ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN NHƯ CHÍNH
NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TẬP CỦA
GIA ĐÌNH
TRONG XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN NHƯ CHÍNH
NGHI£N CøU NHU CÇU HäC TËP CñA GIA §×NH
TRONG XU H¦íNG HéI NHËP KINH TÕ QUèC TÕ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú
Hà Nội - 2010
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề nhu cầu, nhu cầu học tập 6
1.1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài 6
1.1.2. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước 15
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 17
1.2.1. Nhu cầu 17
1.2.2. Nhu cầu học tập 21
1.2.3. Gia đình. Nhu cầu học tập của gia đình 254
1.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế 343
1.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và những đòi hỏi tất yếu con
người phải học tập để nâng cao trình độ tri thức 36
1.4. Các mặt biểu hiện cụ thể nhu cầu học tập của gia đình 38
1.4.1. Nhu cầu học tập của các thành viên 38
1.4.2. Động cơ chi phối xu hướng hăng say học tập của các thành viên và
của cả gia đình 39
1.4.3. Phương thức thỏa mãn nhu cầu học tập của các thành viên và của
cả gia đình 41
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
2.1. Tổ chức nghiên cứu 43
2.1.1. Nghiên cứu lý luận 43
2.1.2. Nghiên cứu thực tiễn 43
2.1.3. Giai đoạn nghiên cứu 44
2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 45
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 45
2.2.2. Phương pháp quan sát 45
2.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 46
2
2.2.4. Phương pháp tọa đàm, phỏng vấn cá nhân, nhóm gia đình 47
2.2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động 47
2.2.6. Phương pháp thống kê toán học 47
2.2.7. Phương pháp phân tích trường hợp điển hình (case study) 48
2.3. Khái quát các đặc điểm tâm lý xã hội của các gia đình trong diện
khảo sát trên địa bàn thành phố Hà Nội 49
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 52
3.1. Kết quả khảo sát nhu cầu học tập của các thành viên 52
3.1.1. Nhận thức về vai trò của học tập của các thành viên gia đình 52
3.1.2. Mong muốn có trình độ học vấn cao hơn 56
3.1.3. Mong muốn bù đắp những kiến thức bị thiếu hụt 59
3.1.4. Thái độ sẵn sàng đầu tư cho giáo dục của gia đình 66
3.2. Kết quả khảo sát động cơ chi phối xu hướng hăng say học tập của
các thành viên và của cả gia đình 67
3.2.1. Động cơ chính trị- xã hội 68
3.2.2. Động cơ nhận thức 69
3.2.3. Động cơ nghề nghiệp 72
3.2.4. Động cơ lợi ích riêng của gia đình 75
3.3. Kết quả khảo sát phương thức thỏa mãn nhu cầu học tập của các
thành viên và của cả gia đình 79
3.3.1. Địa điểm học tập 79
3.3.2. Hình thức học tập 85
3.3.3. Hình thức chi trả học tập 88
3.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng 92
3.3.5. Phân tích một số trường hợp điển hình 95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Stt
Chữ viết tắt
Xin đọc là
1
ĐTB
Điểm trung bình
2
SL
Số lượng
3
TL
Tỷ lệ
4
TTHTCĐ
Trung tâm học tập cộng đồng
PDF Merger
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>
Merge multiple PDF files into one
Select page range of PDF to merge
Select specific page(s) to merge
Extract page(s) from different PDF
files and merge into one
AnyBizSoft
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang
Bảng 2.1
Mô tả khái quát về khách thể nghiên cứu
50
Bảng 3.1
Các gia đình nhận thức về vai trò của học tập
51
Biểu đồ 3.1
Nhận thức của các gia đình về vai trò của học tập
52
Bảng 3.2
Độ tuổi và nhận thức về vai trò của học tập
54
Bảng 3.3
Mong muốn trình độ học vấn cao hơn của các thành viên
gia đình
55
Biểu 3.2
Mong muốn trình độ học vấn của các gia đình
56
Bảng 3.4
Các kiến thức thiếu hụt, cần bổ sung của các thành viên gia
đình
59
Bảng 3.5
Thái độ sẵn sàng đầu tư cho hoạt động giáo dục
của các gia đình
65
Bảng 3.6
Các khía cạnh thuộc động cơ chính trị- xã hội
67
Bảng 3.7
Các khía cạnh thuộc động cơ nhận thức
69
Bảng 3.8
Các khía cạnh thuộc động cơ nghề nghiệp
71
Bảng 3.9
Các khía cạnh thuộc động cơ lợi ích riêng của gia đình
74
Bảng 3.10
So sánh động cơ chi phối hoạt động học tập của gia đình
76
Bảng 3.11
Địa điểm học tập được các gia đình lựa chọn
78
Bảng 3.12
Hình thức học tập mà các gia đình lựa chọn
84
Bảng 3.13
Hình thức chi trả học tập được các gia đình lựa chọn
87
Bảng 3.14
Trình độ học vấn và hình thức chi trả học tập
90
Bảng 3.15
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập của gia đình
91
3
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XI, cuộc cách mạng về khoa học và công
nghệ đã mang lại những thành tựu vô cùng to lớn cho loài người, đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hoá và sự chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
kinh tế tri thức. Mở cửa và hội nhập với thế giới sẽ là xu hướng chung trong
quá trình vận động và phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, lợi thế cạnh tranh
của mỗi quốc gia chuyển mạnh từ tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động
sang tri thức, kỹ năng và tính sáng tạo. Tất cả các yếu tố này chỉ có thể tìm
thấy trong con người, do đó con người trở thành tài sản quý nhất của xã hội.
