Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 130 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===============o0o===============



NGUYỄN THÚY THƠM
(Thích Minh Thịnh)


VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM
(QUA TRIỀU ĐẠI TRẦN)



LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC




Hà Nội 10/2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===============o0o===============



NGUYỄN THÚY THƠM
(Thích Minh Thịnh)




VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM
(QUA TRIỀU ĐẠI TRẦN)
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60.22.90


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Giáo viên hướng dẫn:
GS.TS. Nguyễn Hữu Vui


Hà Nội 10/2010
130

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO TRIỀU TRẦN 7
1.1. Những tiền đề của sự tồn tại và phát triển Phật giáo triều Trần . 7

1.1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội 7
1.1.2. Tiền đề tư tưởng 14
1.2. Phật giáo triều Trần 31
1.2.1. Đặc điểm của Phật giáo thời Trần 31
1.2.2. Đôi nét về triết học Phật giáo triều Trần. 43
Chương 2: MỘT SỐ ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM (QUA TRIỀU ĐẠI
TRẦN: 1225 - 1400) 51
2.1. Đóng góp của Phật giáo trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng 56
2.1.1. Phật giáo đối với tư tưởng chính trị 56
2.1.2. Phật giáo đối với văn học nghệ thuật 67
2.2. Đóng góp của Phật giáo đối với văn hóa tín ngưỡng và đạo đức
lối sống 81
2.2.1. Phật giáo đối với văn hóa tín ngưỡng 81
2.2.2. Phật giáo đối với đạo đức, lối sống 95
2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo triều Trần trong
đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam hiện nay. 109
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đời Lý trải qua 215 năm xây dựng và chiến đấu, đã phát huy những
truyền thống của 1000 năm lịch sử trước kia, tạo lập thêm những truyền
thống mới và ngày càng lớn mạnh. Điều đó góp phần giải thích tại sao sang
đời Trần, dân tộc ta lại có thể chiến thắng một cách oanh liệt đạo quân xâm
lược khét tiếng Nguyên Mông. Tất nhiên bên cạnh sức mạnh và lòng yêu
nước của nhân dân thì cũng phải kể đến quyết tâm chiến đấu và tài năng tổ

chức lãnh đạo của những người đứng đầu vương triều Trần. Và cũng không
phải ngẫu nhiên mà khí thế hào hùng đời Trần đã được đời sau đặt cho cái tên
“Hào khí Đông A”. Hào khí đó đã làm cho quân Nguyên “mất vía, bạt hồn”.
Đời Trần quả là một vương triều đặc biệt trong lịch sử nước ta.
Không kể chiến công ba lần đánh tan quân Nguyên Mông từng đe dọa khắp
thế giới Á – Âu mà chỉ nói về văn hóa cũng thấy nhiều nét đặc biệt. Bộ sử
đầu tiên của dân tộc ta ra đời là ở vương triều này (Đại Việt sử ký). Chữ
Nôm lần đầu tiên được dùng trong văn học cũng là ở triều Trần. Bộ binh
thư đầu tiên đã xuất hiện với tác giả Trần Quốc Tuấn. Học vị Trạng
Nguyên bắt đầu có dưới đời Trần Thái Tông năm 1246.
Ở thời này, lịch sử dân tộc đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan
trọng và tính nền tảng đối với sự phát triển của đất nước sau này, trong đó
Phật giáo có vai trò không nhỏ.
Nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với các bước đi vững vàng của dân tộc
được xác lập rất sớm trong giai đoạn đó. Cụ thể là thời đại nhà Trần, Phật
giáo phát triển huy hoàng, cũng là thời đất nước Đại Việt vươn lên một
cách hùng cường đến đỉnh cao tột. Cũng chính lúc này, các vị Tăng Lữ
đóng vai trò quan trọng trong quá trình bảo vệ đất nước và ổn định nếp
2

sống xã hội, hướng mọi người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống,
đồng thời rèn luyện nội tâm mỗi người trở thành một nhân cách hoàn mỹ
phụng sự cho dân tộc.
Do vậy, Phật giáo đời Trần là một nét son trong nền văn hóa Việt.
Tìm về bản sắc văn hóa Phật giáo thời Trần cũng là tìm về bản sắc văn hóa
dân tộc.
Đâu những: Đức vua – Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa,
Huyền Quang, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Minh Tông… đều là những nhân
cách lớn của mọi thời đại. Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Anh
Tông…đều là những bậc minh quân song hành cùng Phật giáo khó đời nào

sánh kịp. Các chùa thuộc hệ thống Trúc Lâm: Vũ Lâm, Lâm Động, Báo Ân,
Sùng Nghiêm. Các chùa, tháp trên núi Yên Tử: Quỳnh Lâm, Thương Hải,
Hồ Thiên, Chân Lạc, Côn Sơn, Phổ Minh
(
1
)
… đều là những thánh tích ăn sâu
vào tiềm thức người dân Việt, là tự tình dân tộc từ bao đời.
Hơn ở đâu hết, do ý chí bất khuất của dân tộc, đạo Phật Việt Nam đã
đào tạo con người tu hành mà không xa đời, vẫn luôn luôn sống vì dân, với
nước. Lời quốc sư Phù Vân khuyên vua Trần Thái Tông mà nhà vua có ghi
lại trong sách “Thiền Tông chỉ Nam” cho ta biết Phật giáo Việt Nam vốn
không tiêu cực và bi quan, trái lại còn lạc quan, tích cực, hòa đồng, nhập
thân với dân tộc trong mọi tình huống để chia sẻ với nhân dân những khổ
đau bị áp bức, niềm vinh quang khi chiến thắng kẻ thù và sự vui sướng khi
quốc thái dân an, phồn vinh hạnh phúc.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu “Vai trò của Phật giáo trong đời
sống văn hóa tinh thần Việt Nam (Qua triều đại Trần)” là một vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách, không chỉ đáp ứng nhu cầu khách
quan, bức thiết của khoa học xã hội nhân văn, mà còn là một nhu cầu thực


