Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Mối tương quan giữa biểu tượng về uy quyền người cha và kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc đời thường ở trẻ sống vắng cha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 133 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================







NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT







MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA BIỂU TƯỢNG VỀ UY QUYỀN
NGƯỜI CHA VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG
Ở TRẺ SỐNG VẮNG CHA









LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ









HÀ NỘI- 2007




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================






NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT







MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA BIỂU TƯỢNG VỀ UY QUYỀN
NGƯỜI CHA VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG
Ở TRẺ SỐNG VẮNG CHA




CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
MÃ SỐ: 60.31.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TÂM LÝ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VĂN THỊ KIM CÚC






HÀ NỘI- 2007
LỜI CẢM ƠN


, 














 , 








- 








 X
N - 














 .  , 




 -  
- 



  

















.





- 
 - 
Long  
















 ,
.




Học viên: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ
VIẾT TẮT
Biểu tượng
BT
Biểu tượng xã hội
BTXH
Mối tương quan
MTQ
Tâm lý học
TLH

Trẻ em
TE
Xung đột tâm lý
XĐTL
Số lượng
SL
Uy quyền người cha
UQNC



MỤC LỤC


Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
7
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
7
2. Một số vấn đề lý luận khác
7
2.1 Các khái niệm
7
2.1.1 Khái niệm biểu tƣợng
7
2.1.2 Khái niệm ngƣời cha - vai trò của ngƣời cha trong gia đình và
ảnh hƣởng của việc vắng cha tới sự phát triển của trẻ em


8
2.1.3 Khái niệm uy quyền và biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha
8
2.1.4 Trẻ em
9
2.1.5 Kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng
9
2.1.6 Khái niệm mối tƣơng quan
9
CHƢƠNG 2 : TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ NGHIÊN CỨU
10
2.1 Tổ chức thực hiện
10
2.1 Hệ phƣơng pháp nghiên cứu
10
2.3 Giới thiệu khách thể nghiên cứu
10
CHƢƠNG 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
11
3.1 Biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha
11
3.1.1. Khái niệm uy quyền ngƣời cha trong suy nghĩ của trẻ
11
3.1.2. Các yếu tố tạo nên uy quyền của ngƣời cha nói chung trong biểu
tƣợng của từng nhóm trẻ. Mức độ quan trọng của các yếu tố.

11
3.1.3 So sánh điểm trung bình năm yếu tố quan trọng nhất để ngƣời
cha "nói chung" có uy quyền với con cái và điểm trung bình các yếu tố



này ở ngƣời cha "có thực" trong biểu tƣợng của ba nhóm trẻ.
15
3.1.4 Biểu tƣợng của trẻ về mức độ uy quyền của ngƣời cha “có thực’’
17
3.1.5 Mức độ quan trọng của các yếu tố ngƣời cha cần có để tạo đƣợc
uy quyền với con cái

20
3.1.6 Phân tích mối liên hệ giữa uy quyền ngƣời cha thực trong biểu
tƣợng của trẻ với các tiêu chí cụ thể

22
3.2 Kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng
25
3.2.1 Cách thức ứng xử của trẻ khi có bất hòa xảy ra
25
3.2.2 Mối tƣơng quan giữa biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha với kỹ
năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ sống
vắng cha


30


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
36
PHỤ LỤC








1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
Nói về sự phát triển của trẻ em, ngƣời ta thƣờng đề cập nhiều đến vai
trò của ngƣời mẹ. Tuy nhiên, ngƣời cha cũng đóng một vai trò vô cùng to
lớn đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Tác giả D. Burlingham và A.
Freud, trong công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng: “Bắt đầu từ
năm thứ hai, tình cảm mà đứa con dành cho cha sát nhập vào đời sống tình
cảm của nó và trở thành một thành phần cần thiết của những lực phức tạp
góp phần tạo nên tính tình và nhân cách đứa con." [29;114]. Nghiên cứu
về vai trò của ngƣời cha, các nhà học giả nhấn mạnh nhiều tới vấn đề uy
quyền: "Uy quyền là chức năng hàng đầu của người cha, cũng như tình yêu
thương là chức năng hàng đầu của người mẹ ", "Nếu thiếu uy quyền thì
bọn trẻ thiếu những cái phanh hãm cần thiết cho ba dạng phản ứng: sự đối
lập, sự bắt chước và sự bù trù" và "Hậu quả xa xôi của việc thiếu uy quyền
làm cho người ta chú ý còn đáng sợ hơn những hậu quả tức thời. Trong
nhân cách, người ta không tìm thấy bộ khung vững chắc, tính cách thiếu
kiên quyết, thiếu đề kháng và cách ứng xử thể hiện do dự, lưỡng lự, không
nhiệt tình trước thích thú hoặc những say mê thất thường, ý thức đạo đức
nghèo nàn, không năng động. Những quan hệ của cá nhân đó với bên
ngoài bị nhiễu loạn bởi sự không vững chắc của nhân cách: mạo hiểm, liều
lĩnh, thoái thác, chông chênh, thất thường, nhiều khi chứng tỏ một sự bất

an và lo âu không được ý thức rõ rệt" (Sutter và Luccioni) [29;135].
Từ luận điểm này, có thể thấy ngƣời cha đóng một vai trò quan trọng
đối với sự phát triển toàn diện của trẻ nói chung và đối với khả năng đƣơng
đầu và giải quyết các xung đột nảy sinh trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ
nói riêng.