Kinh tế tri thức còn là kinh tế học hỏi nên để nắm tri thức mới, làm chủ
công nghệ mới, con người cần phải học suốt đời, không ngừng phát triển tri
thức, nâng cao năng lực sáng tạo, hoàn thiện các kỹ năng, thích nghi nhanh
với sự phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, tuổi thọ của con người dài hơn,
giờ lao động trong ngày giảm bớt đi, nhưng tri thức lại ngày càng nhiều lên,
bất cứ lứa tuổi nào cũng cần phải được trang bị những kiến thức mới, những
kỹ năng mới thì mới thích ứng với lối sống của xã hội hiện đại. Học tập là
một đặc trưng của xã hội hiện đại nên dừng học tập cũng đồng nghĩa với việc
chấp nhận bị loại ra khỏi thế giới năng động. Nhu cầu học tập ở Việt Nam
hiện nay không chỉ cấp bách đối với các cá nhân, tổ chức mà còn đối với cả
các gia đình vì chỉ có thông qua học tập thì con người mới có thể biết, làm,
cùng chung sống và cùng tồn tại trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Việc tìm hiểu, làm rõ nội dung nhu cầu học tập của gia đình,
phân tích thực trạng, những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu này nhằm kích
thích tinh thần học tập của các gia đình trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa
quan trọng và mang tính thời sự.
Trên thực tế, cho tới nay chưa có đề tài nào đề cập, làm rõ nhu cầu học
4
tập của gia đình trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hệ thống
và sâu sắc. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề: "Nghiên cứu nhu cầu học tập
của gia đình trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế " làm đề tài nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Làm rõ thực trạng nhu cầu học tập của gia đình trên địa bàn nghiên cứu,
trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy nhu cầu học
tập của người dân trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên
cứu.
3.2. Khảo sát thực trạng nhu cầu học tập của gia đình trên các mẫu lựa
chọn. Làm rõ một số yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu học tập của các gia đình
hiện nay.
3.3. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy
nhu cầu học tập của người dân trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu học tập của gia đình, một hiện tượng tâm lý xã hội.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Các người dân và gia đình hiện đang sinh sống tại 03 phường thuộc 03
quận nội thành Hà Nội là: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng. Tổng số
người dân thuộc các gia đình là 288 người.
5. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ tập trung vào các khách thể là
một số gia đình đang sinh sống trên địa bàn 03 phường thuộc 03 quận nội
thành Hà Nội là: Hai Bà Trưng, Đống Đa và Hoàn Kiếm.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
6.1. Nhu cầu học tập của các gia đình được thể hiện ở nhu cầu học tập
5
của các thành viên, động cơ chi phối xu hướng hăng say học tập và phương
thức thỏa mãn nhu cầu học tập của các thành viên và của cả gia đình.
6.2. Nhu cầu học tập của người dân chịu sự tác động của nhiều yếu tố
khác nhau trong đó yếu tố động cơ học tập của từng thành viên và của cả gia
đình có tác động mạnh nhất.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp quan sát
7.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.4. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
7.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.6. Phương pháp thống kê toán học
7.7. Phương pháp phân tích trường hợp (case study)
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm các phần sau:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Phân tích kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề nhu cầu, nhu cầu học tập
Đề tài tập trung nghiên cứu nhu cầu học tập của gia đình trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay với tư cách là động lực thúc đẩy gia
đình học tập, nâng cao nhận thức, góp phần tạo ta của cải vật chất cho chính
gia đình mình và cho sự phồn vinh của toàn xã hội nên cần thiết phải điểm
qua các nghiên cứu đã được tiến hành trong và ngoài nước về vấn đề nhu cầu
cũng như nhu cầu học tập.
1.1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về nhu cầu
- Nghiên cứu của các nhà tâm lý học phương Tây
Nhu cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lý chi phối một cách mạnh
mẽ đời sống tâm lý cũng như hành vi của con người được nhiều ngành khoa
học nghiên cứu và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống như
quản lý, kinh doanh, giáo dục Trong tâm lý học phương Tây, vấn đề nhu
cầu được khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới, trong đó có thể kể đến
một số lý thuyết tiêu biểu sau:
+ Lý thuyết bản năng về nhu cầu:
Đại diện tiêu biểu cho thuyết này là trường phái Phân tâm học do bác sĩ
thần kinh người Áo S.Freud sáng lập với quan điểm cho rằng tâm lý con
người bao gồm 3 khối: cái Nó (cái Vô thức- Id), cái Tôi (Ego) và cái Siêu tôi
(Super Ego). Cái Nó bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ,
trong đó bản năng tình dục (libido) giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ
đời sống tâm lí và hành vi của con người, cái Nó tồn tại theo nguyên tắc thoả
mãn. Cái Tôi - con người thường ngày, con người ý thức, tồn tại theo nguyên
tắc hiện thực. Cái Tôi có ý thức theo Freud là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài
7
của nhân lõi bên trong là cái Nó; cái Siêu tôi- là cái siêu phàm, “cái tôi lí
tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt,
chèn ép. Phân tâm học đề cao bản năng vô thức, phủ nhận ý thức, phủ nhận
bản chất xã hội lịch sử của tâm lí người.