1
Tháp Phổ Minh là ngọn tháp duy nhất tại Việt Nam để chôn tro xương của một vị đế vương là Nhân
Tông, đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm (Đó là sự dùng tháp chôn Xá Lợi, thay cho Lăng vua).
3

tế. Thế hệ trẻ ngày nay luôn có ý thức tìm hiểu về quá khứ của dân tộc.
Như C.Mác – Ph.Ăng ghen nói: Họ không “sợ sệt cầu viện đến những linh
hồn của quá khứ”[44;145] cũng không phải “mượn tên tuổi, khẩu lệnh

chiến đấu, y phục của những linh hồn đó, để rồi đội cái lốt đáng kính ấy
của người xưa, và dùng những lời lẽ vay mượn đó, để trình diễn màn mới
của lịch sử”[44;145]. Rất đơn giản là họ muốn hiểu và nắm bắt được những
di sản quý giá đã trở thành mạch sống của dân tộc để giữ gìn, kế thừa, phát
triển và khẳng định giá trị đích thực của chúng trong cuộc sống hiện tại.
Lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
chứng minh rằng: để trường tồn và phát triển trên mảnh đất đầy hiểm họa
xâm lăng và có nguy cơ bị đồng hóa, ông cha ta đã biết dựa vào sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc để thực hiện quyền độc lập tự chủ của mình. Một
trong những sức mạnh tổng hợp đó chính là bản sắc, văn hóa truyền thống,
giá trị tinh thần dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu đề tài trên cũng chính là đi tìm
một trong những khía cạnh bản sắc, giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc,
hiểu và tin vào các truyền thống văn hóa tốt đẹp và lâu đời của dân tộc ta.
Trên cơ sở đó biết chọn lọc, hiện đại hóa các giá trị tinh thần truyền thống
để đáp ứng được nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng ta đề ra
cho văn hóa là “xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay có rất nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên
cứu về Phật giáo, vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội. Có thể kể đến
các công trình như: “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (2 tập) của Lê Mạnh
Thát; “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang; “Tư tưởng Phật
giáo Việt Nam”; “Triết học Phật giáo” của Nguyễn Duy Hinh; “Việt Nam
Phật giáo sử lược” của Thích Mật Thể hay “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”
của Viện Triết học do Nguyễn Tài Thư chủ biên
4

Nghiên cứu về thời Trần và Phật giáo thời Trần có các công trình tiêu
biểu sau: “Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý – Trần”, của
Nguyễn Công Lý; “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần”, của Viện sử

học, Ủy ban Khoa học xã hội; “Thơ văn Lý – Trần” của Viện văn học;
“Văn học đời Trần” của Ngô Tất Tố; “Tư tưởng triết học của Thiền phái
Trúc Lâm đời Trần” của Trương Văn Chung; “Thiền học đời Trần”, “Thiền
học Trần Thái Tông” của Nguyễn Đăng Thục
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết công bố trên các hội thảo, các tạp chí:
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo;Tạp chí Công tác tôn giáo; Tạp chí Cộng sản;
Tạp chí Triết học; Tạp chí Nghiên cứu lý luận; Tạp chí Nghiên cứu Phật
học; Tạp chí Giác ngộ viết về Phật giáo thời Trần ở nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau. Hội thảo: “Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông: 1258-
1308”, Trường Đại học Khoa học Huế, tháng 12, năm 2003; “Đức vua –
Phật hoàng Trần Nhân Tông cuộc đời và sự nghiệp” (nhân 700 năm ngày
nhập niết bàn: 1308-2008) tại Quảng Ninh
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên khi nghiên cứu lịch sử
Phật giáo hay vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam một
cách riêng biệt từ nhiều góc độ tiếp cận: văn hóa học, sử học, dân tộc học,
tôn giáo học, triết học mà chưa có công trình nào đề cập một cách hệ
thống về “vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt
Nam (Qua triều Trần)”. Vì vậy, việc nghiên cứu “Vai trò của Phật giáo
trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt (Qua triều đại Trần)”, dưới
góc độ Tôn giáo học, chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ hơn vai trò của Phật
giáo trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam trên một số phương diện:
Văn hóa tư tưởng; Văn hóa tín ngưỡng và đạo đức lối sống của người Việt
Nam, đề xuất một số kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị của
Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam hiện nay.
5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận mác xít về tôn giáo, vai
trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, luận văn tìm hiểu về vai trò của Phật
giáo trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
Thứ nhất: Phân tích khái quát về Phật giáo triều Trần.
Thứ hai: Trình bày một số đóng góp của Phật giáo trong đời sống văn
hóa tinh thần người Việt Nam (qua triều Trần).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam (Qua
triều đại Trần).
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh
thần người Việt Nam (qua triều đại Trần) trên một số lĩnh vực: Văn hóa tư
tưởng; Văn hóa tín ngưỡng và đạo đức lối sống của người Việt Nam và đề
xuất một số kiến nghị nhằm phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo triều
Trần trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm mác xít về tôn
giáo và vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Luận văn cũng kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về Phật giáo Việt Nam, vai trò của Phật giáo trong đời
sống văn hóa tinh thần Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học, phương
pháp thống nhất giữa lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh.
6

6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa
tinh thần người Việt Nam qua một số lĩnh vực: Văn hóa tư tưởng; Văn hóa

tín ngưỡng và đạo đức lối sống của người Việt Nam, luận văn chỉ ra những
giá trị văn hóa triều Trần để chúng ta không những phải giữ gìn mà còn
phát huy những giá trị đó trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở phân tích một số ảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam (qua triều đại Trần), ở
một số lĩnh vực: Văn hóa tư tưởng; Văn hóa tín ngưỡng và đạo đức lối
sống của người Việt Nam, đề xuất một số kiến nghị nhằm giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hóa Phật giáo triều Trần giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, cho
việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước .
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.





7

Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO TRIỀU TRẦN

1.1. Những tiền đề của sự tồn tại và phát triển Phật giáo triều Trần
1.1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội
Vương triều Trần được thành lập năm 1225 với vua thứ nhất là Trần
Thái Tông (1225-1258). Triều Trần tồn tại 175 năm, trải qua 14 đời vua,
nhưng giai đoạn hưng thịnh nhất của triều Trần về kinh tế, văn hóa, chính

