ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
MỘT SỐ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH CỦA CỘNG TÁC VIÊN DÂN SỐ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyờn ngành Tõm lý học
Mó số: 60.31.80
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN NGỌC PHÚ
Hà Nội 2007
Mục lục
PHN Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài 6
2. Mục đích nghiên cứu 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Gii hn phm vi nghiờn cu 7
5. Đối t-ợng nghiên cứu 8
6. Khách thể nghiên cứu 8
7. Ga thuyết nghiên cứu 8
8. Ph-ơng pháp nghiên cứu 8
Ch-ơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 10
1.1.1 Nghiờn cu giao tip v k nng giao tip cỏc nc phng Tõy 10
1.1.2 Nghiờn cu giao tip, k nng giao tip Liờn Xụ (trc õy) 13
1.1.3 Nghiờn cu giao tip v k nng giao tip Vit Nam 15
1.2 Một số khái niệm cơ bản 20
1.2.1 Khái niệm giao tiếp 20
1.2.2 Khái niệm kỹ năng 29
1.2.3 Khái niệm kỹ năng giao tiếp 34
1.2.4 Công tác vận động KHHGĐ 36
1.2.5 Cng tác viên dân số 39
1.2.6 Kỹ năng giao tiếp trong cụng tỏc vận động ngi dõn thc hin
KHHGĐ 41
1.3 Đặc điểm tâm lý của ng-ời dân ch-a mun thực hiện KHHGĐ 42
1.4 Phẩm chất c trng của CTVDS 44
1.5 Cỏc nhúm kỹ năng giao tiếp trong công tác vận động KHHGĐ của
CTVDS
45
1.5.1 Nhóm kỹ năng định h-ớng giao tip trong công tác vận động KHHGĐ 45
1.5.2 Nhóm kỹ năng định vị giao tip trong cụng tỏc vận động KHHGĐ 46
1.5.3 Nhóm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp trong cụng tỏc vận động
KHHGĐ 48
1.6 Những giai đoạn của quá trình giao tiếp và những biểu hiện của kỹ năng
giao tip trong vận động KHHG 50
Ch-ơng 2: T chc nghiờn cu
2.1 Vi nột v khỏch th nghiờn cu 53
2.2 Các ph-ơng pháp nghiên cứu đ-ợc sử dụng trong đề tài 54
2.2.1 Ph-ơng pháp nghiên cứu tài liệu 54
2.2.2 Ph-ơng pháp nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi 54
2.2.3 Ph-ơng pháp phỏng vấn sâu 57
2.2.4 Ph-ơng pháp quan sát 57
2.2.5 Ph-ơng pháp thống kê toán học 58
2.3. T chc quỏ trỡnh nghiờn cu 58
Ch-ơng 3: Phân tích kết quả nghiên cứu
3.1 Kết quả khảo sát xác định các kỹ năng giao tiếp 60
3.2 Kết quả khảo sát nhúm kỹ năng định h-ớng giao tiếp trong công tác
vận động KHHGĐ 64
3.2.1 Kt qu kho sỏt k nng nh hng ni dung vn ng i tng 64
3.2.2 Kt qu kho sỏt k nng nh hng cỏch thc vn ng i tng 72
3.3 Kết quả khảo sát nhúm kỹ năng định vị giao tiếp trong công tác
vận động KHHGĐ 77
3.3.1 Kt qu kho sỏt k nng tỡm hiu c im tõm lý ca i tng 77
3.3.2 Kt qu kho sỏt k nng t mỡnh vo i tng ng cm cựng i
tng
84
3.4 Kết quả khảo sát nhúm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp
trong
công tác vận động KHHGĐ 93
3.4.1Kt qu kho sỏt k nng thit lp mi quan h gia CTVDS v i
tng 93
3.4.2 Kt qu kho sỏt k nng dn dt i tng . 100
3.4.3 Kt qu kho sỏt k nng vn ng thuyt phc i tng . 106
3.4.4 Kt qu kho sỏt k nng nhy cm x lý nhanh hp lý cỏc tỡnh hung
trong giao tip . 108
3.4.5 Kt qu kho sỏt k nng t iu khin ca ch th giao tip
116
3.5 Tổng hợp so sánh các kỹ năng đ-ợc khảo sát . 124
3.6 Kết quả khảo sát một số phẩm chất nhân cách của CTVDS . 126
Kết luận và kiến nghị . 129
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
VIẾT TẮT
NGHĨA ĐẦY ĐỦ
CTVDS
CBCT
KHHGĐ
ĐTB
THPT
THCS
Cộng tỏc viờn dõn số
Cỏn bộ chuyờn trỏch
Kế hoạch hoá gia đỡnh
Điểm trung bỡnh
Trung học phổ thụng
Trung học cơ sở
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam tỷ lệ sinh cao gây áp
lực lớn đến kinh tế - xã hội nên hầu hết những nước này đã thiết kế chính
sách DSKHHGĐ nhằm hạn chế gia tăng dân số.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề gia tăng dân số, ngay từ
năm 1961 жng vµ Nhµ n-íc ta đã đề ra chủ chương vận động sinh đẻ có kế
hoạch và hàng loạt các nghị quyết, nghị định và chỉ thị trong những năm tiếp
đó nhằm giảm tốc độ tăng dân số. “Tháng 1 năm 1993 hội nghị lần thứ tư
ban chấp hành trung ương đảng khoá VII đã ban hành nghị quyết về chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giải quyết cơ bản vấn đề dân số
tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta” [28]. Trên thực tế Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến chính sách DSKHHGĐ bởi các chính sách này đã tác
động rất lớn đến sự phát triển kinh tế và xã hội cũng như việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của toàn dân. Để đưa chính sách DSKHHGĐ vào cuộc
sống, có rất nhiều hình thức truyền thông khác nhau như báo viết, báo nói,
báo hình, pano áp phích, phát tờ rơi, mít tinh, hội thảo, họp nhóm, sinh hoạt
câu lạc bộ … những hình thức trên chủ yếu nhằm tuyên truyền, tác dụng
nhiều trong việc thay đổi nhận thức của người dân. Ngoài ra, có một hình
thức nữa đó là đến tận nhà để tuyên truyền, giải thích, thuyết phục không
những làm thay đổi nhận thức mà còn thay đổi hành vi của người dân. Có
một số người dân không hiểu hoặc hiểu sai hoặc cố tình không hiểu về chính
sách DSKHHGĐ. Bởi vậy cần phải đến tận nhà để vận động người dân nhất
là những người dân còn nặng các tập quán cổ hủ thích có con trai, thích có
nhiều con, thích có nếp có tẻ,….