+ Lý thuyết phân cấp nhu cầu:
A.Maslow (1908- 1966), một nhà tâm lý theo trường phái tâm lý học
nhân văn là tác giả của thuyết này. Khác với S.Freud đề cao cái vô thức đặc
biệt là bản năng tình dục của con người, A.Maslow cố gắng lý giải và chứng
minh rằng tính xã hội nằm ngay trong chính bản tính của con người. Ông
phân nhu cầu của con người thành 5 loại theo thang bậc từ thấp đến cao: 1.
nhu cầu sinh lý, 2. nhu cầu an toàn, 3. nhu cầu về sự liên kết và chấp nhận, 4.
nhu cầu được tôn trọng, 5. nhu cầu hiện thực hóa cái tôi. Hệ thống nhu cầu
của con người được xác định theo sơ đồ hình tháp, trong đó các nhu cầu cơ
bản và ở cấp thấp nằm ở dưới đáy còn các nhu cầu ở cấp cao hơn nằm ở trên
đỉnh thang. Quá trình hình thành các nhu cầu tuân theo nguyên tắc: trước khi
các nhu cầu bậc cao phát huy vai trò động lực thì bản thân các nhu cầu bậc
thấp (sinh học) ở con người cần phải được thỏa mãn và chỉ khi chúng được
thỏa mãn, tính cấp bách của chúng giảm đi thì những động cơ bổ sung của
hoạt động là các nhu cầu ở trình độ tiếp theo mới xuất hiện.
Đánh giá về lý thuyết của Maslow nhà tâm lý học người Nga B.Ph.
Lomov trong cuốn Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học cho
rằng "Tháp Maslow" bao gồm cả những nhu cầu có nguồn gốc sinh học và xã
hội, thế nhưng "đặc điểm của các mức độ nêu trên hết sức vô định hình. Điều
đó nảy sinh do Maslow đưa ra nhu cầu của một cá nhân trừu tượng, tách nó ra
khỏi hệ thống quan hệ xã hội, đặt nhu cầu cá nhân nằm ngoài mối liên hệ với
xã hội". Và cũng theo Lomov thì lý thuyết này chưa lí giải được "trong những
điều kiện xã hội nào nhu cầu đó được thỏa mãn và những nguyên nhân chuyển
8
tiếp nào từ mức độ này sang mức độ khác ông không khắc phục sự đối kháng
giữa cá nhân và xã hội được phổ biến trong tâm lý học phương Tây" lúc đó.
[14, tr.472- 473].
Mặc dù còn có hạn chế song cần phải thừa nhận lý thuyết của Maslow
là một trong những lý thuyết về nhu cầu được nhắc đến nhiều nhất trong các
sách giáo khoa và tài liệu tham khảo tâm lý học đồng thời được sử dụng khá
rộng rãi trong đời sống xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý, sản xuất,
tham vấn Các doanh nghiệp rất quan tâm ứng dụng lý thuyết này trong thực
tiễn thể hiện ở việc chăm lo đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người lao động (cả
vật chất và tinh thần), cải thiện mối quan hệ giữa con người với con người
nhằm thúc đẩy năng suất, tiết kiệm chi phí sản xuất nâng cao lợi nhuận cho
đơn vị mình.
Từ góc độ tiếp cận của thuyết phân cấp nhu cầu Maslow có thể thấy nhu
cầu học tập của gia đình nằm trên một phổ khá rộng, từ bậc thang nhu cầu an
toàn ở gần cuối tháp cho tới các bậc thang phía trên như nhu cầu về sự liên kết
và chấp nhận, nhu cầu về sự tôn trọng, nhu cầu hiện thực hóa cái tôi.
+ Lý thuyết nhu cầu có điều kiện do David McCelland (1960) và cộng
sự là John Atkinson xây dựng đã nghiên cứu và xác định ba loại nhu cầu cơ
bản ở con người là: nhu cầu về quyền lực (nPow), nhu cầu liên kết (nAff),
nhu cầu thành đạt (nAch). Theo McCelland, những người có nhu cầu học tập
để trở nên thành đạt được nhận ra qua các biểu hiện bên ngoài như sự lo lắng,
chuyên tâm tìm kiếm, bổ sung tri thức và hoàn thiện kĩ năng làm việc để hoàn
thành nhiệm vụ được giao vì vậy nhu cầu học tập, tự học, tự bồi dưỡng là một
yếu tố quan trọng trong tổ chức.
+ Giáo sư tâm lý học người Mỹ Clayton Alderfer (1969) sau một loạt
các nghiên cứu đã xây dựng nên thuyết ERG. Thuyết này cho rằng hành động
của con người bắt nguồn từ nhu cầu song cùng một lúc họ có thể theo đuổi cả
9
ba nhu cầu cơ bản: nhu cầu tồn tại, nhu cầu quan hệ và nhu cầu phát triển,
chứ không nhất thiết phải theo trật tự từ thấp đến cao như trong lý thuyết phân
cấp nhu cầu của Maslow.
Nhu cầu tồn tại (E: Existence needs): bao gồm những đòi hỏi vật chất
tối cần thiết cho sự tồn tại của con người, nhóm nhu cầu này có nội dung
giống nhu cầu sinh lý và an toàn của tác giả Maslow.
Nhu cầu quan hệ (R: Relatedness needs): là những đòi hỏi về những
quan hệ và tương tác qua lại giữa các cá nhân, nhu cầu quan hệ bao gồm nhu
cầu xã hội và một phần nhu cầu được tôn trọng.
