mãn nhu cầu và sẵn sàng hành động.
X.L. Rubinstêin cho rằng, các loại nhu cầu ở con người luôn có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Trong các nhu cầu bản năng và việc thoả mãn nhu cầu
đó, mục tiêu trước hết là bảo đảm sự tồn tại của cơ thể. Tiếp đến là để hành
động. Tiến trình cải biến, phát triển nói chung của con người, bắt đầu từ chỗ
chủ thể hành động nhằm duy trì sự tồn tại của chính bản thân, chuyển dần tới
chỗ duy trì sự tồn tại, là điều kiện để thực hiện những giá trị, ý nghĩa cuộc
sống của chủ thể.
1.1.1.5. Luận điểm của A.G. Côvaliôp
Trong phần lý luận bàn về “Nguồn gốc của tính tích cực bên trong của
con người”(1963), A.G. Côvaliôp đã đưa ra khái niệm nhu cầu như sau: “Nhu
cầu là sự đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện khách
quan nhất định đảm bảo cho sự sống và sự phát triển của con người”. Ông cho
rằng: Trong nhu cầu của con người có sự thống nhất giữa các nhân tố khách
quan và chủ quan, bởi lẽ, một nhu cầu khách quan nào đó trước khi trở thành

20
động lực thúc đẩy tính tích cực của con người đã được con người ý thức. Một
nhu cầu khi đã được con người phản ánh sẽ trở thành trạng thái chủ quan có

tác dụng điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm và hành vi, hoạt động của con người.
Trên cơ sở phân tích nhu cầu của cá nhân là sự phản ánh những yêu cầu
thiết yếu của cuộc sống và môi trường xung quanh, A.G.Côvaliôp đã chỉ ra
rằng: Những yêu cầu xã hội nếu được cá nhân tiếp nhận sẽ chuyển hóa dần
thành yêu cầu đối với bản thân - tức chuyển thành nhu cầu. Theo ông, nhu cầu
của con người là do xã hội quy định, mức độ phát triển của nhu cầu do tính
chất của sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm quy định. Nhu cầu có vai trò
xác định xu hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện
thực , xét đến cùng xác định lối sống và hoạt động của họ.
Trong những nghiên cứu về tâm lý xã hội, A.G.Côvaliôp đã đưa ra khái
niệm về nhu cầu: “Nhu cầu là đòi hỏi của các cá nhân và các nhóm xã hội
khác nhau muốn có những điều kiện nhất định để sống và phát triển Nhu
cầu quy định xu hướng lựa chọn các ý nghĩ, các rung cảm và ý chí của quần
chúng, nó quy định hoạt động của giai cấp hoặc tập thể”. Ông nhấn mạnh,
cuộc sống càng phát triển thì nhu cầu càng tăng. Khi nhu cầu được thỏa mãn
tới mức nào đó thì nó làm tăng thêm tính tích cực xã hội của con người.
Cũng trong phần lý luận bàn về “Nguồn gốc của tính tích cực bên trong
của con người”(1963), A.G. Côvaliôp đã đưa ra năm quy tắc chung của sự
hình thành và phát triển nhu cầu:
(1). Nhu cầu chỉ có thể nảy sinh, cũng cố trong quá trình luyện tập có hệ
thống mọi hoạt động cụ thể.
(2). Nhu cầu được phát triển khi phương tiện thoả mãn nhu cầu đa dạng,
phong phú.
(3). Nhu cầu tinh thần được hình thành khi hoạt động nhằm thoả mãn nó
phù hợp (vừa sức đặc biệt trong giai đoạn đầu).

21
(4). Điều kiện quan trọng để phát triển các nhu cầu tinh thần là việc
chuyển từ hoạt động nhớ lại sang hoạt động sáng tạo.
(5). Nhu cầu được cũng cố khi chủ thể ý thức được ý nghĩa của nó đối

với bản thân xã hội. Đồng thời, việc giáo dục và dư luận tập thể cũng góp
phần cũng cố và phát triển nhu cầu.
1.1.1.6. Luận điểm của A.N. Leonchiep
A.N. Leonchiep (1903 - 1979) là nhà tâm lý học Macxit. Ông đã đề cập
tới các vấn đề tương ứng giữa động cơ và nhu cầu. Ông cho rằng, một nhu
cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó. Trên cấp độ tâm lý,
các nhu cầu phát triển thông qua sự môi giới trung gian của quá trình phản
ánh tâm lý, và sự trung giới này mang tính chất “kép”. Một mặt, những đáp
ứng nhu cầu của chủ thể xuất hiện trước chủ thể với những dấu hiệu khách
quan, có tính chất tín hiệu. Mặt khác, bản thân các trạng thái có tính nhu cầu
cùng được báo hiệu cũng được phản ánh bởi chủ thể. Trong trường hợp đó, sự
biến đổi quan trọng nhất, đặc trưng cho sự chuyển tiếp sang cấp độ tâm lý là
sự xuất hiện những mối liên hệ cơ động giữa các nhu cầu và các đối tượng
đáp ứng cho chúng, vì bản thân trạng thái có tính chất nhu cầu của chủ thể
chưa rõ là vật nào, đối tượng nào có khả năng thoả mãn nhu cầu.
A.N. Leonchiep cho rằng, với tính chất là một cá nhân, chủ thể sinh ra đã
có những nhu cầu. Những nhu cầu là sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi
trong hoạt động. Nói cách khác, thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như là một
điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng ngay khi chủ thể bắt đầu hành
động, lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu và nó sẽ không còn giống như
khi tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát triển của hoạt
động càng đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động (tức là nhu cầu)
càng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động. Sự biến đổi nội dung
đối tượng cụ thể của các nhu cầu cũng kéo theo sự biến đổi các phương thức
thoả mãn chúng.