2
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, số lƣợng trẻ em sống vắng cha chiếm
tỉ lệ tƣơng đối lớn. Chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây, nhóm trẻ em dƣới 18
tuổi có cha mẹ ly hôn đã tăng gấp gần 5 lần (năm 1992 chỉ có 4815 em
nhƣng đến năm 2001 con số này đã là 21.698 em). Số lƣợng trẻ em dƣới 18
tuổi sống vắng cha hoặc mẹ do cha mẹ ly hôn, đến năm 2001 đã lên đến
99.506 (Nguồn số liệu: báo cáo ngày 8/4/2002 của Toà án Nhân dân tối
cao). Sau khi cha mẹ ly hôn, trẻ thƣờng phải sống thiếu vắng bố hoặc mẹ,
và thƣờng thì trẻ em sống với mẹ chiếm tỷ lệ nhiều hơn (vì toà án ƣu tiên
quyền nuôi con thuộc về ngƣời mẹ). Bên cạnh đó, có đến hàng nghìn trẻ em
mồ côi cha mẹ đang đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng tại các trung tâm chăm sóc
trẻ mồ côi.
Từ thực tế này, một loạt câu hỏi đƣợc đặt ra nhƣ: Khi vắng cha, trẻ
em sẽ lấy cơ sở nào để xây dựng biểu tƣợng về uy quyền của ngƣời cha
trong tâm trí? Các biểu tƣợng về ngƣời cha không có thực đó sẽ chứa đựng
những nội dung nhƣ thế nào? Liệu chúng ảnh hƣởng ra sao đến khả năng
giải quyết xung đột trong cuộc sống của những trẻ em độ tuổi 10-15 đang
sống vắng cha?
Mặc dù đây là một vấn đề quan trọng trong công tác chăm sóc, bảo
vệ trẻ em nói chung, đặc biệt từ góc độ tâm lý học phát triển, tuy nhiên, cho
đến nay vẫn còn rất ít các nghiên cứu về lĩnh vực này và nếu có thì các
nghiên cứu đó mới chỉ xuất hiện một cách tản mạn, lẻ tẻ và cách thức tiến
hành còn chƣa sâu sắc, chƣa hệ thống.

Các lý do trên đây thúc đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: "Mối tƣơng quan giữa biểu tƣợng về uy quyền của ngƣời cha và
kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng ở trẻ sống
vắng cha".




3
2. Mục đích nghiên cứu
 Chỉ ra thực trạng các biểu tƣợng của trẻ em về uy quyền của
ngƣời cha.
 Chỉ ra cách thức giải quyết các xung đột trong cuộc sống đời
thƣờng của trẻ em sống vắng cha.
 Làm rõ mối quan hệ giữa biểu tƣợng về uy quyền của ngƣời cha
và kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng của
trẻ sống vắng cha.
 Đề xuất giải pháp cụ thể đối nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho sự phát triển nhân cách toàn diện ở trẻ.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu lý luận
3.1.1 Nghiên cứu tổng quan vấn đề nhằm nắm bắt thực trạng quan
tâm của giới khoa học trên thế giới và trong nƣớc về lĩnh vực này, những
thành tựu đã đạt đƣợc, những vấn đề còn bỏ ngỏ.
3.1.2 Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài:
 KN biểu tƣợng
 KN uy quyền
 KN biểu tƣợng về uy quyền
 KN ngƣời cha

 KN về uy quyền ngƣời cha
 KN biểu tƣợng của trẻ em về uy quyền ngƣời cha
 KN trẻ em, trẻ sống vắng cha
 KN kỹ năng
 KN xung đột
 KN kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng
 KN mối tƣơng quan



4
3.2 Nghiên cứu thực tiễn:
 Nghiên cứu trên thực tế biểu tƣợng về uy quyền của ngƣời cha ở
trẻ em.
 Các yếu tố liên quan đến sự hình thành biểu tƣợng về uy quyền
này.
 Nghiên cứu thực trạng kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc
sống đời thƣờng của trẻ.
 Mối quan hệ giữa các biểu tƣợng trên với kỹ năng giải quyết xung
đột trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ.
 Bƣớc đầu đƣa ra những khuyến nghị, giải pháp giúp cho trẻ em
trong các gia đình vắng cha có đƣợc những biểu tƣợng tích cực về
uy quyền ngƣời cha để các em có điều kiện phát triển hoàn thiện
nhân cách.

4. Đối tƣợng nghiên cứu
Mối tƣơng quan giữa biểu tƣợng về uy quyền của ngƣời cha và kỹ năng
giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ em sống vắng
cha.


5. Khách thể nghiên cứu:
158 trẻ em độ tuổi từ 12- 15 gồm những em đang sống vắng cha trên địa
bàn Hà Nội và trẻ trong các gia đình có đầy đủ cả cha lẫn mẹ cùng độ tuổi.

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện có hạn nên nghiên cứu của chúng tôi chỉ tập
trung vào những phần sau:
- Về nội dung: Nghiên cứu mối tƣơng quan biểu tƣợng về uy quyền của
ngƣời cha và các kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng
của trẻ sống vắng cha.

5
- Về khách thể: Lựa chọn những trẻ vắng cha thuộc 02 nhóm: trẻ sống
vắng cha do cha mẹ ly hôn và trẻ vắng cha do mồ côi đang đƣợc nuôi
dƣỡng và chăm sóc tại làng trẻ SOS - Hà Nội.
- Về độ tuổi khách thể: Đề tài chỉ nghiên cứu trẻ vắng cha ở độ tuổi
THCS (12 đến 15 tuổi)
- Về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu tại nội thành Hà Nội
- Về thời gian: Đề tài tiến hành trong 2 năm kể từ khi xây dựng đề cƣơng
của đề tài.