trị, quân sự là dưới các đời Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông (1258-
1278), Trần Nhân Tông (1279-1293), và Trần Anh Tông (1293-1314).
Khi bắt tay vào tổ chức, xây dựng triều chính, phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội, nhà Trần một mặt vẫn kế thừa nhà Lý, mặt khác đã có những
thay đổi đáng kể cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn đất nước và nhu cầu
xã hội. Chính vì vậy, dưới thời Trần, tình hình văn hóa xã hội nước ta có
nhiều khởi sắc và tạo được những thành tựu, đặc biệt là về văn hóa nghệ
thuật có giá trị trường tồn muôn đời cùng hậu thế.
Chính quyền tập trung thống nhất được khôi phục. Sức sản xuất tiếp
tục đi lên. Nông nghiệp phát triển nhờ khẩn hoang, đắp đê, lấn biển. Công
thương nghiệp cũng có những bước tiến mới. Nhiều làng thủ công xuất hiện.
Kinh tế hàng hóa có khởi sắc. Thuyền buôn nước ngoài tụ tập đông hơn ở
Vân Đồn và các cửa biển khác. Bộ máy hành chính được xây dựng hoàn
chỉnh từ trung ương đến tận làng xã. Bộ sách Thông chế được biên soạn, xác
định các quy chế, luật lệ, lễ nghi của Nhà nước. Tinh thần dân tộc đã phát
triển, được nâng cao thêm sau những cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
thắng lợi, tác động mạnh mẽ tới văn học nghệ thuật, văn thơ Nôm ra đời.
Sự phát triển cực thịnh của Phật giáo triều Trần không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên, bất thường, mà là một hiện tượng có tính lịch sử tất
8

yếu. Nó không những phản ánh những phương diện văn hóa xã hội lúc bấy
giờ mà còn cho thấy sự phát triển nội tại của Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo thời Trần phát triển trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam
(1225-1400) là một giai đoạn phát triển đặc biệt với nhiệm vụ xây dựng và
chiến đấu bảo vệ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc. Đây là nhiệm vụ lịch
sử mang tính sống còn, buộc các thế hệ cha ông ta phải chấp nhận và giải
quyết. Trong bối cảnh đó dường như mọi hoạt động trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) đều hướng về một mục
đích, quy tụ theo một ý chí nhất định để giải quyết mâu thuẫn cơ bản kéo

dài nhiều thế kỷ. Đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với quân xâm
lược phương Bắc mà cụ thể là quân Nguyên Mông.
Mặt khác, Phật giáo thời Trần phát triển trên cơ sở sự vận động biến
đổi của những nhân tố kinh tế, làm biến đổi kết cấu giai cấp trong xã hội.
Đó là sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất dẫn đến sự
xuất hiện tầng lớp địa chủ quý tộc trong dòng họ nhà Trần và bộc lộ mầm
mống của những mâu thuẫn mới trong quan hệ giai cấp của chế độ phong
kiến nhà Trần. Phật giáo đã được các vua Trần sử dụng để điều hòa, làm
dịu đi những mâu thuẫn đó. Trong quan điểm nhân sinh, đạo đức của Phật
giáo đã phản ánh khá rõ mục đích này của dòng họ Trần. Chính vì vậy Phật
giáo thời Trần được tạo mọi điều kiện để phát triển, một mặt vừa phản ánh
nhu cầu, khát vọng của dân tộc Việt Nam đang xây dựng, bảo vệ một quốc
gia độc lập, tự chủ và thống nhất; mặt khác, nó là hệ tư tưởng phản ánh nhu
cầu và lợi ích của tầng lớp quý tộc dòng họ nhà Trần, đó là duy trì, củng cố
quyền lực và địa vị thống trị toàn xã hội của dòng họ này trên cơ sở một
quốc gia thống nhất, một chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh có
khả năng tập trung toàn bộ nhân lực, vật lực cho hoạt động chính trị và
quân sự.
9

Phật giáo thời Trần phát triển trên cơ sở kinh tế xã hội về cơ bản là
chế độ sở hữu Nhà nước về đất đai thông qua công xã nông thôn.
Thực chất của chế độ sở hữu Nhà nước là quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất thuộc về nhà vua, người đứng đầu Nhà nước chuyên chế. Quyền
sở hữu này được hiểu bằng quyền hưởng dụng những sản phẩm thặng dư,
quyền thu địa tô do thần dân cống nạp. Tuy nhiên quyền sở hữu Nhà nước
lại phải thiết lập trên các công xã nông thôn, và điều này được C.Mác bàn
đến khi nói về Phương thức sản xuất Châu Á, chỉ ra sự khác nhau giữa hình
thức sở hữu Nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây. Khác với
phương Tây, ở phương Đông ông cho rằng nhà vua là người nắm quyền sở

hữu tối cao về ruộng đất, còn các công xã lại được quyền chiếm dụng và
phân phối lại ruộng đất cho các thành viên công xã. Đây cũng là mối quan
hệ sở hữu kép về ruộng đất giữa nhà vua và công xã. Chính dựa trên nền
tảng kinh tế này, nhà Trần đã xây dựng Nhà nước quân chủ phong kiến độc
lập, tự chủ, có khả năng tập trung mọi của cải và nhân dân để thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp, thực hiện di dân, lập làng, lập "điền trang thái ấp", làm
các chức năng thủy lợi và trị thủy, đồng thời xây dựng một quân đội hùng
mạnh để ba lần đánh tan quân Nguyên Mông (1258,1285,1288).
Bản chất của quan hệ sở hữu kép về ruộng đất là bao hàm trong nó
sự tồn tại song song hình thức công hữu (công điền) và tư hữu (tư điền),
biểu hiện thành mâu thuẫn cơ bản giữa hình thức công hữu về ruộng đất với
sự chiếm dụng của tư nhân. Chế độ sở hữu công xã là cơ sở để thiết lập chế
độ sở hữu nhà nước và làm nền tảng cho một quốc gia thống nhất, một
chính quyền tập trung vững mạnh, đúng như Mác viết: "Chế độ sở hữu
công cộng về đất đai và những quan hệ sản sinh từ chế độ tư hữu đó bảo
đảm cho công xã nông nghiệp một cơ sở vững chắc"[45;358].
Bàn đến xã hội Đại Việt thời Trần, nhiều người thường quan tâm đến
chế độ điền trang thái ấp. Tuy nhiên, không nên hiểu điền trang thái ấp ở
10