Nhu cầu phát triển (G: Growth needs): là đòi hỏi bên trong mỗi con
người cho sự phát triển mỗi cá nhân, nó bao gồm nhu cầu tự thể hiện và một
phần nhu cầu tự trọng (tự trọng và tôn trọng người khác).
Cũng theo giáo sư Alderfer, khi nhu cầu tồn tại bị cản trở và không
được thỏa mãn thì con người có xu hướng dồn nỗ lực của mình để theo đuổi
nhu cầu quan hệ và nhu cầu phát triển. Điều này giải thích khi cuộc sống
khó khăn, con người ta thường xu hướng gắn bó với nhau hơn, quan hệ giữa
các cá nhân tốt hơn và họ dồn nỗ lực phấn đấu cho tương lai nhiều hơn.
+ Một nhà tâm lý học khác là Victor H.Vroom đã công bố thuyết Động
cơ thúc đẩy theo hy vọng, cho rằng động cơ thúc đẩy con người làm mọi việc
sẽ được qui định bởi giá trị mà con người đặt vào kết quả của sự cố gắng của
bản thân (dù là tích cực hay tiêu cực), được nhân thêm bởi niềm tin mà họ cho
rằng sự cố gắng của mình sẽ được hỗ trợ thực sự để đạt được mục tiêu. Hay
khác đi, động cơ thúc đẩy là sản phẩm của giá trị mong đợi mà con người đặt
vào mục tiêu và những cơ hội mà họ thấy sẽ hoàn thành được mục tiêu đó.
Thuyết này có thể khái quát bằng sơ đồ:
Sức mạnh = Mức ham mê × Hy vọng
Sức mạnh: là cường độ thúc đẩy con người.
10
Mức ham mê: là cường độ ưu ái của một người dành cho kết quả.
Hy vọng: là xác suất mà một hoạt động riêng lẻ sẽ dẫn tới một kết quả
mong muốn.
Lý thuyết của Vroom được đánh giá là thực tế hơn, tránh được đặc
trưng đơn giản hoá trong cách tiếp cận của Maslow và Herzberg và phù hợp
với toàn bộ hệ thống quản lý theo mục tiêu.
Ngoài ra, cũng cần kể đến một số lý thuyết khác như thuyết Nhu cầu
biểu lộ của H.A.Murray, thuyết Động năng nhân cách của K.Lewin, lý thuyết
Hai yếu tố động cơ - vệ sinh của Federick Herzberg
Những lý thuyết về nhu cầu của các học giả phương Tây đều thừa nhận
tính chất xã hội của nhu cầu, coi trọng nhu cầu tinh thần của con người. Tuy
nhiên, họ chưa chỉ ra được cơ chế hình thành cũng như nguyên tắc của việc
hình thành và phát triển nhu cầu.
- Nghiên cứu của các nhà tâm lý học Xô Viết
Nhắc đến nhu cầu thì không thể không đề cập đến các nghiên cứu về
vấn đề này trong tâm lý học Hoạt động, nền tâm lý học được thành lập ở nước
Nga Xô Viết sau Cách mạng tháng Mười. Dòng phái tâm lý học này lấy triết
học mác xít, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận trong nghiên cứu tâm lý con người. Vấn đề nhu cầu được các nhà
tâm lý học Hoạt động quan tâm xem xét theo một số hướng chủ yếu sau.
+ D.N.Uznatze - tác giả của thuyết tâm thế - là người đã khám phá ra sự
liên quan giữa nhu cầu với hành vi của con người, tương ứng với mỗi kiểu
hành vi là một loại nhu cầu cơ bản. Ông khẳng định nhu cầu là yếu tố tạo ra
tính tích cực của con người, không có nhu cầu thì không thể có tính tích cực;
nhu cầu xác định xu hướng và tính chất của hành vi, giữa nhu cầu và hành vi
có mối quan hệ mật thiết nên Uznatze đã dựa vào nhu cầu để phân loại các
hành vi của con người thành những hành vi có nguồn gốc bên ngoài và những
hành vi có nguồn gốc bên trong. Cũng theo Uznatze thì đồng thời với những
11
nhu cầu mang tính bản năng sinh vật như đói, rét, tình dục (còn gọi là
những nhu cầu bậc thấp), ở con người còn có những nhu cầu bậc cao, đó là
những nhu cầu trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ. Vấn đề là ở chỗ đối với mỗi
người thì nhu cầu này hay nhu cầu khác mang tính ưu thế và áp đảo.
+ Xuất phát từ quan điểm của C.Mác coi bản chất của con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội, nhà tâm lý học X.L.Rubinxtêin lại cho rằng nhu
cầu của con người thể hiện sự liên kết, sự phụ thuộc của họ với thế giới. Nhu
cầu là sự đòi hỏi về "cái gì đó" nằm ngoài chủ thể. "Cái gì đó" chính là đối
tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu cầu thông qua hoạt
động của chủ thể. Theo Rubinxtêin, quá trình hình thành và phát triển một
nhu cầu cụ thể luôn có sự tham gia của ý thức ở những mức độ khác nhau và
trải qua một số giai đoạn như sau:
Ý hướng
Là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này, nhu cầu chưa được phản
ánh đầy đủ, rõ ràng vào ý thức mà chủ thể mới chỉ ý thức được trạng thái
thiếu hụt của bản thân về một cái gì đó nhưng chưa ý thức đầy đủ về đối
tượng và khả năng thỏa mãn nhu cầu. Điều này thúc đẩy chủ thể tích cực tìm
kiếm đối tượng và phương thức thỏa mãn để giải quyết nó. Khi chủ thể tự trả
lời được câu hỏi "thiếu hụt về cái gì" thì lúc đó nhu cầu đã chuyển sang mức
độ cao hơn, đó là ý muốn.