7. Giả thiết nghiên cứu:
1. Biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha ở trẻ vắng cha thấp hơn so
với trẻ sống cùng cha mẹ.
2. Trẻ vắng cha lựa chọn loại kỹ năng giải quyết xung đột khác
so với trẻ sống cùng cha mẹ.
3. Mức độ cao hay thấp trong biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha
"có thực" mà trẻ vắng cha xây dựng nên có mối tƣơng quan với một số loại
kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ.


8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu
- Phƣơng pháp quan sát
- Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phƣơng pháp trắc nghiệm
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
- Phƣơng pháp thảo luận nhóm

6
- Phƣơng pháp so sánh giữa trẻ sống vắng cha và trẻ trong các gia
đình sống cùng cha mẹ.
- Phƣơng pháp chuyên gia
- Phƣơng pháp xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 11.5


























7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1 Nghiên cứu về biểu tượng
Biểu tƣợng là một khái niệm đang đƣợc đẩy mạnh nghiên cứu trên
thế giới bởi đến nay khái niệm biểu tƣợng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng
nhiều bí ẩn.
Ở nước ngoài, các nƣớc có nền TLH phát triển nhƣ Mỹ, Anh, Pháp,
Đức…, các nghiên cứu về BTXH đƣợc đẩy mạnh không ngừng. Chẳng hạn
nhƣ trong TLH Pháp có bốn dòng lớn nghiên cứu BTXH: Một dòng chuyên
khảo miêu tả nhằm ghi lại các biểu tƣợng của nhóm về một đối tƣợng nào
đó (Moscovisi và các học trò của ông). Dòng thứ hai nghiên cứu ảnh hƣởng
của các BTXH lên ứng xử (Codol, Arbic). Dòng thứ ba chuyên nghiên cứu
các kỹ thuật đo lƣờng các BTXH nhằm nắm bắt các cấu trúc của chúng, và
dòng cuối cùng chuyên tìm hiểu những biến đổi của các BTXH (Jodelet, Di
Giacomo, Flament, Arbic), cũng nhƣ tìm các cơ chế ngầm ẩn của các sự
biến đổi này [3].
Ở Việt Nam, những năm gần đây cũng đã bắt đầu xuất hiện một số
nghiên cứu về biểu tƣợng nhƣ: Đề tài "Tạo biểu tƣợng lịch sử cho học
sinh tiểu học" - tác giả Trần Viết Lƣu (1999), đề tài "Biểu tƣợng của cha
mẹ về trí thông minh của trẻ em" - tác giả Văn Thị Kim Cúc (2000);

"Biểu tƣợng của trẻ mắc bệnh ung thƣ về bệnh của mình - Luận văn tốt
nghiệp - Đặng Hoàng Minh (2001)… Tuy nhiên, trong quá trình nghiên
cứu tài liệu, chúng tôi chƣa thấy xuất hiện các nghiên cứu biểu tƣợng về
uy quyền ngƣời cha.





8
1.2 Nghiên cứu về vai trò người cha và uy quyền của người cha trong
gia đình
- Nghiên cứu về vai trò ngƣời cha
Từ trƣớc đến nay, vấn đề giáo dục gia đình và vai trò của cha mẹ
trong giáo dục gia đình đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Ở nước ngoài có: Khổng Tử, Mạnh Tử, sau này có J.J Rutxô,
S.Simon, A.X Macarenco, Giai hot Họ đều là những nhà giáo dục học,
tâm lý học nổi tiếng. Họ quan tâm và đề cập nhiều đến vấn đề giáo dục gia
đình, nhƣng có rất ít tác phẩm, công trình có tính hệ thống.
Trong nước cũng có nhiều tác giả cho xuất bản các đầu sách về giáo
dục gia đình, vai trò của cha mẹ nhƣ: Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thị
Đoan, Lê Tiến Hùng, Trần Trọng Thuỷ, Hà Nhật Thăng, Trần Quang
Cấn , song phần đông các tác giả mới chỉ dừng ở mức độ phổ biến khoa
học giáo dục gia đình hoặc chỉ dừng ở những nghiên cứu lẻ tẻ, chƣa có
nhiều công trình "dài hơi" nghiên cứu về lĩnh vực này.

- Nghiên cứu về uy quyền ngƣời cha trong gia đình
Ở nước ngoài:
Nhiều tác giả kinh điển nhƣ: K.Mark, F.Engels, V.I. Lenin có đề cập
đến uy quyền từ góc độ triết học.

Các nhà quản lý học nhƣ: F.Gafanaxep, P.V.Zimin, M.I.KodaKop
có trình bày một số ý kiến dƣới góc độ Quản lý học.
Trong nước:
Các công trình nghiên cứu và chuyên khảo về uy quyền, đặc biệt là
uy quyền ngƣời cha trong giáo dục gia đình lại càng vô cùng hiếm. Các nhà
giáo dục học, tâm lý học trong nƣớc nhƣ Nguyễn Khắc Viện, Đỗ Long,
có một vài tác phẩm trong đó có nói đến vấn đề uy quyền hoặc uy quyền
của cha mẹ trong giáo dục con trẻ. Tác giả Lê Tiến Hùng (1993) có một
công trình nghiên cứu (luận án Phó tiến sỹ) về "Quyền uy và việc sử dụng

9
quyền uy của cha mẹ trong giáo dục gia đình". Tuy nhiên, đề tài tiếp cận
vấn đề chủ yếu từ góc độ giáo dục học.
Do vậy, tính đến nay có thể thấy, những nghiên cứu về vấn đề vai trò
ngƣời cha và uy quyền của ngƣời cha trong gia đình từ góc độ tâm lý học
chƣa nhiều.