đây như là một mô hình thường thấy ở Trung Quốc với những chế độ đặc
quyền đặc lợi. Điền trang ở nước ta nói chung, thời Trần nói riêng, không
phải là đất cát cứ, không phải là được cấp phong vĩnh viễn. Người chủ điền
trang không có địa vị như những lãnh chúa. Khác với cơ cấu nông thôn nó
vẫn nằm trong công xã cổ truyền và vẫn không theo làng xã. Công xã nông
thôn từ trước đã được hình thành có gốc rễ bền vững và có những mối
tương quan gắn bó với nhau, tạo nên một sự thống nhất, nhất định. Sự
thống nhất của nhiều đơn vị tiểu nông để thành ra một "nước". Từ bộ tộc xa
xưa, đến một dân tộc dần dần có ý thức sâu sắc hơn về một cộng đồng lớn
có quyền lợi chung, có trách nhiệm chung về sự tồn tại của nòi giống và đất

nước, nguyên nhân của sự đoàn kết toàn dân để tạo nên các thắng lợi của
Vua Hùng, Bà Trưng, Lý Bôn… cho đến Ngô Quyền, chính là do sự trưởng
thành ý thức ấy, mặc dù chưa thể gọi đó là ý thức trọn vẹn về một quốc gia.
Các vua nhà Trần tỏ ra là đã mặc nhiên cảm nhận được ý thức này và đã có
biện pháp để "kết dính" các công xã nông thôn này thêm bền chặt. Họ đã
tận dụng mối quan hệ thân thuộc, quan hệ dòng họ để củng cố cơ cấu dòng
họ, đồng thời để thống nhất, độc tôn uy lực của vương triều mình. Các con
cháu, anh em tôn thất của nhà Trần được chia điền trang thái ấp mà không
được thành chế độ cát cứ phân phong là do đó. Các điền trang không phá
vỡ làng. Văn hóa làng xã cổ truyền vẫn không ngừng tiếp nối truyền thống
của mình, không gặp trở ngại. Các chủ điền trang thái ấp đều tự giác ý thức
trách nhiệm đối với vương triều, tức là đối với Nhà nước. Bằng chứng hùng
hồn nhất của sự khuôn theo làng xã, tôn trọng văn hóa công xã này là Hội
nghị Diên Hồng nổi tiếng trong lịch sử nước ta. Không phải là các vương
hầu được gọi về Thủ đô để Quan gia tham khảo ý kiến mà phải là các bô lão.
Đặc biệt, khi nói tới văn hóa thời Trần thì không thể bỏ qua văn hóa
Phật giáo. Bởi văn hóa Phật giáo thời Trần mang sắc thái riêng. Khi nhắc
tới Phật giáo thời Trần thì không thể tránh khỏi có sự băn khoăn, vì sao đi
11

theo đạo Phật mà nhà Trần vẫn tiến hành được cuộc chiến tranh, lại tiến
hành một cách thắng lợi? Vì sao đi tu là phải thoát ly, phải diệt dục mà vẫn
cứ có những ông vua, ông tướng với bao nhiêu quyền lợi vật chất không hề
có bóng dáng sắc không, và hầu hết các môn đồ Phật tử dưới thời đại nhà
Trần, lại đều là những con người nhập cuộc. Có lẽ, do các thiền sư, các nhà
vua đời Trần đã có chủ trương xây dựng một thứ tôn giáo riêng của người
Việt Nam, dù đó là tôn giáo Phật. Điều này được thể hiện trong sự hình
thành và phát triển của Trúc Lâm Yên Tử. Tổ Trúc Lâm thứ nhất (Trần
Nhân Tông), là một ông vua gần như hiện thân khác của Tất Đạt Đa ở đất
nước Việt Nam (có đủ xuất xứ, bước đi như Phật Tổ). Phật đã có ở Việt

Nam, không phải ở đâu xa lạ. Và lý thuyết của Phật tổ này, căn bản cũng
khác với phái Thiền ở Ấn Độ, hay Trung Quốc mà điều chủ yếu của tôn
giáo này là sự chuyển hóa từ vô vi xuất thế sang nhập thế hữu vi. Theo Phật
hay theo Nho, vấn đề chủ yếu là ở chỗ "Nam và Bắc bên nào có vua nước
ấy làm chủ, không cần phải noi theo nhau"[30; 391]. Đó là lời của các vua
Trần Minh Tông, Trần Nghệ Tông…
Nhìn chung, dưới Triều Trần, một thế lực cân bằng ổn định về kinh
tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và
nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của Nhà nước, quyền sở hữu
ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế với các đẳng cấp quý tộc, quan lại (điền
trang thái ấp) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công). Chính điều
này đã tạo ra sự ổn định cho đời sống chính trị xã hội, cuộc sống của nhân
dân được thanh bình, có phần sung túc. Đất nước Đại Việt thời Trần luôn
thanh bình, dồi dào sinh khí.
Do vậy, những cơ sở kinh tế - xã hội của thời Trần đã làm nền tảng
cho sự phát triển về mặt ý thức xã hội nói chung, Phật giáo nói riêng.
Về diện mạo văn hóa thì cả văn hóa bác học lẫn văn hóa dân gian là
rất đặc sắc. Thời Trần đã xuất hiện thơ Nôm, cùng với việc làm thơ này còn
12

xuất hiện cả một ý thức dân tộc: Muốn có Hàn Luật để khỏi phải dùng
Đường Luật. Bộ sử ký ở tầm quốc gia ra đời. Các nhà thơ ưu tú xuất hiện
đông đảo. Trình độ văn hóa của nhân dân mặc dù chưa đến lúc phổ cập
nhưng chắc chắn không phải là tuyệt đại đa số là thấp kém (vì dân số ít, các
trường học, các nhà chùa lại mở nhiều lớp học). Phải có một thế lực nào đó,
nên sau này Trần Nguyên Đán mới có câu nói tự hào: "Các tướng sĩ ra trận
đều biết chữ, các nhân vật giúp việc cạnh các quan phần lớn đều biết làm
thơ":
"Đầu tướng tòng quân giai thức tự
Lại viên tượng thự diệc năng ghi"[55;10].