Ý muốn
Ở giai đoạn này, chủ thể đã ý thức được đối tượng chứa đựng khả năng
thỏa mãn nhu cầu, mục đích hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu Nghĩa là, chủ
thể đã ý thức cả về đối tượng của nhu cầu và cả mục đích, động cơ hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu tuy nhiên vẫn tiếp tục tìm kiếm các phương thức và
điều kiện thỏa mãn nhu cầu. Khi cách thức thỏa mãn nhu cầu được chủ thể ý
thức đầy đủ thì nhu cầu sẽ chuyển sang mức độ cao hơn nữa, đó là ý định.
12
Ý định
Đến giai đoạn này, chủ thể ý thức đầy đủ cả về đối tượng lẫn cách thức,
điều kiện nhằm thỏa mãn nhu cầu, xác định rõ khuynh hướng của nhu cầu và
sẵn sàng hoạt động. Nhu cầu đã có hướng và đã được “động cơ hóa”, xuất
hiện tâm thế sẵn sàng hoạt động để thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu trở thành sức
mạnh nội tại thúc đẩy mạnh mẽ chủ thể hoạt động nhằm thỏa mãn nó. Đồng
thời, lúc này chủ thể có khả năng hình dung về kết quả của hoạt động.
Rubinxtêin cũng khẳng định nhu cầu của con người thể hiện mối quan
hệ của họ với thế giới xung quanh. Để tồn tại và phát triển con người luôn
phải hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định. Nhu cầu của con
người vừa mang tính tích cực vừa mang tính thụ động. Tính tích cực của nhu
cầu thể hiện: nhu cầu thúc đẩy chủ thể tích cực hoạt động tìm kiếm các cách
thức, phương tiện, đối tượng để thỏa mãn nó. Tính thụ động thể hiện ở chỗ
khả năng thỏa mãn nhu cầu lệ thuộc vào chính thế giới đối tượng tồn tại trong
hiện thực khách quan. Tính tích cực của nhu cầu thể hiện cao hay thấp là phụ
thuộc vào các mức độ của nhu cầu (ý hướng, ý muốn, ý định).
+ Sẽ là thiếu sót khi bàn về nhu cầu mà không nhắc đến tác giả A.N.
Leonchiev. Ông là người đã xây dựng nên lý thuyết và sơ đồ hoạt động của
con người, trong đó vấn đề động cơ và nhu cầu được đưa ra, giải thích khá rõ
ràng và sâu sắc. Leonchiev khẳng định vấn đề có tính chất nguyên tắc là nhu
cầu nói riêng và tâm lí của con người nói chung có nguồn gốc từ hoạt động
thực tiễn và duy nhất chỉ có trong đó các nhu cầu mới có được tính cụ thể về
mặt tâm lí học.
Leonchiev cho rằng một nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu
về một cái gì đó. Lúc đầu, nhu cầu mới chỉ là trạng thái thiếu thốn của cơ thể
về một cái gì đó và chưa được chủ thể nhận thức một cách rõ ràng, mới chỉ là
"trạng thái có tính chất nhu cầu". Mà một "trạng thái có tính chất nhu cầu" khi
13
không chứa một nội dung đối tượng nào hết thì không thể coi là nhu cầu ở cấp
độ tâm lý. Chỉ đến khi chủ thể bắt đầu hoạt động với đối tượng nhất định thì
nhu cầu mới có được tính vật thể (tính đối tượng) và mới trở thành một nhu
cầu thực sự. Như vậy, nhu cầu chỉ có chức năng định hướng khi có sự gặp gỡ
của chủ thể và khách thể (chứa đựng đối tượng của nhu cầu) hay nói cách
khác đối tượng nhu cầu của con người được "sản xuất" ra bởi chính hoạt động
của họ. Mối liên hệ giữa nhu cầu và hoạt động được Leonchiev khái quát theo
sơ đồ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động thay cho cách giải thích trước đây là
Nhu cầu - Hoạt động - Nhu cầu. Đây là sơ đồ đáp ứng được quan niệm mác
xít về nhu cầu đồng thời là sơ đồ cơ bản đối với nền tâm lý học.
Leonchiev cũng cho rằng hoạt động sản xuất của con người thúc đẩy
nhu cầu hình thành và phát triển, từ đó thúc đẩy xã hội tiến bộ. Vai trò của lao
động mà cụ thể là những dạng hoạt động khác nhau, giúp sản sinh ra các nhu
cầu mới, cũng như không ngừng tiêu thụ nó để xuất hiện những nhu cầu cao
hơn do đó nghiên cứu về nhu cầu không thể tách nó khỏi những điều kiện vật
chất cũng như những phương thức để thỏa mãn nó và cũng không được tách
nó khỏi hoạt động. Bên cạnh đó, ông khẳng định: sự phân tích các nhu cầu về
mặt tâm lý học cũng cần phải gắn với sự phân tích các động cơ vì "các nhu
cầu của con người được sản sinh ra nhờ sự phát triển của sản xuất. Vì sản
xuất cũng trực tiếp là sự tiêu dùng mà sự tiêu dùng ấy vốn tạo ra nhu cầu.