lm cụng vic ny, U ban dõn s gia ỡnh v tr em cú mt i
ng cng tỏc viờn, nhng ngi luụn i sõu, i sỏt vo qun chỳng nhõn dõn.
Cng tỏc viờn dõn s KHHG cỏc a phng cú mt v trớ rt quan trng.
Nhng ngi ny khụng ch l ngi cú hiu bit k v chớnh sỏch
DSKHHG m cũn cn cú nhng hiu bit tõm lý cn thit, c bit l cn
cú nhng k nng giao tip trong vn ng ngi dõn thc hin KHHG, k
nng ny nh th no, ni dung v cỏc ũi hi c th ca chỳng l iu rt
cn c lm sỏng t. Cho n nay cỏc ti thuc lnh vc ny cũn l mt
mng trng vng.
Vỡ mc ớch nghiờn cu lm rừ k nng giao tip trong cụng tỏc vn
ng KHHG ca CTVDS cựng thc trng vic s dng cỏc k nng ny
nhm rỳt ra cỏc vn hu ớch cho vic thc hin tt nht cỏc ũi hi ca
ng v Nh nc v cụng tỏc vn ng KHHG, chỳng tụi ó la chn
ti: Mt s k nng giao tip trong cụng tỏc vn ng k hoch hoỏ gia
ỡnh ca cng tỏc viờn dõn s.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số kỹ năng giao tiếp cơ bản của CTVDS trong công tác
vận động KHHGĐ, chỉ ra thực trạng thực hiện các kỹ năng này trong vận
động KHHGĐ của CTVDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao chất l-ợng công tác KHHGĐ theo đúng chủ tr-ơng chính
sách của Đảng và Nhà n-ớc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu đã nêu trên, đề tài tập trung giải
quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
3.1 Hệ thống hoá những vấn đề lý luận có liên quan đến kỹ năng giao
tiếp khỏi quỏt mt s kỹ năng giao tiếp c bn trong vận động đối t-ợng
thực hiện KHHGĐ của CTVDS.
3.2 Lm rừ thực trạng của việc thực hiện các kỹ năng này trong công
tác vận động KHHGĐ của CTVDS một địa ph-ơng trong diện nghiên cứu.
3.3 Trên cơ sở đó đ-a ra những kết luận và kiến nghị cn thit nhằm
bồi d-ỡng kỹ năng giao tiếp cho CTVDS trong công tác vận động KHHGĐ,
to iu kin cho vic, thực hiện tốt chủ tr-ơng, chính sách của Đảng và
Nhà n-ớc trên lĩnh vực này.
4. Gii hn phm vi nghiờn cu:
ti c gii hn trong phm vi ca mt tnh. ú l tnh Thỏi
Bỡnh.
5. Đối t-ợng nghiên cứu
Kỹ năng giao tiếp. Đề tài đi vào làm rõ kỹ năng giao tiếp trong công
tác vận động ng-ời dân thực hiện KHHGĐ.
6. Khách thể nghiên cứu
+ Cộng tác viên dân số: 180 ng-ời
+ Cán bộ chuyên trách : 60 ng-ời
+ Ng-ời dân: 100 ng-ời
+ Địa điểm: T nh Thái Bình
+ Thời gian: 8/2005 đến 11/2007
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Kỹ năng giao tiếp trong công tác vận động KHHGĐ ca cỏc CTVDS
l mt h thng cỏc k nng liờn quan n nhúm k nng ng hng, nh
v, iu khin vn ng thc hin KHHG. Nhỡn chung cỏc k nng ny chỉ
t ở mức độ trung bình v cũn bc l nhiu khim khuyt . Các kỹ năng
giao tiếp đó kết hợp ch-a đ-ợc nhuần nhuyễn và đồng bộ nên hiệu quả vn
ng ngi dõn thc hin KHHG ch-a cao
8. Ph-ơng pháp nghiên cứu:
8.1 Ph-ơng pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu này dựa trên cơ sở ph-ơng pháp luận cơ bản của tâm lý
học Macxit ly ch ngha duy vt biờn chng v ch ngha duy vt lch s
lm nn tng, xem xột con ng-ời v tõm lý con ngi l sn phm ca iu
kin xó hi - lch s c th; xem xột k nng hnh vi núi chung, k nng
giao tip ca con ngi núi riờng l sn phm ca hot ng ca chớnh con
ngi.
8.2 Các ph-ơng pháp nghiên cứu cụ thể:
8.2.1. Phng phỏp nghiờn cu ti liu:
Chỳng tụi tỡm hiu, phõn tớch cỏc ti liu nghiờn cu lý lun v k
nng giao tip trong vn ng KHHG, v ch trng chớnh sỏch ca ng
liờn quan n vn dõn s k hoch hoỏ gia ỡnh. Da trờn kt qu nghiờn
cu ny chỳng tụi ó xõy dng bng hi tp trung vo trng tõm vn
nghiờn cu.