1.3 Nghiên cứu về kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời
thường
Có rất nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu về vấn đề xung
đột tâm lý xảy ra ở lứa tuổi vị thành niên.
Trên thế giới, từ đầu thế kỷ XX – thập niên 1980 là quá trình hình
thành các lý luận có tính định hƣớng cho nghiên cứu về xung đột tâm lý,
với các lý thuyết tiêu biểu nhƣ: Phân tâm học (S.Freud) (1856-1939);
Thuyết động thái tâm lý của E.Erikson (1902-1994), Tâm lý học nhận thức-
J.Piaget (1896-1980), cách tiếp cận Tâm lý học hoạt động- LX. Vƣgotxky
(1896-1934). Từ thập niên 1980 đến nay, giới nghiên cứu đã có những thay
đổi trong định hƣớng nghiên cứu về vấn đề XĐTL, đi sâu nghiên cứu từ
bản chất đến nguyên nhân, giải pháp và kết quả của XĐTL, với các đại
biểu phải kể đến nhƣ: C.A.Flanagan (1990) [39], N.L.Galambos &

D.M.Almeida (1992) [40], Mặc dù còn nhiều quan điểm chƣa thống nhất
nhƣng những thành tựu nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học đã
phần nào cho chúng ta hiểu biết những khía cạnh khác nhau của vấn đề giải
quyết XĐTL ở lứa tuổi VTN.
Ở Việt Nam, một số tác giả đã quan tâm nghiên cứu vấn đề này từ
góc độ Tâm lý học xã hội và Tâm lý học gia đình nhƣ: Trần Trọng Thủy,
Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Huệ, Phạm Tất Dong, Ngô Công Hoàn, Đỗ Long,
Vũ Dũng, Trần Hiệp, Nguyễn Khắc Viện, Lê Thị Bừng Các nhà khoa học
đã bƣớc đầu đƣa ra những lý luận về xung đột, các giai đoạn của xung đột
tâm lý. Tác giả Ngô Công Hoàn (1993) đã đề cập đến vấn đề xung đột giữa
các thành viên trong gia đình là "sự đối lập về quan điểm, thái độ, hành vi

10
ứng xử của các thành viên trong gia đình trong quá trình tổ chức đời sống
sinh hoạt của họ‟‟. [22;78]
Về mặt nghiên cứu lý luận, tác giả Lê Đức Phúc (2003) [21;118]
cũng đƣa ra năm cấp độ xung đột thƣờng thấy trong cuộc sống hàng
ngày. Tác giả Đỗ Hạnh Nga (2005) có công trình nghiên cứu về "Xung
đột tâm lý giữa cha mẹ và con cái lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về
nhu cầu độc lập‟‟.
Nhƣ vậy có thể nói, những nghiên cứu về vấn đề xung đột tâm lý ở
lứa tuổi vị thành niên đã đƣợc đề cập đến nhiều. Tuy nhiên, phần nhiều
những nghiên cứu này vẫn còn mang tính định hƣớng. Nghiên cứu về kỹ
năng giải quyết xung đột trong cuộc sống hàng ngày của lứa tuổi vị thành
niên vẫn còn nhiều mảng bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục đặt ra và tìm
hiểu vấn đề „„Kỹ năng giải quyết xung đột trong cuộc sống hàng ngày ở lứa
tuổi vị thành niên‟‟ trong nghiên cứu của mình.

2. Một số vấn đề lý luận khác
2.1 Các khái niệm

2.1.1 Khái niệm biểu tƣợng
Khái niệm chung về biểu tượng
Trên thực tế, khái niệm biểu tƣợng là đối tƣợng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài này,
chúng tôi chỉ đề cập tới khái niệm biểu tƣợng trên bình diện của ngành
Tâm lý học.

Định nghĩa
Theo từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng) [7;21] , "Biểu tƣợng là hình ảnh
các vật thể, cảnh tƣợng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tƣởng
tƣợng. Khác với tri giác, biểu tƣợng có thể mang tính khái quát. Nếu tri

11
giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tƣợng liên quan đến quá khứ và
tƣơng lai‟‟.
Nhƣ vậy, biểu tƣợng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tƣợng
của thế giới xung quanh, đƣợc hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri
giác đã xảy ra trƣớc đó, đƣợc giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh
mới đƣợc hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trƣớc. Biểu tƣợng
không phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi
đã đƣợc tri giác. Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là
kết quả chủ quan xuất phát từ những hoạt động tâm trí của chủ thể.
Biểu tượng chính là hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện
tượng khách quan đã được tri giác từ trước.