Những câu thơ như "Hoan Diễn do tồn thập vạn binh", "Vạn cổ thử
giang san" hay bài thơ của Phạm Ngũ Lão đã trở thành châm ngôn, người
không biết chữ Hán cũng hiểu được. Nhất là trong văn hóa dân gian, ta có
thể thấy nhiều sự kiện như Lê Hoàn lập đền thờ Phù Đổng, và sau đó một
loạt những thiên thần, nhân thần được tôn vinh để ta sớm có những cuốn
sách như: "Việt điện u linh", "Lĩnh Nam chích quái". Và nhiều hơn bất cứ
một dân gian lịch sử nào ở nước ta là những giai thoại về các tướng lĩnh đời
Trần. Nhiều mẩu chuyện chung quanh các vị chỉ huy phổ biến là những câu
nói kiên cường, những cử chỉ chứng tỏ tâm hồn, trí tuệ và phong cách như
trường hợp Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, những giai
thoại về tinh thần chiến đấu, những mẹo mực tài tình của các trang dũng sĩ
cả miền núi lẫn miền xuôi: Hà Bổng, Hà Đặc, Hà Chương, Nguyễn Thế
Lộc, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng… Một nét chú ý của kho tàng giai
thoại này là tất cả các câu chuyện đều là chuyện thực trong lịch sử, nhưng
đã trở thành chuyện dân gian không còn nguyên mẫu của nó, thêm bớt mà
đã rất đậm đà chất mộc mạc của dân dã và nét hùng tráng của sử thi như
chuyện xung quanh quả cam của Trần Quốc Toản, chuyện đối đáp ngoại
giao của Lê Đà, Đinh Củng Viên, Trần Khắc Chung, chuyện xông pha tên
13

bom đạn của Lê Phụ Trần. Có cả bài thơ Thuật Hoài bên cạnh chuyện vót
nan đan rổ của Phạm Ngũ Lão. Bên cạnh đó còn có nhiều chuyện vui, có ý
nghĩa giáo dục như chuyện Hoàng Cự Đà không được ăn xoài, ý nghĩa
châm biếm như chuyện giặc Phật, chuyện quấy nhiễu của Phạm Nhan.
Ngoài ra cũng còn phải kể đến một số những câu chuyện thần tích,
hoặc từ một sự thực về sau được tô thêm nhiều nét hoang đường, hoặc có
thể là hoàn toàn hư cấu như những câu chuyện về Lý Phục Man, về Hồi
Thiên thần vương và Trường Tân Nhị tướng (Lý Thạch, Hà Anh), chuyện
của Châu Nương, bà chúa giữ Kho (Hà Nội), chuyện Ngọc Nương, Bảo
Nương (Hải Hưng), bà Thánh Mẫu đền Cờn (Nghệ An), chuyện Bảo Linh

Thánh Nương, Ngô Thị Nương Nương và những nhân vật phụ nữ khác liên
quan trực tiếp đến cuộc chiến đấu như bà Trần Thị Dung, công chúa An
Tư, liên quan gián tiếp như công chúa Huyền Trân (Thanh Hóa)…
Vào thời này nhiều hội hè diễn xướng ra đời với khuynh hướng tái
hiện lại hay kỷ niệm chiến công như: Hội thề Đồng Cổ, hội Gióng, hội Phật
hẳn đã trở thành những hội diễn truyền thống.
Về sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao ở cung đình và
ngoài xã hội thì chưa có sự phân biệt. Có những vị hoàng tử tham gia đánh
vật, đánh cầu, những nghệ nhân được phong chức như Phạm Thị Trâm,
những vị vua đời Tiền Lê, Lý, Trần đều cùng nhảy múa tại các hội đền
Quảng Chiêu, hội hóa trang trên đài Xuân Thu.
Một hiện tượng văn hóa đáng chú ý nữa thời Trần là những sinh hoạt
liên quan đến tín ngưỡng, hội hè, tế lễ…Hình như trong các đạo riêng của
Việt Nam: Đạo thánh đã góp vào tín ngưỡng khá nhiều vị "thánh", cho lòng
tin của dân gian. Có đến 4 vị thánh nữ như Tứ vị thánh nương hay Hồng
Nương. Có đến cả một hệ thống Trần triều nhập vào đạo Tứ phủ. Còn Trần
Hưng Đạo thì thành Đức Thánh Trần hoặc Đức Thánh Cha "Tháng Tám gỗ
cha, tháng ba giỗ mẹ". Rất ít thời đại có hàng loạt vị Thánh như thế để đi
14

vào tiềm thức dân gian. Những ngày hội Vạn Kiếp, những cuộc đua thuyền
như việc kỷ niệm Yết Kiêu, những cuộc hành hương ở đền Cửa Ông… đều
gây được ấn tượng lớn trong tâm trí người Việt.
Về mặt phong tục, cũng nên chú ý rằng lúc này việc giao lưu với bên
ngoài đã khá quen thuộc, nhưng họ rất có ý thức về cái riêng của đất nước
mình như: tục xăm mình, tục ăn trầu với cau tươi chứ không ăn cau khô
như dân Màn Quảng, tục ăn tết hàn thực mà vẫn đốt lửa (gọi là tết thượng
tị), chứ không phải theo cách ăn và một số tục khác.
Chính trên nền tảng kinh tế, văn hóa, xã hội như trên, chúng tôi
khẳng định rằng đây chính là cơ sở, là tiền đề cơ bản cho sự phát triển của

Phật giáo triều Trần, đồng thời cũng từ đây mà Phật giáo triều Trần có
những đặc điểm, sắc thái riêng, làm nền cho Phật giáo Việt Nam sau này.
Tuy nhiên, để nhìn nhận sự phát triển của Phật giáo một cách toàn
diện, khách quan, chúng ta không thể bỏ qua những nền tảng của Phật giáo
dưới các triều đại trước đó, bởi nó là rường cột, mực thước cho sự phát
triển tiếp theo của Phật giáo triều Trần.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Phật giáo triều Trần phát triển cực thịnh, đánh dấu mốc son vàng
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Có được điều đó, trước hết Phật giáo
triều Trần đã dung hợp và kế thừa được tinh hoa tư tưởng Phật giáo đời
trước (từ khi du nhập đến triều Lý) để xây dựng và tạo nên bản sắc, đặc
tính riêng của mình khác với Phật giáo trong các giai đoạn trước đó và kể
cả sau này. Sau đó là “tùy duyên”, “nhập thế”, “khế lý”, “khế cơ” phù hợp
với tư tưởng Nhà nước phong kiến Đại Việt.
Bình diện Phật giáo trước triều Trần: Phật giáo truyền vào Việt
Nam từ rất sớm. Theo hiểu biết hiện nay của giới nghiên cứu lịch sử, thì
Phật giáo vào Việt Nam từ những năm đầu Công Nguyên. Chính sử Trung
Quốc cũng đã ghi nhận rằng vào những năm đầu Công Nguyên trong khi ở
15

miền Nam Trung Quốc chưa biết đến Phật giáo thì ở Luy Lâu, còn gọi là
Liên Lâu (thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) là Quận trị của Giao
Chỉ (tên của người Hán gọi sau khi xâm lược Nam Việt) đã có một trung
tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh, tương đương với trung tâm Lạc
Dương (Lạc Dương là kinh đô của Đông Hán ở phía Nam sông Hoàng Hà,
thuộc tỉnh Nam Hà, Trung Quốc ngày nay) và Bành Thành (Bành Thành là
kinh đô của nước Sở, nằm ở hạ lưu sông Trường Giang, thuộc tỉnh Giang
Tô, Trung Quốc ngày nay). Theo sách “Lý Hoặc Luận” của Mâu Tử thì
cuối thế kỷ II, ở Giao Châu đã có Tăng đoàn đông đến 500 người, trong khi
ở Trung Quốc mãi đến thế kỷ III mới có Tăng đoàn.