8.2.2 Phng phỏp iu tra bng bng hi:
L phng phỏp nghiờn cu bng cỏch s dng bng hi ó c thit
k t trc nhm thu thp ý kin ch quan ca s ụng ngi v mt vn
hay mt hin tng no ú v yờu cu mt s ụng ú la chn phng ỏn
tr li phự hp nht vi quan im ca h bng cỏch ỏnh du (X) bờn
cnh, hoc a ra ý kin ch quan ca bn thõn mỡnh cho vn hoc hin
tng ó c a ra.
Vi phng phỏp ny chỳng tụi ó xõy dng mt b cỏc cõu hi
nhm mc ớch t nhng cõu tr li thu nhp thụng tin v k nng giao
tip ca cng tỏc viờn dõn s trong vn ng KHHG
8.2.3 Phng phỏp quan sỏt:
Thc hnh cỏc quan sỏt v ngi dõn cú cỏc hon cnh ộo le khỏc
nhau trong thc hin KHHG; quan sỏt cụng vic thng ngy ca cỏc
CTVDS…, đặc biệt trong các tiếp xúc của CTVDS với người dân… trên cơ
sở đó thu thập các số liệu, luận cứ cần thiết.
8.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với CTVDS và CBCT
nhằm thăm dò ý kiến của khách thể bằng cách trao đổi trực tiếp giữa người
phỏng vấn và khách thể nhằm nghiên cứu sâu hơn các kỹ năng giao tiếp của
cộng tác viên, cắt nghĩa nguyên nhân thành công cũng như thất bại của các
trường hợp cụ thể.
8.2.5. Phương pháp phân tích số liệu thống kê;
Số liệu điều tra được xử lý bởi chương trình thống kê SPSS dùng cho
mọi trường hợp Windows phiên bản 15.0
Phân tích sử dụng thống kê suy luận
Phân tích đơn chiều:
Phân tích đơn chiều giúp chúng ta khai thác một cách chung nhất các
số liệu thu thập như: Sự phân bố các số liệu, tần số xuất hiện, giá trị trung
bình, độ lệch chuẩn …
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1 Nghiên cứu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp ở các nƣớc phƣơng tây:
Giao tiếp là vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu trong khoa học nói
chung và tâm lý học nói riêng.
-Trên bình diện triết học, từ thời cổ đại,nhà triết học Socrate(470-399)
đã coi đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ giữa
con người với con người. Đây là tư tưởng đầu tiên, đơn giản về giao tiếp .
Giữa thế kỷ XIX, Các Mác (1818-1883) đã luôn nhấn mạnh mối quan
hệ giữa con người với con người và coi giao tiếp như một nhu cầu của xã
hội. Ông cho rằng trong hoạt động và tiêu dùng, con người phải giao tiếp với
nhau.
Các nhà triết học hiện sinh Pháp chỉ ra vai trò của giao tiếp đối với sự
tồn tại và phát triển của nhân cách con người. J.Macsen ( 1869-1973),
J.P.Sactơrơ ( 1905-1961 ) và Maniê ( 1905-1950 ) đã cùng nghiên cứu về
giao tiếp và Maniê viết: “ Tôi chỉ tồn tại chừng nào tôi tồn tại cho người
khác” [dẫn theo 13, trang 6]
Cac Giatxpe (1883-1969 ) nhà triết học, nhà tâm lý học Đức đã đề ra
lí thuyết giao tiếp hiện sinh. Ông cho rằng hằng ngày con người cần phải
giao tiếp với nhau một cách sống động, liên tục qua các cuộc tranh luận về
các vấn đề xã hội, đó là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Trong giao
tiếp hiện sinh mọi giá trị gắn bó với nhau nhưng mỗi người vẫn giữ cá tính
riêng. [ dẫn theo 24]
Như vậy, ngay từ thời cổ đại và đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX, các nhà
triết học đã quan tâm nghiên cứu hiện tượng giao tiếp. Nhìn chung, các tác
giả đều đánh giá giao tiếp như một nhu cầu xã hội tất yếu của con người và
có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển của cá nhân
cũng như của xã hội. Tư tưởng này đã trở thành phương pháp luận cho
những nghiên cứu về con người và xã hội.
-Vào giữa thế kỷ XX: “ Điều khiển học”, một khoa học mới ra đời,
mở đầu bằng một số tác phẩm của N.Vina, nhà bác học Mĩ viết cuốn “Lí
thuyết toán học của quá trình thông tin”. Năm 1950, thuyết hệ thống ra đời
với công trình: “ Phác hoạ lý thuyết chung về hệ thống”, phát hiện ra rằng
các thành tố trong tổ hợp các quan hệ qua lại với nhau, về bản chất các mối
quan hệ này không phải là ngẫu nhiên . Từ đây việc nghiên cứu giao tiếp
chịu ảnh hưởng nhiều của điều khiển học, lí thuyết thông tin và lí thuyết hệ
thống. Các tác giả này coi giao tiếp là một tổ hợp hành vi, là một quá trình
xã hội diễn ra giữa người và người bằng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ( cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt…)
-Vào những năm đầu của thể kỷ XX, khoa học tâm lý đã bắt đầu chú ý
nghiên cứu giao tiếp. Bác sỹ tâm thần người Aó S.Freud (1856-1939) đã
nghiên cứu mối quan hệ giữa giao tiếp và giấc mơ, ông chú ý đến các yếu tố
“ chuyển giao”, “ngoại xuất” và “ đồng nhất” trong giao tiếp. Khi giao tiếp,
có người phát tín hiệu, có người nhận thông tin và cả hai bên đều muốn tìm
hiểu nhau và có tác động lên nhau.
-Các nhà tâm lý học Gestalt quan tâm đến hiện tượng giao tiếp như
một cấu trúc trọn vẹn, họ đã phân tích giao tiếp thành các yếu tố và đặt
chúng trong một hệ thống các yếu tố rộng hơn các quan hệ xã hội.