Cấu trúc của biểu tượng:
Theo luận điểm của I.M Xêtrênốp (1952): “Các biểu tƣợng là kết quả
trung gian từ các tri giác phân chia thành từng thành phần riêng lẻ của sự
trừu tƣợng hoá một tổng số nhất định các vật thể cùng loài và thành phần
của sự trừu tƣợng hoá này bao gồm: ngoài các dấu hiệu bề ngoài còn có các

dấu hiệu không phơi bày ra một cách trực tiếp mà phải nhờ một sự phân
tích chi tiết về mặt trí tuệ và thể chất các vật thể, cũng nhƣ quan hệ giữa
chúng với nhau và giữa chúng với con ngƣời" [9;141]
Qua luận điểm này, chúng ta thấy cấu trúc của biểu tƣợng có thể
phân chia thành:
- Những biểu hiện bề ngoài vô cùng đa dạng của hiện thực.
- Những dấu hiệu của sự vật, hiện tƣợng của hiện thực mà tự chúng
không phơi bày ra.
Khi có sự phân tích của trí tuệ về các sự vật, hiện tƣợng cũng nhƣ về
các hành vi thì các bộ phận riêng lẻ đƣợc tách ra của các biểu tƣợng sẽ
đƣợc liên kết với các hình ảnh hoàn chỉnh. Do đó, cuối cùng sẽ dẫn đến
những biểu tƣợng đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.

12
Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật của các biểu tƣợng là chúng vừa
đƣợc giữ lại trong trí nhớ của chủ thể, đồng thời dƣới ảnh hƣởng của tri
giác mới (tác động của thế giới khách quan) và tƣởng tƣợng thì nội dung
của chúng lại đƣợc bổ xung và phong phú thêm.
Nhƣ vậy, biểu tƣợng là yếu tố động, luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào ảnh
hƣởng của tri giác tác động cũng nhƣ tuỳ thuộc vào trí tƣởng tƣợng phong
phú của mỗi cá nhân.

Phân loại biểu tượng
Dựa vào tiêu chí: Hình tƣợng của sự vật và hiện tƣợng tri giác từ
trƣớc đƣợc sắp xếp lại trong ý thức con ngƣời đến mức độ nào, ngƣời ta
phân chia biểu tƣợng thành hai loại:
- BT của trí nhớ: là hình ảnh của tri giác lúc trƣớc đƣợc tái hiện lại
trong một hoàn cảnh nhất định.
- BT của tƣởng tƣợng: là hình ảnh mới đƣợc trí tƣởng tƣợng tạo nên
trên nền của biểu tƣợng cũ.

BT của tƣởng tƣợng khác về chất so với biểu tƣợng của trí nhớ. Biểu
tƣợng của tƣởng tƣợng là hình ảnh mới, đƣợc chế biến lại từ những biểu
tƣợng của trí nhớ, là: "Biểu tƣợng của biểu tƣợng", thƣờng đƣợc chủ thể
sáng tạo dựa trên các cách thay đổi số lƣợng, kích thƣớc, chắp ghép, liên
hợp, nhấn mạnh, điển hình hoá.
Do đó, sự phản ánh của biểu tƣợng tƣởng tƣợng mang tính chất gián
tiếp và khái quát cao hơn so với BT trí nhớ.

Vai trò của biểu tượng trong hoạt động tâm lý
Biểu tƣợng là một trong những hình thức quan trọng của sự phản ánh
chủ quan về thế giới khách quan. Không có biểu tƣợng thì không thể có ý
thức. Do gắn với các yếu tố tổng hợp nên biểu tƣợng là bậc thang chuyển
hoá từ hình ảnh cụ thể đến khái niệm trừu tƣợng, từ cảm giác và tri giác

13
đến tƣ duy. Ngoài ra, do biểu tƣợng mang tính chất biến đổi rộng rãi, rõ
nét- cho phép xây dựng hình ảnh mới, nên chúng đóng vai trò quan trọng
và cần thiết trong hoạt động sáng tạo của con ngƣời.

2.1.2 Khái niệm ngƣời cha - vai trò của ngƣời cha trong gia đình và
ảnh hƣởng của việc vắng cha tới sự phát triển của trẻ em
2.1.2.1 Khái niệm người cha và vai trò của người cha trong gia đình
Nói tới "gia đình", chúng ta thƣờng hình dung một mái nhà ít nhất có
sống cùng cha mẹ và con cái. Vai trò của ngƣời mẹ đối với sự phát triển
của đứa trẻ là không thể bàn cãi. Tuy nhiên, ngƣời cha cũng đóng một vai
trò không kém phần quan trọng đối với sự phát triển của đứa con. Ông cha
ta từ xƣa vẫn khẳng định:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Trong truyền thống văn hoá Việt Nam, vai trò không thể thiếu của

ngƣời cha đối với con cái trong gia đình đƣợc đề cao qua câu tục ngữ: "Con
không cha nhƣ nhà không nóc". Ngƣời cha đƣợc hiểu là ngƣời trụ cột, là
ngƣời cầm cân nảy mực trong gia đình, là "cái nóc" của mỗi ngôi nhà.
Tác giả Porot trong tài liệu "Trẻ em và các mối quan hệ trong gia
đình" [29;25] cũng đề cập nhiều đến vai trò của ngƣời cha trong sự phát
triển của trẻ em. Ông cho rằng: "Một gia đình đúng nghĩa phải có sự kết
hợp gắn bó giữa tình yêu thƣơng và uy quyền, sự ganh đua và sự đoàn kết.
Tình thƣơng yêu gắn với vai trò ngƣời mẹ và uy quyền gắn liền với vai trò
ngƣời cha. Những mối quan hệ gia đình bình thƣờng sẽ đƣợc sắp xếp xung
quanh đứa trẻ, theo đứa trẻ và vì đứa trẻ. Một gia đình hạnh phúc đòi hỏi sự
cân bằng thƣờng xuyên giữa tình yêu của ngƣời mẹ, uy quyền của ngƣời
cha, sự đoàn kết và tính ganh đua giữa con cái. Đấy cũng là những vai trò
thể hiện mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình xoay quanh đứa trẻ" [29;9].
Chính vì mối quan hệ chặt chẽ này mà trẻ sẽ phát triển nhân cách lệch lạc
nếu một trong những mắt xích này bị cắt đứt.