Nói cách khác sự tiêu dùng được thông qua sự trung giới của nhu cầu về một
sự vật, hoặc của sự tri giác về vật ấy hoặc biểu tượng về nó mà người ta hình
dung ra trong trí óc. Dưới cái hình thức được phản ánh vào đầu óc như vậy
của nó, chính sự vật xuất hiện với tính chất là một hiện tượng tinh thần, một
động cơ thúc đẩy từ bên trong" [13, tr.92].
Tóm lại, qua việc phân tích quan điểm của các nhà tâm lý học mác xít
về nhu cầu có thể thấy một số điểm nổi bật sau:
14
- Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng. Khi nhu cầu gặp
gỡ đối tượng có khả năng thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc
đẩy cá nhân hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng. Nhu cầu chính là nguồn gốc
của tính tích cực hoạt động của con người.
- Nghiên cứu nhu cầu phải gắn với hoạt động cụ thể. Nhu cầu được nảy sinh
và phát triển trong quá trình con người hoạt động và tương tác với môi trường.
- Bất kì nhu cầu nào cũng có một nội dung cụ thể tùy theo nó được thỏa
mãn trong những điều kiện nào và theo phương thức nào. Hay khác đi, nội
dung và tính chất của nhu cầu phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện và và phương
thức thỏa mãn nó.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về nhu cầu học tập
Nhà giáo dục học K.D.Usinxki khẳng định nhu cầu học tập là cơ sở duy
nhất và vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả. Ông cho rằng muốn hình
thành và phát triển nhu cầu học tập phải tác động vào tự ý thức của người học
làm thay đổi từ nhận thức, thái độ đến xây dựng thói quen tích cực.
J.A.Comenxki cho rằng cần phải lôi cuốn, kích thích người học vào
chính bản thân. Ông rất coi trọng vai trò của nhu cầu học tập của người học
đối với hiệu quả dạy học nói chung và học tập nói riêng. Theo ông để hình
thành phát triển nhu cầu học tập ở người học thì việc dạy học cũng như người
giáo viên phải làm thế nào để hấp dẫn người học, từ đó lôi cuốn, thúc đẩy họ
tích cực, chủ động với vai trò là chủ thể của hoạt động học tập.
L.I.Bozovich cho rằng nhu cầu học tập được hình thành và phát triển
rất sớm ở trẻ. Ngay từ khi còn nhỏ, con người đã bị hấp dẫn bởi hiện thực
khách quan, bởi những điều mới mẻ và lạ lẫm so với kinh nghiệm của trẻ. Trẻ
luôn có ham muốn khám phá, hiểu biết thế giới xung quanh. Nhu cầu học tập
của trẻ được phát triển từ thấp đến cao. Ở mức độ cao, nhu cầu là động lực
thúc đẩy trẻ học tập chiếm lĩnh tri thức và thỏa mãn nó. Bozovich là người có
công xây dựng nền móng trong nghiên cứu nhu cầu học tập.
15
Nghiên cứu về nhu cầu học tập của các tác giả kể trên chủ yếu tập trung
vào nhu cầu học tập, khám phá những tri thức mới trong nhà trường của học
sinh. Hầu như chưa có tài liệu nào chính thức đề cập đến nhu cầu học tập của
nhóm đối tượng là gia đình một cách có hệ thống.
1.1.2. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.2.1. Nghiên cứu về nhu cầu
Ở Việt Nam hiện có khá nhiều các nghiên cứu về vấn đề nhu cầu, cả về mặt
lý luận cũng như thực tiễn. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau:
Về mặt lý luận, trong các giáo trình tâm lý học đại cương, nhiều tác giả
đã bàn luận về nhu cầu ở một số khía cạnh: khái niệm, phân loại, vai trò của
nhu cầu (Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang
Uẩn, Trần Quốc Thành, ). Các tác giả chủ yếu dựa trên quan điểm của tâm lý
học hoạt động khi xem xét nhu cầu với tư cách là thành tố nằm trong tiểu cấu
trúc xu hướng của nhân cách, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động của
con người.
Về mặt thực tiễn, có thể kể đến các nghiên cứu của tác giả Lã Thị Thu
Thủy (2006) với "Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của trí thức trẻ", Hà Thị Bình
Hòa với "Nhu cầu thông tin của khách thể tuyên truyền", Lê Thanh Hương
(2001) với "Động cơ thành đạt trong nghiên cứu khoa học của cán bộ nghiên
cứu thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia"
1.1.1.2. Nghiên cứu về nhu cầu học tập
Một số nghiên cứu về nhu cầu học tập có liên quan đến đề tài như sau:
Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và mối quan hệ của nó với tính tích cực
nhận thức của sinh viên hai trường Đại học Sư phạm và Đại học Bách Khoa
thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Võ Thị Ngọc Châu (1999) trong luận văn của
mình đã chỉ ra ảnh hưởng của nhu cầu thành đạt đến tính tích cực nhận thức
của sinh viên và đưa ra một số biện pháp giáo dục nhu cầu thành đạt và tính
tích cực nhận thức cho sinh viên.