- Bateson (Pháp), khi nghiên cứu các yếu tố của giao tiếp đã phân biệt
hai phương thức giao tiếp là giao tiếp đối xứng và giao tiếp bổ sung. Theo
ông, mọi giao tiếp được biểu hiện ra ở một trong những phương thức ấy, nó
có tính hệ thống khi thiết lập được sự bình đẳng hay sự tương hỗ, nó có tính
bổ sung khi thể hiện sự khác nhau.
Trong tâm lý học Mỹ đã xuất hiện nhiều tác giả nghiên cứu về nghệ
thuật giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong quản lý, trong lĩnh vực kinh doanh.
Cụ thể :
-Allan.Pease đã xuất bản cuốn sách “Ngôn ngữ và cử chỉ”. Ông đã đi
sâu phân tích kỹ năng phát hiện các trạng thái tâm lý thông qua những động
tác, cử chỉ, điệu bộ, tư thế con người trong giao tiếp. Theo ông, giao tiếp
không bằng lời là quá trình tác động phức tạp của con người và những động
tác, cử chỉ, nét mặt….có một ý nghĩa nhất định. Mặc dù, có sự khác biệt về
văn hoá, nhưng trên một ý nghĩa nhất định, những cử chỉ, động tác ở những
con người khác nhau phần lớn đều có ý nghĩa chung. Khi vui con người mỉm
cười, khi buồn thì chau mày, khi giận dữ có cái nhìn bực tức ….[29,trang14]
. Cuốn sách được làm giáo trình giảng dạy cho nhân viên thương mại, kinh
doanh, các nhà lãnh đạo, quản lý…
- Derak Torrington đã nghiên cứu giao tiếp trong quản lý và kinh
doanh. Trong cuốn “Tiếp xúc mặt đối mặt trong quản lý” của mình, ông đã
phân tích các hình thức tiếp xúc thường gặp giữa người quản lý và người bị
quản lý, từ đó người quản lý cần có kỹ năng giao tiếp với người dưới quyền.
Theo ông, có 3 tình huống tác động giữa người quản lý và đối tượng. Đó là,
tìm hiểu phát hiện, truyền đạt và cùng nhau giải quyết vấn đề. Ông cũng nêu
lên một số kỹ năng giao tiếp của người quản lý: kỹ năng nghe, kỹ năng hỏi
và gợi vấn đề, kỹ năng truyền đạt. Ông đi nghiên cứu đặc điểm của giao tiếp
điều tra phỏng vấn: “ Giao tiếp điều tra có đặc điểm nổi bật có tính chất
nhanh gọn và giấu tên. Hai người lạ mặt gặp nhau, một người nêu câu hỏi
cho người kia và rồi họ sẽ chia tay nhau”
Giao tiếp điều tra có thể được chia thành các giai đoạn: Giai đoạn đầu:
Tự giới thiệu là phải làm sao để thu hút được sự chú ý của người bị phỏng
vấn mà lúc đầu có thể do dự, đồng thời phải làm mờ mình đi để đảm bảo
tính vô danh của cuộc tiếp xúc đòi hỏi giai đoạn trình bày phải cung cấp một
số thông tin để người bị phỏng vấn nhập cuộc.
Mục đích cuộc điều tra dự định đạt được cái gì và bằng biện pháp như
thế nào. Tại sao người đó được lựa chọn để phỏng vấn.
Cuộc điều tra được giữ kín, cần giải thích rõ tính khuyết danh của các dữ
liệu.
Người được phỏng vấn là người tự nguyện. Những người bị phỏng
vấn có cơ hội từ chối dù người phỏng vấn có thuyết phục họ hợp
tác.[34,trang119]
-Dale Carnegie đã trình bày những nghệ thuật, bí quyết trong quan hệ
giao tiếp giữa con người với con người trong cuốn “ Đắc nhân tâm”. Theo
ông, để thu hút được đối tượng giao tiếp, con người có nghệ thuật và kỹ
năng giao tiếp nhất định. Ông đã đưa ra 6 cách gây thiện cảm trong giao
tiếp: Thành thật chú ý đến người khác; giữ nụ cười trên môi; cố gắng biết tên
đối tượng và xưng tên họ khi tiếp xúc; biết chăm chú lắng nghe, khuyến
khích đối tượng nói chuyện về họ; nói với người ấy về những gì thuộc về sở
thích, hoài bão của họ; thành thật làm cho họ thấy sự quan trọng của họ
[9,trang 98]
Từ những công trình nghiên cứu mà chúng tôi tiếp cận được, chúng
tôi cho rằng: Các nghiên cứu về giao tiếp ở các nước phương tây ngày càng
phát triển theo hướng ứng dụng vào các lĩnh vực hoạt động cụ thể như giao
tiếp trong kinh doanh, trong quản lý, trong tiếp xúc xã hội hàng ngày…
Những nghiên cứu như vậy có ý nghĩa thực tiễn. Song, nghiên cứu sâu về kỹ
năng giao tiếp, đặc biệt kỹ năng giao tiếp trong hoạt động chính trị xã hội ít
được các tác giả quan tâm.
1.1.2 Nghiên cứu giao tiếp, kỹ năng giao tiếp ở Liên Xô (trƣớc đây)
Ở Liên Xô, vào nửa sau của thế kỷ XX, đó xuất hiện một loạt công
trình nghiên cứu về giao tiếp. Có thể quy vào 2 hướng chính:
Hướng thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề chung về giao tiếp như:
bản chất, cấu trúc giao tiếp, cơ chế giao tiếp, mối quan hệ giữa giao tiếp và
hoạt động…Vào thời gian này đã có một số công trình nghiên cứu giao tíêp
được xuất bản; có thể kể ra một số công trình sau: “ Tâm lý học về các mối
quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ” (1976) của I.L Kolominxki, “Tâm lý học
giao tiếp” (1978) của A.A Leonchiev, “Giao tiếp trong tâm lý học” (1981)
của K.K Platonov và “Phạm trù giao tiếp và hoạt động trong tâm lý học” của
B.Ph.Lomov…
Cần phải kể đến các bài báo cáo về cuộc tranh luận phạm trù giao tiếp
và phạm trù hoạt động của B.Ph.Lomov và A.A Leonchiev đăng trên tạp chí
triết học Liên Xô (1979 ).