14
Theo D. Durlingham và A.Freud: "Bắt đầu từ năm 2 tuổi tình cảm
của con dành cho cha sáp nhập vào đời sống tình cảm của nó, trở thành một
phần cần thiết của những lực phức tạp góp phần tạo nên tính tình và nhân
cách đứa con". [29;114]
Quan hệ cha – con đƣợc Phân tâm học nghiên cứu từ lâu. Ngƣời mẹ
gắn bó với con trai, xung khắc với con gái và ngƣời cha thì ngƣợc lại. Đối
với con trai, ngƣời cha là biểu hiện của sức mạnh, vừa là chỗ che chở, nâng
đỡ, vừa là nơi phát sinh nỗi sợ hãi bị trừng phạt. Mặt khác, cả hai cha con
đều có cùng một đối tƣợng cảm xúc - ngƣời mẹ. Vì vậy, đứa trẻ luôn muốn
níu kéo cho mình phần lớn hơn, muốn mẹ yêu nhất nhà. Quan hệ cha – con
vì thế có tính chất lƣỡng phân, vừa sợ hãi, vừa kính phục, vừa ghen tức với
cha. S. Freud gọi đó là mặc cảm "Ơđip".
Trong lý thuyết về sự phát triển tính dục trẻ em ở giai đoạn Ơđíp

(3-5tuổi), S. Freud cho rằng ngƣời cha có vai trò là bức "rào chắn" ngăn
cản sự cuốn hút mạnh mẽ của con trai về phía ngƣời mẹ. Những can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp của ngƣời cha đều hƣớng cho con trai một hình
tƣợng đồng nhất hoá đủ giá trị để nó vƣợt qua mối xung đột nhất thời thù
địch – cảm xúc tiến tới từ bỏ tình yêu vào bà mẹ để đồng nhất với ngƣời bố
của mình. Khi đó, trẻ hoàn toàn chấp nhận nam tính tƣợng trƣng của ngƣời
cha và sẽ phát triển nhân cách lành mạnh, cụ thể hơn là phát triển "sức
mạnh của tính cách" nam giới.
Nhiều nhà nghiên cứu sau này cũng đề cập đến vai trò của ngƣời cha
nhƣ một nhân vật có đủ sức mạnh đề trẻ khuất phục, bắt chƣớc và noi theo
một cách vô thức. Trong gia đình, đôi khi diễn ra những cuộc tranh cãi về
mặt tình cảm. Thủa ban đầu, trẻ rất ích kỷ - luôn muốn mình là trung tâm
của mọi sự chú ý - dễ nảy sinh những mâu thuẫn trong quan hệ với anh chị
em. Lúc này, ngƣời cha phải đứng ra điều hoà các mối quan hệ bằng cách
hạn chế những yêu cầu và đòi hỏi của trẻ. Sibutani phân tích những hậu quả
do nuông chiều con cái: đứa trẻ vì luôn đƣợc nuông chiều và đƣợc đáp ứng

15
lập tức các đòi hỏi sẽ không vƣợt qua giai đoạn "tự kỷ trung tâm"
(egocentrisme). Đứa trẻ lớn lên có xu hƣớng thích chỉ huy, độc đoán, chỉ
tham gia vào các nhóm mà ở đó mình là trung tâm.
Đối với đứa con gái, ngƣời cha là đối tƣợng của sự gắn bó, với đứa
con trai, là đối tƣợng của sự tự đồng hoá. Ngƣời cha phải có đủ uy tín từ
những gì thực sự mà ông ta có mới có thể hƣớng cho con trai mình vƣợt
qua những khủng hoảng nhất thời (thù địch, ghen tức), tiến tới chấp nhận
nam tính ở ngƣời cha. Nếu ngƣời cha không mang các giá trị về nhân cách,
sự thành đạt về nghề nghiệp, sức mạnh uy quyền… thì đứa trẻ buộc phải đi
tìm nhân vật lý tƣởng để đồng nhất với nhân vật đó (S. Freud).
Trong tâm lý học hiện đại, ngƣời cha có ảnh hƣởng tới nhiều lĩnh
vực phát triển của đứa con nhƣ cảm xúc, tình cảm, ngôn ngữ, nhận thức