16
Tác giả Nguyễn Văn Luỹ khi nghiên cứu trên khách thể là 62 em học
sinh tiểu học học kém và 170 em có học lực từ trung bình trở lên tại địa bàn
thành phố Đà Nẵng cũng xác định một số đặc điểm nhu cầu nhận thức của
học sinh học kém bậc tiểu học đồng thời đề xuất biện pháp tác động sư phạm
để nâng cao mức độ phát triển nhu cầu nhận thức ở các em qua đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.
Trong luận án "Nhu cầu học tập của sinh viên sư phạm", tác giả Hoàng
Thị Thu Hà (2002) đã nghiên cứu làm rõ mức độ nhu cầu học tập của sinh
viên Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ở ba mức độ: ý hướng, ý
muốn, ý định, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp tác động sư phạm nâng
cao mức độ nhu cầu học tập cho người học.
Ngoài ra có luận án của tác giả Trần Thị Thìn (2004) nghiên cứu thực
trạng động cơ học tập của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An và đề
ra một số phương hướng giáo dục động cơ học tập cho sinh viên sư phạm, kiểm
định hai tác động với mục đích tăng cường động cơ học tập, đặc biệt là động cơ
liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, học nghề của sinh viên.
GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú và các tác giả của cuốn Tâm lý học Sư phạm
Quân sự đã đề cập đến động cơ học tập của các sĩ quan quân đội bắt đầu từ
khởi nguồn xây dựng các nhu cầu học tập đúng đắn của các học viên: nhu cầu
mong muốn tiến bộ, trưởng thành; nhu cầu mong muốn phát triển, hoàn thiện
nhân cách; nhu cầu nhu cầu sống, chiến đấu, phục vụ cho sự nghiệp quân đội,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc; nhu cầu hoàn thiện tri thức, mong muốn nắm
vững tiến tới làm chủ tri thức khoa học; nhu cầu nắm vững và làm chủ nghề
nghiệp quân sự mà mình sẽ theo đuổi… [19, tr.115-119]
Các nghiên cứu về nhu cầu, động cơ học tập của các tác giả kể trên đều
gắn với một lĩnh vực đã khá quen thuộc trong tâm lý học Việt Nam, đó là tâm
lý học sư phạm. Có thể nói nghiên cứu nhu cầu học tập của gia đình trong xu
17
hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là một vấn đề khá mới mẻ và gần
như chưa có công trình khoa học nào quan tâm khảo sát.
Tóm lại,
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước về nhu
cầu, nhu cầu học tập song chủ yếu gắn với một lĩnh vực đã quá quen biết
trong tâm lý học Việt Nam, đó là chuyên ngành tâm lý học Sư phạm.
Nhu cầu học tập của cá nhân và gia đình hiện nay được nhiều tác giả
coi là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp Việt
Nam hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Tuy nhiên, những nghiên cứu riêng
về vấn đề này với tư cách là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về tâm lý
học còn rất ít ỏi.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Nhu cầu
1.2.1.1. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu được xem là một thành tố cơ bản thuộc nhóm xu hướng, nằm
trong cấu trúc nhân cách của cá nhân. Trong tâm lý học có nhiều quan niệm
khác nhau về khái niệm nhu cầu.
Từ điển Tâm lý học do tác giả Nguyễn Khắc Viện chủ biên định nghĩa
nhu cầu là: "Điều cần thiết để tồn tại và phát triển. Được thỏa mãn thì dễ
chịu, thiếu hụt thì khó chịu, căng thẳng, ấm ức" [22, tr.266]
GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn quan niệm: "Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu
mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển" [21, tr.173].
Trong giáo trình Tâm lý học quân sự, GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú đưa ra
định nghĩa: "Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu, khách quan, biểu hiện sự cần
thiết về một cái gì đó cần phải được thỏa mãn của con người trong cuộc sống
và hoạt động". [18, tr.248].
Từ điển tâm lý học của Viện tâm lý học- Viện Khoa học xã hội Việt
18
Nam do GS.TS. Vũ Dũng chủ biên lại cho rằng hiện tồn tại nhiều quan điểm,
cách tiếp cận khác nhau đối với nhu cầu song có thể hiểu một cách khái quát:
"nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu, để cá nhân tồn tại và phát triển trong
những điều kiện nhất định" [23, tr.568].
Tác giả A.G.Côvaliôp đã đề cập đến vấn đề nhu cầu với tư cách là
nguồn gốc tính tích cực hoạt động của con người. Theo ông, nhu cầu và sự
thỏa mãn các nhu cầu của con người là động cơ thúc đẩy hoạt động, điều
chỉnh hành vi của từng cá nhân và của cả tập thể nói chung. Từ góc độ tâm lý
học xã hội, Côvaliôp quan niệm "Nhu cầu là sự đòi hỏi của nhóm xã hội
muốn có những điều kiện sống và phát triển nhất định Nhu cầu quy định xu
hướng lựa chọn các ý nghĩ, các rung cảm và ý chí của quần chúng, nó qui
định hoạt động xã hội của giai cấp hoặc của tập thể" [12, tr.93]. Ông cũng
nhấn mạnh nhu cầu của con người là đa dạng, nó mang tính lịch sử và gắn
liền với nền sản xuất xã hội, với sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần
trong xã hội. Nhu cầu của con người vô cùng phong phú và đa dạng. Sự phát
triển của con người, loài người là quá trình đáp ứng những nhu cầu, đồng thời
cũng là quá trình nảy sinh những nhu cầu ngày càng mới. Tuy nhiên, nhu cầu
chỉ được coi là tích cực khi việc đáp ứng chúng giúp cho con người phát triển
về nhân cách.