Quan điểm thứ 1: A.A Leonchiev cho rằng giao tiếp có thể là một
dạng hoạt động, hoặc có thể là một phương thức, điều kiện của hoạt động.
Quan điểm thứ 2: B.Ph.Lomov cho rằng hoạt động và giao lưu được
xem như những khía cạnh tương đối độc lập của quá trình thống nhất của
đời sống con người. Phạm trù “hoạt động” phản ánh mối quan hệ chủ thể –
khách thể, còn phạm trù “ giao tiếp” phản ánh mối quan hệ chủ thể – chủ
thể, hai phạm trù này độc lập với nhau.
- Sau này, Đ.B.Enconhin đã phân tích mối quan hệ của chủ thể – khách thể
và chủ thể – chủ thể trong đời sống trẻ em, ông cho rằng hai nhóm này thống
nhất thể hiện trong hoạt động của trẻ. Ông viết: có hoạt động của trẻ trong hệ
thống trẻ em - đồ vật xã hội và hệ thống trẻ em – người lớn xã hội là quá
trình thống nhất trong đó nhân cách của nó được hình thành.
Trong cuộc sống, hoạt động và giao tiếp quan hệ khăng khít với nhau.
Từ đó dẫn đến tư tưởng cho rằng giao tiếp là một dạng của hoạt động, giao
tiếp là một mặt của hoạt động cùng nhau.
Hướng thứ hai, nghiên cứu các dạng giao tiếp nghề nghiệp (chủ yếu
là giao tiếp sư phạm) giao tiếp sư phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp thu
hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu, trong lĩnh vực này đã
xuất hiện một loạt công trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn.
A.A Leonchiev “ giao tiếp sư phạm” (1979); A.V Petropxki “Tâm lý học lứa
tuổi và tâm lý học sư phạm”; V.A Krutetxki “Những cơ sở của tâm lý học sư
phạm” (1980); Ph.N. Gonobolin “Những phẩm chất tâm lý người giáo
viên”….
V.A.Cancalich đã đưa ra cấu trúc của giao tiếp sư phạm gồm bốn
thành phần: nhận thức (nhà giáo dục xây dựng mô hình giao tiếp với nhóm,
lớp học sinh trong quá trình chuẩn bị hoạt động), tổ chức (nhà giáo dục phải
tổ chức gặp trực tiếp ngay từ lúc đầu tiên tác động đến học sinh), định hướng
giao tiếp trong quá trình hoạt động và điều khiển giao tiếp trong quá trình
hoạt động.
Trên cơ sở phân tích cấu trúc của giao tiếp sư phạm, ông chia thành
năm giai đoạn, bao gồm: giai đoạn định hướng đầu tiên, giai đoạn định
hướng chung, giai đoạn “ thăm dò tâm hồn đối tượng”, giai đoạn thu hút sự
chú ý của học sinh và giai đoạn cuối cùng là giao tiếp ngôn ngữ, lời nói, bài
giảng, tạo sự chú ý của học sinh.
Theo V.A.Cancalich: mỗi giai đoạn có những kỹ năng giao tiếp nhất
định và ông đã đưa ra một hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng giao tiếp sư
phạm, luyện kỹ năng hành động một cách có tổ chức triệt để ở nơi công
cộng, luyện kỹ năng tạo bầu không khí xúc cảm thích hợp ở trong lớp, luyện
kỹ năng đối thoại ngắn, thay đổi điệu bộ, giọng nói ….
A.A Leonchiev đã liệt kê một số kỹ năng giao tiếp sư phạm như: kỹ
năng điều khiển hành vi bản thân, kỹ năng quan sát (phẩm chất chú ý linh
hoạt), kỹ năng nhạy cảm xã hội, biết phán đoán nét mặt người khác, kỹ năng
đọc, hiểu, mô hình hóa nhân cách học sinh, kỹ năng làm gương cho học sinh
noi theo, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc, kỹ năng
nhận thức (thu nhận, hệ thống hoá và truyền đạt thông tin).
- I.P.Dakharov đã đề xuất trắc nghiệm nghiên cứu các kỹ năng giao
tiếp. Nội dung trắc nghiệm nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp sau: kỹ năng
tiếp xúc, thiết lập mối quan hệ lẫn nhau trong giao tiếp; kỹ năng biết cân
bằng nhu cầu của cá nhân với đối tượng giao tiếp; kỹ năng biết nghe và biết
lắng nghe; kỹ năng tự kiềm chế và kiểm tra người khác; kỹ năng tự chủ cảm
xúc, hành vi; kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, mạch lạc; kỹ năng mềm
dẻo linh hoạt trong giao tiếp; kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp; kỹ
năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp và kỹ năng nhạy cảm trong
giao tiếp.
Trên cơ sở những nghiên cứu đó đạt được, có thể kết luận: Các nhà
tâm lý học Xô Viết đã có đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu giao
tiếp và kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp sư phạm. Với những nghiên
cứu về công tác chính trị xã hội có tác giả đề cập đến song chưa sâu. Tựu
chung lại, các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Xô Viết đã có
công rất lớn đối với nền tâm lý học Thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về giao tiếp và kỹ năng giao
tiếp trong tâm lý học ở các nước trên thế giới chủ yếu đi sâu vào những vấn
đề sau:
- Nêu ra bản chất, chức năng và cấu trúc của giao tiếp
- Khẳng định vai trò của giao tiếp trong đời sống xã hội và đặc biệt
trong sự hình thành và phát triển tâm lý con người
- Đề xuất một hệ thống kỹ năng giao tiếp trong các hoạt động như
quản lý, kinh doanh.