Sự tƣơng tác sớm giữa cha và đứa con có ảnh hƣởng tốt đến sự phát triển
của trẻ đặc biệt là các bé nam. Ngƣời cha tƣợng trƣng hay ngƣời cha cụ thể
đều có ảnh hƣởng tới trẻ. Tuy nhiên, uy tín ngƣời cha ngoài việc đƣợc công
nhận bởi ngƣời mẹ, hay những ngƣời xung quanh còn phải do khả năng
chiếm giữ vị trí đối với những đứa con của mình, thông qua hoạt động trực
tiếp trong quan hệ hàng ngày với trẻ. Nhƣ vậy ngƣời cha cụ thể (ngƣời cha
trực tiếp tham gia vào quan hệ hàng ngày với trẻ) chiếm giữ một tầm quan
trọng rất lớn ảnh hƣởng đến trẻ.
Vì khách thể nghiên cứu chính của chúng tôi là "trẻ vắng cha" và vấn
đề nghiên cứu là "Mối tƣơng quan giữa BT về UQNC và kỹ năng giải
quyết xung đột trong cuộc sống đời thƣờng của trẻ sống vắng cha", từ góc
độ tiếp cận của đề tài này, chúng tôi nhận thấy cần phải làm rõ thêm về
khái niệm "ngƣời cha" ở đây. Trong đề tài, chúng tôi có đề cập đến hai khái
niệm: ngƣời cha "nói chung" và ngƣời cha "có thực". Trong đó:
Ngƣời cha "nói chung" là nói đến những đặc điểm mà trẻ mong đợi ở
bất cứ ngƣời cha nào.
Ngƣời cha "có thực" là muốn nói đến ngƣời cha "đẻ " hay ngƣời cha
trực tiếp đã sinh ra trẻ.

16
2.1.2.2 Ảnh hưởng của việc vắng cha tới sự phát triển của trẻ em
Việc ngƣời cha vắng mặt kéo dài có rất nhiều tác động đến sự phát
triển của trẻ, đặc biệt là sự phát triển về mặt tâm lý.
Cũng trong tài liệu "Trẻ em và các mối quan hệ trong gia đình", tác
giả Porot lại tiếp tục chỉ ra rằng: "Những trƣờng hợp vắng mặt thật sự do
mất cha, ngƣời con bị thiệt thòi vì thiếu những cắm chốt cần thiết liên tiếp
nhau: ngƣời con trai phải bám vào mẹ và có nguy cơ thiếu nam tính vì hình
ảnh ngƣời cha đã khuất không thể thay thế ngƣời cha bằng xƣơng bằng thịt.
Sự cắm chốt đầu tiên của con gái đối với ngƣời cha cũng không thể thực
hiện đƣợc". Ngƣời ta cũng e ngại rằng ngƣời mẹ phải đảm đƣơng vai trò

ngƣời cha, khó có thể hoàn thành tốt đẹp một nhiệm vụ không phải của
mình. Sau này lớn lên, cô gái tự đồng nhất với mẹ, nhìn nhận ngƣời mẹ
trong cả vai trò của cha.
Levyshif (1982) thí nghiệm ở trẻ 2 tuổi 6 tháng và 2 tuổi 10 tháng đã
đƣa ra kết luận: trẻ thiếu cha bộc lộ dấu hiệu lo hãi hơn, nhiều rối nhiễu
hơn trong ứng xử. Bé trai thiếu cha kém thích nghi hơn, gặp nhiều khó
khăn hơn trong quan hệ tƣơng tác với trẻ khác. Vắng cha sẽ ảnh hƣởng tiêu
cực mạnh đến bé trai hơn bé gái.
Pedersen và đồng nghiệp (1979) đã thí nghiệm và rút ra kết luận:
Sự vắng mặt của ngƣời cha ảnh hƣởng tiêu cực lên cả bé trai và bé gái (đặc
biệt ảnh hƣởng mạnh hơn với bé trai), lên sự phát triển trí tuệ, khả năng
khám phá môi trƣờng vật thể xung quanh, khả năng phản ứng với các kích
thích môi trƣờng đều giảm hơn so với bé gái. Và ngƣời cha có ảnh hƣởng
quan trọng tới sự phát triển của trẻ ngay những năm tháng đầu tiên của
cuộc đời đặc biệt là ở các bé trai.
Nhƣ vậy không thể nào phủ nhận sự nhập cuộc của ngƣời cha ngay
từ những năm đầu trong đời sống của trẻ.



17
2.1.3 Khái niệm uy quyền và biểu tƣợng về uy quyền ngƣời cha
2.1.3.1 Khái niệm uy quyền
Khi đề cập đến khái niệm này, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải nêu
lại một số định nghĩa của các khái niệm liên quan (trích dẫn theo từ điển
Tiếng Việt - Viện khoa học xã hội) nhƣ sau:
- Ƣu thế: thế mạnh do quyền lực tạo nên, làm cho ngƣời khác phải e
dè, kính nể.
- Quyền lực: quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính
trị và sức mạnh để đảm bảo việc thực hiện quyền ấy.

- Quyền hành: quyền định đoạt và điều hành công việc.
- Uy quyền (hay quyền uy) đều là một (Từ điển Tiếng Việt)
[27;1265]: là quyền lực khiến ngƣời ta phải tôn trọng, nể vì, nể sợ.

Quyền uy là hiện tƣợng vốn có trong mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy xa xƣa, quyền lực của các tộc trƣởng, tù trƣởng,
thủ lĩnh các bộ tộc, bộ lạc là công cụ để thống trị cùng với sự hình thành
các giai cấp. Quyền thống trị dƣới hình thức chính trị hay pháp luật đều dựa
vào bạo lực và các hình thức cƣỡng chế kinh tế khác nhau cũng nhƣ dựa
vào quyền uy đạo đức phản ánh cho lợi ích của một giai tầng nào đó - giữ
vị trí hàng đầu trong việc điều hành xã hội.