Trên cơ sở phân tích và tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu về
nhu cầu, chúng tôi tán thành định nghĩa của tác giả Côvaliôp khi xem xét nhu
cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã hội. Đây là quan niệm khá hợp lý,
đầy đủ về nhu cầu của con người và chúng tôi dựa trên quan điểm này khi
xem xét nhu cầu học tập của gia đình trên địa bàn Hà Nội trong thời kì hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1.2. Đặc điểm nhu cầu
- Tính đối tượng: Theo X.L.Rubinxtein thì nhu cầu bao giờ cũng có đối
19
tượng. Đối tượng của nhu cầu nằm ngoài chủ thể, tồn tại một cách khách quan
đồng thời chứa đựng khả năng thoả mãn nhu cầu xong đối tượng đáp ứng nhu
cầu chỉ bộc lộ ra khi chủ thể tiến hành hoạt động, nhờ vậy mà nhu cầu có
được tính đối tượng và chính bản thân vật thể được nhận biết nghĩa là được
chủ thể hình dung, tư duy lại trở thành động cơ có chức năng thúc đẩy, hướng
dẫn hoạt động.
- Tính chu kì: Khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn không có nghĩa là
nó sẽ chấm dứt hẳn nếu con người vẫn sống, phát triển trong những điều kiện
và phương thức sinh hoạt như cũ. Những nhu cầu về ăn mặc, học tập, giao tiếp
với người khác thường xuyên tái diễn với tính chất chu kì trong cuộc sống tuy
nhiên mỗi lần tái hiện là nhu cầu lại được củng cố và phong phú thêm.
- Về phương thức thỏa mãn nhu cầu ở con người thì nhu cầu được thoả
mãn thông qua hoạt động và chỉ có thông qua hoạt động có đối tượng thì nhu
cầu mới được cụ thể hoá về mặt tâm lí và mới được thoả mãn. Do đó, nhu cầu
luôn có mối quan hệ mật thiết với động cơ. Mỗi loại nhu cầu cụ thể được thoả
mãn trong quá trình tiến hành hoạt động tương ứng. Từ nhu cầu đến thỏa mãn
nhu cầu thường thông qua nhiều khâu trung gian và có sự chuyển hóa phức
tạp. Trong quá trình sống, con người đã chế tạo ra các công cụ lao động để tác
động vào thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên và bắt nó phải thỏa mãn nhu cầu của
chính mình. Hơn nữa, xã hội càng phát triển thì các nhu cầu của con người
ngày càng phong phú và đa dạng, được mở rộng và không ngừng tăng lên về
mặt số lượng và chất lượng. Nhu cầu của con người và mức độ thỏa mãn
chúng phụ thuộc rất nhiều vào nền sản xuất của xã hội và rất nhiều yếu tố
khác như: thói quen, phong tục, tập quán cũng như trạng thái riêng của từng
chủ thể.
- Nhu cầu và hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhu cầu là
điều kiện bên trong của hoạt động và luôn gắn liền với hoạt động có đối tượng
20
của chủ thể. Cùng với sự phát triển của khoa học- kĩ thuật và công nghệ, nhu
cầu về vật chất của con người mỗi ngày một cao hơn nhưng không phải là vô
hạn còn nhu cầu về văn hóa tinh thần lại tăng lên, không có giới hạn. Không
những thế, con người có khả năng nhận thức được đầy đủ nhu cầu của mình
(nội dung, đối tượng, phương thức thỏa mãn nó). Trước khi thực hiện hành
động nào đó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, con người thường đối chiếu
nó với các chuẩn mực (đạo đức, pháp luật ), từ đó tự điều khiển, điều chỉnh
hành động của mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.
1.2.1.3. Phân loại nhu cầu
Nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng. Các nhà tâm lý học đã
căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để phân loại nhu cầu của con người.
Căn cứ vào điều kiện tồn tại của đối tượng nhu cầu chia thành nhu cầu
vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất có liên quan trực tiếp đến sự
tồn tại của cơ thể con người (nhu cầu về thức ăn, nhà ở, quần áo để chống
rét ). Chính nó thúc đẩy hoạt động lao động và sáng tạo của con người, làm
ra của cải vật chất, tạo cơ sở của toàn bộ lịch sử tồn tại của loài người. Nhu
cầu tinh thần có liên quan trực tiếp tới những đòi hỏi về cái đẹp (cách cư xử
giữa người và người sao cho hợp đạo lý), có nguồn gốc sâu xa từ trong nền
văn minh. Chẳng hạn, nhu cầu về nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, kiến trúc ).
Căn cứ vào chủ thể của nhu cầu, phân chia thành nhu cầu cá nhân và
nhu cầu xã hội. Nhu cầu cá nhân là nhu cầu của một cá nhân riêng lẻ còn nhu
cầu xã hội là nhu cầu của một nhóm người như một chỉnh thể thống nhất. Nhu
cầu của cá nhân gắn chặt với cá tính của mỗi người.
Căn cứ vào các mức độ của nhu cầu phân thành nhu cầu bậc thấp (nhu
cầu vật chất) và nhu cầu bậc cao (nhu cầu tinh thần). Điển hình cho cách
phân loại này là nhà tâm lý học nhân văn người Mỹ A.Maslow. Khi phân chia
các mức độ của nhu cầu, ông đã xem xét nhu cầu của con người theo hình thái