Còn một loạt những vấn đề của giao tiếp trong nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau của con người như ngoại giao, chính trị xã hội, vận động
quần chúng… vẫn chưa được các tác giả quan tâm nghiên cứu.
1.1.3 Nghiên cứu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về giao tiếp và kỹ năng
giao tiếp:
- Lí luận về giao tiếp :
Có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề giao tiếp thể hiện qua
cỏc bài bỏo như: “ Các Mác và phạm trù giao tiếp” (1963) của Đỗ Long, “
Bàn về phạm trù giao tiếp” (1981) của Bùi Văn Huệ, “ Giao tiếp, tâm lý,
nhân cách” (1981), “Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ” (1981) của
Trần Trọng Thuỷ… chủ yếu các tác giả đã chú ý phân tích các khía cạnh
khác nhau của phạm trù giao tiếp như bản chất của giao tiếp, vai trò, vị trí
của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách. Một số cuốn sách về giao tiếp
như “ Nhập môn khoa học giao tiếp” Nguyễn Văn Lê đã đề cập đến một số
vấn đề lý luận về giao tiếp, các chỉ dẫn về quy tắc giao tiếp xã hội, giao tiếp
sư phạm, giao tiếp trong cộng đồng, trong gia đình, trong bán hàng và trong
kinh doanh khách sạn du lịch [23] ; “ Một số vấn đề về giao tiếp” của
Nguyễn Tiến Trọng đề cập đến vấn đề giao tiếp trong xã hội, hình thức giao
tiếp ngoại giao giữa các nhà nước…[39]; “ Giao tiếp trong kinh doanh” của
Vũ Thị Phượng và Dương Quang Huy trình bày những kỹ năng và phương
pháp cơ bản để giao tiếp trong kinh doanh đạt hiệu quả [31].
Hiện nay giao tiếp đang là một chương trình quan trọng trong các
giáo trình tâm lý học của nhiều trường cao đẳng, đại học. Mai Thanh Thế:
“Giáo trình tâm lý học xã hôi- những vấn đề lí luận” tác giả đã đề cập đến
khái niệm chức năng và tác động qua lại của con người trong giao tiếp [35,
trang 94] và của Trần Hiệp (chủ biên) về cuốn “Giáo trình tâm lý học xã
hội- những vấn đề lý luận” [17] ; “ Nhập môn khoa học giao tiếp” tập bài
giảng dùng cho sinh viên hệ cao đẳng chuyên ngành công tác xã hội của Bùi
Thị Xuân Mai (2001) [26]; “Giáo trình giao tiếp ứng xử và kỹ năng bán
hàng” dùng cho các trường chuyên ngành bưu điện [12] .Trong thời gian gần
đây khoa tâm lý giáo dục trường Đại học sư phạm 1 Hà Nội là nơi có nhiều
công trình nghiên cứu về giao tiếp sư phạm như “ Đặc điểm giao tiếp sư
phạm” của Trần Trọng Thuỷ, “Giao tiếp và ứng xử sư phạm” của Ngô
Công Hoàn (1992), và “ Giao tiếp sư phạm” của Hoàng Anh và Vũ Kim
Thanh (1997) nói đến tri thức cơ bản về giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp
sư phạm, đặc điểm nhu cầu giao tiếp của học sinh bậc trung học [3] ; “Giao
tiếp sư phạm” của Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh (1999) nói đến vấn đề
chung về giao tiếp sư phạm, khái niệm, quá trỡnh, phương tiện, nguyên tắc,
phong cách, kỹ năng thực hành về giao tiếp sư phạm [19].
Gần đây đã có rất nhiều luận văn thạc sĩ, luận ỏn tiến sĩ viết về giao
tiếp và giao tiếp sư phạm, như: “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo
trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1994) của Lê Xuân Hồng; “ Những
khó khăn tâm lý trong giao tiếp sư phạm” của Nguyễn Thanh Bình (1997); “
Đặc điểm giao tiếp của người cảnh sát khu vực” của Hoàng Văn Học (1998);
“Giao tiếp và sự hình thành nhân cách thiếu niên” của Đào Thị Oanh (1999).
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Ánh Tuyết như: “Giáo dục trẻ mẫu giáo
chơi trong nhóm bạn bè” (1987); “Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi
học” (1988) đã khẳng định chơi với bạn bè là nhu cầu bức thiết của trẻ mẫu
giáo. Những công trình của bà đã nêu vai trò quan trọng của giao tiếp đối
với sự phát triển của trẻ trong những năm đầu và suốt cả cuộc đời. Công
trình nghiên cứu của Nguyễn Khắc Viện với cuốn “Phát triển tâm lý trong
những năm đầu” (1989) đó chủ yếu đề cập đến quan hệ gắn bó mẹ con và
những bệnh lý do sự nhiễu loạn trong quan hệ đó … [dẫn theo 27, trang13]
-Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
Bên cạnh những công trình nghiên cứu lí luận chung về giao
tiếp,nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong một số lĩnh
vực hoạt động, nghề nghiệp như giao tiếp trong quản lý, giao tiếp trong kinh
doanh, du lịch, giao tiếp trong ứng xử và kỹ năng giao tiếp sư phạm …
Trần Trọng Thuỷ trong tác phẩm “Tình người, giao tiếp và văn hoá
giao tiếp “(1998) đã phân tích mối quan hệ giữa tình người văn hoá và giao
tiếp mà chỉ ra giao tiếp chính là phương tiện thể hiện tình người, là hình thức
tác động qua lại của con người trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau.