Trong "Sổ tay tâm lý học" do Trần Hiệp và Đỗ Long chủ biên [10;106],

quyền uy đƣợc hiểu là: "Một đặc điểm tâm lý của phong cách lãnh đạo",
biểu hiện ở việc:
- Tập trung vào tay một ngƣời tất cả quyền lực.
- Gạt bỏ ngƣời khác ra khỏi quá trình ra quyết định những vấn đề
quan trọng của hoạt động chung.
- Loại trừ sáng kiến của ngƣời khác.
- Tác động đến họ bằng những ƣu thế cần thiết khác

18
Đây cũng là một cách hiểu thông thƣờng về quyền uy trong giới
quản lý. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, với cách hiểu này thì
dƣờng nhƣ quyền uy đƣợc hiểu là quyền lực của kẻ độc đoán, chuyên
quyền. Vì vậy, chúng tôi không lựa chọn cách hiểu nhƣ trên trong định
nghĩa "uy quyền" ở nghiên cứu này.

Từ điển triết học (Nhà xuất bản Tiến Bộ – Mat-xcơ-va, đã dịch ra

tiếng Việt, 1986) viết: "Quyền uy- tầm quan trọng, ảnh hƣởng đƣợc mọi
ngƣời công nhận của một nhân vật nào đó, hoặc là của một tổ chức, nhờ họ
có những phẩm chất, những công lao nhất định". Tuỳ theo phạm vi và
phƣơng thức của ảnh hƣởng, ngƣời ta phân biệt thành các loại quyền uy
nhƣ: Quyền uy chính trị; Quyền uy đạo đức; Quyền uy khoa học…

Tác giả Phan Tiến Ích (1987) thì lại cho rằng: "Quyền uy biểu hiện
nhƣ một hình thức riêng của mối liên quan giữa con ngƣời riêng rẽ với xã
hội, là sự tác động của một cá nhân đến những ngƣời khác và là sự phục
tùng tự nguyện của họ đối với tác động ấy [16;32].
Từ điển tâm lý do Nguyễn Khắc Viện chủ biên [36;203] có viết: "Uy
quyền là do thể chế giao cho ít nhiêu quyền lực để thực hiện mục tiêu…Khi
uy quyền đƣợc ngƣời khác chấp nhận thì hoà nhập với uy tín; nếu áp đặt thì
uy quyền đó có thể gây ra phản ứng hung hăng, rối loạn".

Qua các định nghĩa trên về uy quyền, chúng tôi nhận thấy có một đặc
trưng của uy quyền là: những sức mạnh quyền lực gắn với sự cưỡng bức và
phục tùng.
Từ góc độ nghiên cứu của đề tài, xuất phát từ việc tiếp cận khái niệm
uy quyền ở góc độ Tâm lý học, chúng tôi tán thành với định nghĩa về uy
quyền do tác giả Lê Tiến Hùng (1993) đƣa ra [15;32]
"Uy quyền là một hiện tƣợng xã hội, nó đƣợc tạo thành bởi những
sức mạnh của cá nhân, nhóm xã hội hay tổ chức xã hội hoặc đƣợc tạo thành

19
bởi các quyền hành có tính chất pháp quy do thể chế trao cho cá nhân,
nhóm hay tập thể ngƣời nhằm tạo ra những ảnh hƣởng buộc phía đối tác
phải phục tùng chủ thể".

2.1.3.2 Uy quyền của người cha

Khác với khái niệm quyền uy trong quản lý xã hội - ngƣời chỉ huy xã
hội đƣợc giao cho một số quyền lực để điều hành công việc khiến cho dù
muốn hay không, kẻ dƣới quyền vẫn phải phục tùng - uy quyền của cha mẹ
đƣợc tạo thành bởi sự hoà nhập giữa nghĩa vụ và quyền sinh đẻ nuôi dạy con
cái, công lao của cha mẹ đối với con trẻ, tình cảm yêu thƣơng, sự xả thân, sự
hy sinh đƣợc tạo nên trên cơ sở quan hệ huyết thống - đó là sức mạnh cơ bản
nhất tạo nên uy quyền của ngƣời cha, ngƣời mẹ đối với con cái. Tính chất thứ
bậc giữa cha mẹ và con cái trong gia đình đƣợc pháp luật thừa nhận và ủng
hộ. Vì thế, uy quyền của cha mẹ gần nhƣ là một hiện tƣợng tất nhiên và mỗi
cha mẹ khi sinh con ra ít nhiều đã có thứ uy quyền này.
Tính chất uy quyền của cha mẹ bị quy định bởi mối quan hệ của cha
mẹ với con cái. Do đó, nó cũng có những đặc trƣng riêng. Trƣớc đây,
ngƣời ta cho rằng uy quyền của ngƣời cha là ý muốn của chúa trời và tôn
kính cha mẹ là lời răn của chúa.
A.X Macarenco cho rằng: cha mẹ phải chịu trách nhiệm về gia đình
của mình trƣớc xã hội và trƣớc pháp luật. Vì vậy, họ phải có một quyền hạn
lớn và nhiều quyền uy trong gia đình… [20;9]. Đồng thời ông cũng cho
rằng: "Uy quyền thực sự phải dựa trên cơ sở hoạt động công dân và tình
cảm công dân của bố mẹ, trên sự hiểu biết của bố mẹ về đời sống của con,
sự giúp đỡ của bố mẹ đối với con và trách nhiệm của bố mẹ trong việc giáo
dục con" [20; 33].
Đồng tình với những quan điểm nêu trên, chúng tôi đƣa ra định
nghĩa uy quyền người cha (UQNC) nhƣ sau: "UQNC là một loại uy quyền
đặc biệt. Nó được hình thành chủ yếu bởi trách nhiệm và tình yêu thương
của người cha đối với con cái. Uy quyền này được pháp luật thừa nhận và

×