22
Phân tích về mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động, ông cho rằng có hai
quan niệm thể hiện theo hai sơ đồ sau:
- Sơ đồ thứ nhất: Nói lên tư tưởng cho rằng xuất phát điểm là nhu cầu và

vì thế toàn bộ quá trình này thể hiện thành một chu kỳ: Nhu cầu-> hoạt động
->nhu cầu. Đây là quan niệm của những người theo chủ nghĩa duy vật về nhu
cầu trước khi xuất hiện chủ nghĩa Mác.
- Sơ đồ thứ hai, trái ngược lại, là một sơ đồ theo chu kỳ: Hoạt động ->
nhu cầu -> hoạt động.
Sơ đồ thứ hai là sơ đồ đáp ứng được quan niệm Mácxít về nhu cầu. Luận
điểm cho rằng, mọi nhu cầu con người đều được sản sinh ra có một ý nghĩa
duy vật lịch sử. Đồng thời, nó lại cực kỳ quan trọng đối với tâm lý học, bởi
không có một “động lực” nào tồn tại trước bản thân hoạt động lại có thể đóng
vai trò một quan niệm xuất phát, có khả năng dùng làm cơ sở đầy đủ cho một
lý thuyết khoa học và nhân cách con người.
So sánh nhu cầu của vật con và con người, A.N. Leonchiep cho rằng, sự
phát triển nhu cầu của con vật phụ thuộc vào sự mở rộng phạm vi các vật thể
tự nhiên mà chúng tiêu thụ, còn các nhu cầu của con người được sản sinh ra
bởi sự phát triển của sản xuất, sự tiêu dùng. Vì vậy, nhu cầu của con người
phong phú, đa dạng hơn nhiều so với con vật. Đặc biệt ở người hình thành
nên một kiểu nhu cầu đặc biệt, đó là các nhu cầu có tính chất vật thể - chức
năng như: Nhu cầu lao động, nhu cầu sáng tạo nghệ thuật… Theo ông, điều
chủ yếu nhất ở con người là các nhu cầu đã mang những quan hệ mới giữa
chúng với nhau. Mặc dù đối với con người, sự thoả mãn các nhu cầu sinh tồn
thiết yếu vẫn là công việc hàng đầu và là điều kiện không tránh khỏi trong
cuộc sống, nhưng những nhu cầu bậc cao, những nhu cầu chuyên biệt có tính
người hoàn toàn không phải chỉ tạo thành những cơ cấu được chồng ghép lên
mặt ngoài của các nhu cầu sinh tồn thiết yếu của con người.

23
1.1.2. Những nghiên cứu nhu cầu ở Việt Nam
Nhu cầu là vấn đề được nhiều nhà tâm lý học Việt Nam quan tâm tìm
hiểu. Có thể nêu ra một số tác giả sau: Phạm Minh Hạc (2000), Bùi Văn Huệ
(2003), Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (1983), Lê

Khanh, Trần Trọng Thủy Các tác giả này nghiên cứu nhu cầu từ góc độ của
tâm lý học đại cương. Có thể kể đến một số tác phẩm sau: Tâm lý học, NXB
Giáo dục (1997) của tác giả Phạm Minh Hạc; Tâm lý học, NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội (2000) của tác giả Bùi Văn Huệ; Tâm lý học đại cương, NXB
ĐHSP Hà Nội (2003) của tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh
Văn Vang; Tâm lý học Đại cương, NXB Giáo dục (1983) của các tác giả
Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy
Bên cạnh các quan điểm nghiên cứu của các tác giả nói trên về nhu cầu,
còn có các công trình nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu
sinh và các nhà nghiên cứu khác để phục vụ cho công tác học tập và nghiên
cứu khoa học như: Nhu cầu đạt thành tích trong học tập của tác giả Nguyễn
Thạc (1984), Nhu cầu thông tin của tác giả Hà Hòa Bình (2001), Nhu cầu
nhận thức của học sinh học kém bậc tiểu học của tác giả Nguyễn Văn Lũy
(2001), Nhu cầu học tập của sinh viên ĐHSP của tác giả Hoàng Thị Thu Hà
(2003), Nhu cầu thưởng thức âm nhạc của sinh viên của tác giả Hoàng Trần
Doãn (2006), “Công trình nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng và thái độ
của thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường” của tập thể các tác giả Thái
Duy Tuyên, Võ Tấn Quang, Lê Đức Phúc, Đặng Thành Hưng, Bùi Hồng Yến
Các công trình này đã góp phần lãm rõ thêm vai trò của nhu cầu vào các
lĩnh vực thực tiễn, đặc biệt là trong giáo dục. Hầu hết các công trình này đều
nhằm phát hiện những đặc điểm và biểu hiện của nhu cầu trong các hoạt động
cụ thể của con người, trên cơ sở lý thuyết và thực nghiệm tìm ra giải pháp làm
thỏa mãn và nâng cao hơn nữa chất lượng của nhu cầu đó. Tuy nhiên, nhu cầu

×