Thông qua giao tiếp, bản chất con người được thể hiện. Thông qua giao tiếp
mà con người thu nhận được những tri thức về thế giới xung quanh, về
người khác, và về bản thân… muốn thiết lập được mối quan hệ bình thường
giữa con người với con người thì cần phải có vốn văn hoá giao tiếp, đó chính
là nét tính cách như tôn trọng người khác, quan tâm, tế nhị và có thiện chí …
tác giả viết: “ Văn hóa giao tiếp có liên quan mật thiết với kỹ năng giao tiếp,
có một số kỹ năng giao tiếp đặc trưng của con người như: kỹ năng chỉnh sửa
các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới làm quen với họ; kỹ
năng bước vào giao tiếp với người khác một cách không cú định kiến.
Những kỹ năng giao tiếp này không có sẵn, mà thông qua học tập và rèn
luyện [38, trang21]
Trịnh Xuân Dũng và Đinh văn Đáng trong cuốn “Kỹ năng giao tiếp”
đó núi về một số vấn đề cơ bản về hoạt động giao tiếp, nghệ thuật giao tiếp
ứng xử và một số nghi thức và tập quán giao tiếp tiêu biểu của các nước trên
thế giới [10]; “Giáo trỡnh kỹ năng giao tiếp” của Chu Văn Đức (chủ biên)
giới thiệu về phong cách giao tiếp trong đời sống xó hội như cấu trúc,
phương tiện và phong cách giao tiếp, các kỹ năng giao tiếp cơ bản trong
những nghề cụ thể như giao tiếp qua điện thoại, thư tín, văn phũng [11]
Tác giả Mai Hữu Khuê (chủ biên) trong cuốn “Kỹ năng giao tiếp
trong hành chính nói về tầm quan trọng của giao tiếp trong công tác hành
chính, nguyên tắc và kỹ năng giao tiếp, nhu cầu giao tiếp có hiệu quả của
người quản lý [20] và trong cuốn “ Những cơ sở khoa học của quản lý kinh
tế” tập 2 (1988) khi phân tích giao tiếp của người lãnh đạo đã phân thành 2
loại: giao tiếp công việc và giao tiếp cá nhân người lãnh đạo cần một số kỹ
năng giao tiếp sau “Kỹ năng hiểu nhu cầu lo lắng của đối tượng, giúp cán bộ
quản lý xác định hành động khi gặp gỡ. Kỹ năng thể hiện sự quan tâm với
cấp dưới. Kỹ năng lắng nghe. Kỹ năng nghiên cứu con người.” [21,trang
98].
Về “ Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên” của Hoàng Thị Anh và
cỏc tỏc giả đã nêu ra ba nhóm kỹ năng giao tiếp sư phạm như sau:
1.Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp: nhận thấy sự thay đổi trạng
thái tâm lý qua nét mặt, ánh mắt; nhận thấy sự thay đổi trạng thái tâm lý qua
lời nói; phán đoán nhanh được ý định của đối phương; biết chuyển từ tri giác
bên ngoài đến xác định tính độc đáo của nhân cách; phán đoán nhanh chóng
thái độ của đối tượng đối với mình.
2. Nhóm kỹ năng điều khiển bản thân (kỹ năng định vị): biết chủ
động đề xuất giao tiếp theo mục đích của mình; biết tự kiềm chế; biết thay
đổi nét mặt khi cần; biết thay đổi giọng nói (nghi ngờ, ra lệnh, tin tưởng …);
biết kết thúc giao tiếp hợp lý
3.Kỹ năng điều khiển đối tượng: Biết hướng hoạt động của học sinh
theo ý mình để đạt mục đích giao tiếp; biết kích thích hứng thú học tập của
học sinh trên lớp; biết kích thích trí sáng tạo của mọi người và biết làm giảm
căng thẳng trong giao tiếp. [ dẫn theo 2, trang 38]
Trong tài liệu huấn luyện cán bộ phụ nữ về giới và kỹ năng lãnh đạo,
tác giả Nguyễn Thị Kỷ đưa ra một số kỹ năng giao tiếp sau: Kỹ năng tiếp
xúc với quần chúng, kỹ năng truyền tin, kỹ năng phản hồi, kỹ năng trình
bày, kỹ năng thuyết phục quần chúng [ dẫn theo13, trang 14]
Từ các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên, chúng tôi có
thể rút ra một số nhận xét sau:
1.Mỗi tác giả khi nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp đều đứng trên
phương diện nghề nghiệp khác nhau để có những cách gọi khác nhau như
phương pháp, kỹ thuật, kỹ năng giao tiếp. Song tựu chung lại, kỹ năng giao
tiếp là hệ thống những thao tác, giúp cho chủ thể tiến hành giao tiếp đạt kết
quả tối ưu trong loại hình giao tiếp nhất định. Kỹ năng giao tiếp là biểu hiện
của năng lực giao tiếp, là điều kiện để đưa giao tiếp đến kết quả.
2.Kỹ năng giao tiếp gắn với từng loại hình giao tiếp cụ thể. Từng loại
hình giao tiếp sẽ có những kỹ năng giao tiếp tương ứng, phù hợp.
3.Kỹ năng giao tiếp phụ thuộc vào mục đích giao tiếp, nội dung giao
tiếp và tính chất của từng cuộc giao tiếp.
4.Có những cách phân loại kỹ năng giao tiếp khác nhau điều đó tuỳ
thuộc vào những căn cứ phân loại.
5.Kỹ năng giao tiếp là những thao tác mà chủ thể tiến hành trong quá
trình giao tiếp. Vì vậy, chúng có thể hình thành, rèn luyện và cũng có thể
kiểm tra đánh giá được.