Thời kỳ đầu truyền bá Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ
Ấn Độ sang bằng đường biển cùng với các thương nhân. Các thương nhân
Ấn Độ thường đưa các nhà sư Phật giáo theo các thuyền buôn để cầu
nguyện cho sự bình an và thuận buồm xuôi gió. Ngay từ thế kỷ đầu Công
Nguyên đã có những nhà sư đi theo các thuyền buôn Ấn Độ vào Việt Nam
nhưng không được sử sách ghi lại nên trở thành vô danh. Từ cuối thế kỷ II,
đầu thế kỷ III, các nhà sư truyền giáo mới được sử sách ghi lại và họ trở
thành những nhà truyền bá Phật giáo đầu tiên vào Việt Nam. Trước hết
phải kể đến hai Tăng sỹ người Ấn Độ và Trung Á sang truyền giáo ở Việt
Nam là Ma Ha Kỳ Vực (Marajavaka), Khâu Đà La (K’sudara) đến Việt
Nam mới thế kỷ II – SCN. Hai ông đến Việt Nam trước khi vào Trung
Quốc. Tuy chỉ có Khâu Đà La ở lại, còn Ma Ha Kỳ Vực tiếp tục đến Lạc
Dương, nhưng hai ông đều được lịch sử ghi nhận là người truyền bá Phật
giáo vào Việt Nam. Đặc biệt những hoạt động truyền giáo và tu hành của
Khâu Đà La gắn với truyền thuyết nổi tiếng về nàng Man Nương và việc
thờ Tứ Pháp (Pháp Vân – Mây, Pháp Vũ – Mưa, Pháp Lôi – Sấm, Pháp
Điện – Chớp) mang đậm dấu ấn của cư dân nông nghiệp lúa nước vùng
đồng bằng sông Hồng.
16

Sau hai nhà truyền giáo nói trên là một số nhà truyền giáo Ấn Độ,
như Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, giữa thế kỷ III – SCN, và sau
đó nữa là Đạt Ma Đề Bà, khoảng thế kỷ IV – SCN… Khương Tăng Hội
(K’ang Seng Houei) là người gốc Khương Cư (Sogdiane) sinh ra tại Giao
Chỉ khoảng đầu thế kỷ III, năm 10 tuổi xuất gia tu hành, sau đó năm 247,
ông sang Giang Đông (Trung Quốc) truyền giáo. Ông là người học rộng,
giỏi cả tiếng Phạn và tiếng Hán, ông biên dịch nhiều tác phẩm Phật học có
giá trị như “Lục độ Tập kinh”, “Tiểu phẩm Bát nhã”,…có người cho rằng,
các tác phẩm của Khương Tăng Hội mang đậm tư tưởng Thiền nên nhiều
người nghiên cứu cho rằng ông ta là người đầu tiên đưa tư tưởng Thiền vào

Việt Nam. Chi Cương Lương (Kalaruci) hay Chi Cương Lương Lâu Chí
(Kalyanaruci), Hán dịch là Châu Hỷ, người xứ Nhục Chi (Tukhary) đến
Giao Châu (tên của nhà Đông Ngô gọi sau khi chiếm được Giao Chỉ của
Nam Việt) và Quảng Châu tu hành, truyền giáo vào khoảng giữa thế kỷ thứ
III. Ở Giao Châu, Chi Cương Lương được sự giúp đỡ của Đạo Thanh – một
tăng sĩ đất Giao Châu, đã dịch kinh “Pháp Hoa Tam Muội” trong tập “Đại
Thừa Kinh” để giúp đỡ cho việc tu học. Đạt Ma Đề Bà (Dharamadeva),
người Ấn Độ đến Giao Châu vào khoảng nửa cuối thế kỷ V, sau đó sang
Trung Quốc. Tại Việt Nam ông dịch nhiều sách trong đó có quyển “Niết
Bàn luận”.
Thời kỳ này, bên cạnh đa số các nhà truyền giáo là người Ấn Độ thì
cũng đã xuất hiện một số nhà truyền giáo Trung Quốc sang Việt Nam như
Mâu Tử (cuối thế kỷ II), Du Pháp Lan (giữa thế kỷ IV), Du Đạo Toái (giữa
thế kỷ IV), trong đó Mâu Tử là người có ảnh hưởng lớn hơn cả, với bộ sách
lớn mà ông viết về Phật giáo là “Lý Hoặc Luận” (sách gồm 37 câu hỏi và
trả lời, chủ yếu các vấn nạn của những người theo Nho giáo, Đạo giáo về
Phật giáo).
17

Đến thế kỷ V Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi trên đất nước
và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có danh tiếng như: Huệ Thắng,
Đạo Thiền, Đạo Cao và Pháp Minh… Huệ Thắng (440-479) tu ở núi Tiêu
Châu và trở thành đệ tử của Đạt Ma Đề Bà, sau đó ông được mời sang
Bành Thành, Trung Quốc để thuyết pháp, đóng góp vào quá trình phát triển
Phật giáo ở Trung Quốc. Đạo Thiền (457-527) tu thiền tại núi Châu Sơn, là
người giỏi về Giới luật và giữ gìn đạo hạnh nên có danh tiếng rộng thu hút
được nhiều người tin theo. Chính vì thế mà ông cũng được mời sang Trung
Quốc để giảng về Phật học. Đạo Cao và Pháp Minh là hai nhà sư Việt Nam
sống vào giữa thế kỷ V, tu đắc đạo và nổi tiếng uyên bác với sáu lá thư trao
đổi về Phật pháp và tư tưởng Thiền Tông với sứ quân Lý Miễu người