Tóm lại, trong lĩnh vực lý luận về giao tiếp vẫn còn đang tồn tại
những điểm chưa hoàn toàn thống nhất. Đặc biệt là khi nghiên cứu kỹ năng
giao tiếp trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể, các tác giả đều đưa ra được
một hệ thống những yếu tố hợp thành kỹ năng phù hợp với nghề nghiệp của
mình. Việc không có sự thống nhất về mặt nội dung của kỹ năng giữa các
tác giả là điều dễ hiểu. Riêng về kỹ năng giao tiếp trong vận động KHHGĐ,
cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu riờng được công bố chính thức.
Công trình nghiên cứu về một số kỹ năng giao tiếp trong cụng tỏc vận động
KHHGĐ của cộng tác viên dân số của chúng tôi nhằm làm rừ các loại kỹ
năng này, phân tích thùc tr¹ng, trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị cần thiết
nhằm bồi dưỡng rèn luyện nâng cao hiệu quả công tác cho cỏc cộng tác viên
dân số.
1.2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1 Khái niệm giao tiếp
a. Xác định khái niệm
Ở nước ngoài, khi tìm hiểu, khám phá bản chất giao tiếp, các nhà tâm
lý học nước ngoài đã có nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu núi rừ các hướng sau:
Hướng thứ nhất: Thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp.
- Xu hướng thu hẹp khái niệm giao tiếp chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh
thông tin trong giao tiếp giữa người với người. Chẳng hạn một số các quan
điểm của các tác giả như:
E.E.Ac-gýt- Nhà tâm lý học Mỹ- nói đến sự tác động, sự truyền, sự
tiếp nhận thông báo và sự trao đổi thông tin của con người trong giao tiếp.
Mácgain- Nhà tâm lý học Anh- xem giao tiếp như là quá trình hai mặt
của sự thông báo- đó là quá trình thiết lập sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
Georgen Thines (1975) cho rằng giao tiếp là sự truyền đạt thông tin,
qua các trạng thái của hệ thống phát thông tin phát huy ảnh hưởng đến trạng
thái của hệ thống nhận thông tin.
J.P.Gruere (1982) nêu lên một định nghĩa có tính chất vật lý, xác định
sự giao tiếp là một quá trình chuẩn, trong đó một thông điệp được truyền tải
từ một bộ phát tới một bộ thu thông qua một chuỗi các yếu tố được gọi là
nguồn, kênh, địa chỉ.
Hai định nghĩa của Georgen Thines và J.P.Gruere chỉ nhấn mạnh đến
khâu truyền thông tin mà không tính đến vai trò chủ thể của người nhận
thông tin.
Laswell lại xác định: giao tiếp theo định nghĩa hẹp là truyền đi một
thông điệp nhưng nay phải được hiểu là sự làm cho hai người cũng chấp
nhận một cái gì là chung nhờ một quá trình hai chiều. Như vậy, định nghĩa
này đã quan tâm đến tính hai chiều trong quá trình giao tiếp, một thực tế
hiển nhiên của giao tiếp. Nhưng trong thực tế giao tiếp không phải lúc nào
con người cũng đi đến một sự thống nhất, một sự chấp nhận một cái gì
chung mà có thể mâu thuẫn với nhau không đi đến chấp nhận một cái gì
chung.
T.Chúc côn – một nhà tâm lý học Mỹ – xem giao tiếp như một sự tác
động qua lại trực tiếp lên nhân cách và dẫn đến việc hình thành những ý
nghĩ, biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động.
T.Steexen – một nhà tâm lý học Pháp xem giao tiếp là sự trao đổi
những ý nghĩ, tình cảm giữa con người với con người.
Những tác giả trên mới dừng lại ở sự mô tả bề ngoài của hiện tượng
giao tiếp.
Các tác giả P.Oathanit, G.Bivanh, D.Giăcsơn (Pháp) nhấn mạnh khía
cạnh hành động, hành vi của giao tiếp coi giao tiếp là một tổ hợp hành vi,
quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi ngôn ngữ, hành vi điệu bộ, hành vi
cử chỉ.
Trong tâm lý học Xô viết có một thời gian khá dài, khái niệm giao
tiếp bị thu hẹp lại, chẳng hạn như:
L.X.Vưgôtxki cho rằng, giao tiếp là sự thông báo hoặc là quan hệ qua
lại một cách thuần tuý giữa người với người, như là một sự trao đổi quan
điểm và cảm xúc.
X.L.Rubinstêin cho rằng giao tiếp là hình thức liên kết giữa những
con người với nhau.
K.K. Platụnốp và G.G.Gôlubép cho rằng, giao tiếp là sự trao đổi
thông tin giữa những con người với nhau. ở một chỗ khác, các tác giả này đề
cập đến một khía cạnh tác động lẫn nhau của giao tiếp. Giao tiếp là sự tác
động lẫn nhau trên cơ sở phản ánh tâm lý lẫn nhau.
L.O.Rét-nhi-cốp cho rằng, giao tiếp là sự tri giác nhau và hiểu biết lẫn
nhau.
A.G.Côvaliốp cho rằng, giao tiếp là sự giao thiệp bằng lời nói của một
số người với mục đích giải quyết một vấn đề lý thuyết hay thực tiễn nào đó.
Chúng tôi cho rằng những quan điểm nêu trên chưa thật đầy đủ vì chỉ
đề cập đến giao tiếp bằng lời. Trong thực tế con người còn giao tiếp với
nhau qua ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, hành vi …
Trong bài báo “Tâm lý học giao tiếp”, V.N.Phanpherốp định nghĩa
giao tiếp như là sự tác động qua lại của con người, nội dung của nó là sự
nhận thức qua lại trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của những phương tiện
khác nhau của sự thông báo với mục đích xây dựng mối quan hệ qua lại có
lợi đối với quá trình hoạt động chung. Panpherốp đã chia giao tiếp làm bốn
thời điểm:
- Tiếp xúc hoặc liên hệ
- Tác động lẫn nhau
- Nhận thức lẫn nhau