Trung Quốc theo Nho giáo.
Như vậy, thời kỳ đầu Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu từ Ấn Độ sang
bằng đường biển. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng, khoảng thế kỷ III
TCN dưới thời vua A Dục sau khi thống nhất Ấn Độ, ông đã nâng đỡ Phật
giáo, tổ chức những đoàn thuyền truyền giáo từ Ấn Độ sang Miến Điện,
Thái Lan, Việt Nam,…Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cứ liệu lịch sử
để chứng minh.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn
được xem là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, giai đoạn này, ảnh hưởng
của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo
Trung Quốc tăng lên. Đáng chú ý hơn cả là việc các phái thiền Trung Quốc
du nhập vào Việt Nam. Cụ thể là:
- Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci). Năm 562, Tỳ Ni Đa
Lưu Chi là người Ấn Độ sang Tràng An, Trung Quốc tu học nhưng gặp
cảnh Phật giáo ở Trung Quốc bị pháp nạn nên ông đến đất Nghiệp và trở
thành học trò của Tăng Xán, tổ thứ ba của phái Thiền Trung Quốc (Thiền
tông ở Trung Quốc là một tông phái lớn, với cây phả hệ là: “Lục tổ”, “Ngũ
18

gia”, “Thất tông”. Lục tổ là 6 vị tổ sư bao gồm: Bồ Đề Đạt Ma, Tuệ Khả,
Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng; Ngũ gia tức là từ tổ thứ 6 là
Huệ Năng chia thành 5 nhánh: Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân
Môn, Pháp Nhãn; về sau Lâm Tế lại phân thành 2 nhánh: Dương Kỳ và
Hoàng Long, thành 7 chi gọi là Thất tông). Cuối thời kỳ hậu Lý Nam Đế,
khoảng năm 580, sau khi thụ giáo Thiền tông từ tổ Tăng Xán, Tỳ Ni Đa
Lưu Chi đã vào Việt Nam tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh) và trở thành tổ
sư đầu tiên của phái Thiền Việt Nam với tư cách là một tông phái. Theo
sách “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thích Minh Tuệ, Phái Thiền Tỳ Ni
Đa Lưu Chi ở Việt Nam có 19 đời với 29 vị đại sư.
Cùng với thời gian của phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền vào Việt

Nam, còn có các đoàn truyền giáo hoạt động ở Việt Nam. Đoàn thứ nhất
chủ yếu là các nhà sư Trung Quốc, gồm Pháp sư Minh Viễn vùng Ích Châu
(Tứ Xuyên ngày nay), Thiền sư Tuệ Mạng vùng Kinh Châu (Hồ Bắc ngày
nay), Thiền sư Vô Hành vùng Kinh Châu (Hồ Bắc ngày nay); đoàn thứ hai
gồm Pháp sư Đàm Nhuận vùng Lạc Dương (Trung Quốc), Pháp sư Trí
Hoằng vùng Lạc Dương (Trung Quốc), nhà sư Tăng Già Bạt Ma
(Sanghavarma) người Ấn Độ; đặc biệt, đoàn thứ ba gồm sáu nhà sư người
Việt Nam như Thiền sư Kỳ Vân, Pháp sư Giải Thoát, Pháp sư Khuy Sung,
Pháp sư Huệ Diệm, Pháp sư Trí Hành, Thiền sư Đại Thặng Đăng.
Những thế kỷ VI, VII, VIII, Phật giáo ở Việt Nam khá thịnh hành.
Giữa thế kỷ VI, Lý Bí sau khi lên ngôi lấy hiệu Lý Nam Đế đã cho xây
ngôi chùa lớn ở Yên Hoa lấy tên là chùa Khai Quốc. Sau này trở thành một
trung tâm Phật giáo của Thăng Long. Sau đó, nhiều ngôi chùa được xây
dựng ở các châu, các quận, từ Tuyên Quang đến Nghệ An (lúc đó nhà
Đường chia Nam Việt thành 12 châu gọi là An Nam đô hộ phủ - tên gọi An
Nam cũng được gọi từ đây). Đặc biệt thời kỳ này, Phật giáo Việt Nam có
nhiều danh tăng nổi tiếng về con đường tu trì và trình độ Phật học. Trước
19

hết phải kể đến Thiền sư Pháp Hiền (?-626) quê ở Chu Diên, nay thuộc Gia
Lâm Hà Nội. Thiền sư xuất gia tu hành tại chùa Pháp Vân, được Thiền sư
Tỳ Ni Đa Lưu Chi thu nhận làm đệ tử. Sau khi được truyền tâm ấn, Thiền
sư Pháp Hiền đi hoằng hóa thu nhận đệ tử, có đến 300 người được Pháp
Hiền dạy dỗ, giáo hóa. Danh tiếng của Thiền sư Pháp Hiền được sâu rộng
trong quảng đại quần chúng, đến mức thứ sử Giao Châu Lưu Phương và
Pháp sư Đàm Thiên dâng sớ lên vua Tùy Cao Tổ (Trung Quốc) ca ngợi
ông, coi ông là Bồ Tát sống. Ngoài Pháp Hiền, còn có các nhà sư trình độ
Phật học uyên thâm được các vua nhà Đường mời sang thuyết pháp và
xướng họa thi phú với các thi hào Trung Quốc như Pháp sư Phụng Đình,
Pháp sư Duy Giám, Thiền sư Nhật Nam,

Phái Thiền Vô Ngôn Thông: Hai trăm năm sau phái Thiền Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, năm 820, phái Thiền thứ hai là Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc
truyền vào Việt Nam. Vô Ngôn Thông họ Trịnh, vốn người Quảng Châu
(Trung Quốc), tu học tại chùa Song Lâm, Triết Giang. Tính ông ít nói, trầm
lặng nhưng hiểu nhiều và thông tường mọi sự, vì thế người đương thời gọi
ông là Vô Ngôn Thông, có sách chép là Bất Ngữ Thông. Năm 820, ông
sang Việt Nam tu ở chùa Kiến Sơ (thuộc Hà Nội ngày nay). Ông truyền
tâm ấn cho một học trò người Việt là Lập Đức, hiệu là Cảm Thành (người
trụ trì chùa Kiến Sơ trước khi Vô Ngôn Thông đến) hình thành phái Thiền
Vô Ngôn Thông ở Việt Nam. Phái Thiền Vô Ngôn Thông có sự khác biệt
với phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở chỗ, thiền Vô Ngôn Thông theo Trung
Quốc, chú trọng đến các lý thuyết về chân như, tâm Phật, sinh tử, còn
thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi giữ nguyên gốc theo Ấn Độ. Theo sách “Lược sử
Phật giáo Việt Nam” của Thích Minh Tuệ, Phái Thiền Vô Ngôn Thông có
16 đời với 40 vị sư tổ.
Nói chung, hai dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông đã
sản sinh ra nhiều bậc cao tăng, nhiều nhà Phật học uyên thâm, có những vị
20

rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc. Thời kỳ trước thế kỷ
X có các thiền sư như: Cảm Thành, Pháp Hiền, Thông Biện, Định Không,
Thiện Hội,… Thời kỳ các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần có các thiền sư
như Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Ma Ha, Thiền Ông, Vạn Hạnh.
Như vậy, mười thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong
hoàn cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng Phật giáo đã tạo ra được
ảnh hưởng trong nhân dân và có những chuẩn bị rất căn bản cho sự phát
triển mới trong giai đoạn đất nước độc lập, tự chủ.
Năm 1010, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời, triều thần đưa Lý Công
Uẩn quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh là Điện tiền chỉ huy sứ lên ngôi vua, đặt hiệu
là Lý Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà Lý. Năm 1054, sau khi lên ngôi, Lý

Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt. Nhà Lý trải qua 9 triều vua.
Vương triều Lý đã có công làm cho nước Đại Việt trở thành một
quốc gia cường thịnh trong suốt hơn hai thế kỷ. Bộ máy Nhà nước phong
kiến tập quyền được tổ chức hoàn bị từ trung ương tới địa phương. Hình
thư – bộ luật thành văn đầu tiên được công bố. Trong thì ổn định và phát
triển, ngoài thì đánh Tống, bình Chiêm thắng lợi. Đặc biệt với việc dời kinh
đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), nhà Lý đã mở đầu cho thời kỳ văn
hóa mới của Việt Nam – Văn hóa Thăng Long.
Triều Lý đã mở ra thời kỳ phát triển rực rỡ của Phật giáo Việt Nam.
Vai trò của Phật giáo trong đời sống được thể hiện rất rõ không chỉ trong
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội mà cả chính trị. Các Thiền sư tham gia cố
vấn chính trị cho các vua được gọi là Quốc sư (Vạn Hạnh, Khô Đầu, Thông
Biện, Viên Chiếu là những Tăng sĩ được ban hiệu Quốc sư). Năm 1010, Lý
Thái Tông lên ngôi đã chọn những người xuất sắc cho đi xuất gia. Năm
1016 ở Kinh đô Thăng Long có tới 1000 người đã được tuyển chọn để xuất
gia là Tăng sĩ và Đạo sĩ. Cuối thời Lý số Tăng sĩ quá nhiều, những tệ lậu đã
nảy sinh, vua Lý Cao Tông đã cho khảo hạch các Tăng quan và sa thải bớt.
21

Dười thời Lý, vua đã sai người sang Trung Hoa lấy kinh Tam Tạng nhiều
lần và cho xây dựng các nhà tàng kinh như Bát Giác, Đại Hưng, Trùng
Hưng, chép và khắc lại kinh.
Và bằng chức năng liên kết xã hội, cố kết nhân tâm con người, các
vua thời Lý đã cùng dân chúng thực hiện theo biện pháp có ý thức là thúc
đẩy sự quảng bá của đạo Phật. Để giữ vững nền độc lập dân tộc cả sự vững
vàng ngôi vị của người cầm quyền phải cần đến một ý thức hệ nối kết con
người vượt trên thói quen, trung thành truyền thống với từng “lãnh tụ địa
phương” đã là mầm mống xung đột căn bản trước đó. Cho nên khi Đinh Bộ
Lĩnh dẹp tan các xứ quân thì ngoài cái uy chuồng cọp, vạc dầu, còn có sự
ủng hộ của tập đoàn Tăng đạo – nhất là Tăng được mời gọi lập thành hệ

thống quan gia có chức có quyền trên đỉnh cao xã hội. Triều Lý đã vượt lên
trên một bậc, trong khi chia sẻ hệ thống tín ngưỡng chung của thời đại đó,
bằng cách tự mình làm lãnh tụ tông phái (thiền phái) để thực hiện ý định
thu tóm quyền uy thế tục và siêu linh vào trong một tay. Lý Thánh Tông
mở phái Thảo Đường, Lý Cao Tông tự xưng là Phật , và các vị sư này đã
trở thành thần thánh thờ trong chùa, theo cách “tiền Phật hậu thần”. Nhà sư
Từ Đạo Hạnh (? – 1117) được tôn làm thánh, vì ông đã hóa phép sinh ra
vua Lý Thần Tông.
Qua sử sách cho thấy, phần lớn các vua quan trong triều đều mộ đạo
và nhiều nhà sư đã có những đóng góp to lớn đối với triều đình trong việc
trị quốc. Tuy nhiên, các thiền sư chỉ tham dự chính sự mà không tham gia
chính quyền, họ không nhận chức vụ trong nội cung do nhà vua tin dùng,
mà thường mời họ tới góp ý kiến trong việc trị nước, sau đó họ lại trở về
chùa. Lý do nào khiến các vua triều Lý rất tin dùng các thiền sư như vậy?
Có rất nhiều lý do, nhưng lý do cơ bản đó là họ là những người có học,
hiểu sâu, hiểu rộng triết lý sống của đạo Phật khiến họ luôn mang trong
mình ý thức về quốc gia, gần gũi với quần chúng và biết được những khổ
22

đau của người dân khi bị bóc lột, bị áp bức, nên họ không có ý tranh ngôi
nhà vua, tranh giành quyền bính và địa vị ngoài đời, họ không cố chấp vào
thuyết trung quân như các Nho gia (sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh từng làm
cố vấn chính sự dưới triều vua Lê Đại Hành, nhưng sau này lại tiếp tục
giúp đỡ các vua triều Lý); các vua muốn tận dụng tri thức và khả năng của
họ, vì khi mới lên ngôi vua đều ít có những quan lại vừa có tài, vừa có đức
trợ giúp, các nhà Nho thì không nhiều mà lại chỉ trung thành với một triều
đại. Hơn nữa, các vua nhà Lý hiểu rằng, sự trị hay loạn phụ thuộc vào hành
vi và đức độ của nhà vua.
Các vua triều Lý do đã thấm nhuần tinh thần giáo lý nhà Phật nên đã
biết khơi dậy lòng dân, thôi thúc họ chiến đấu. Bởi thế đạo trị nước an dân

của Đại Việt đã chịu ảnh hưởng không nhỏ một nền đức trị của Nho – Phật
giáo. Mặc dù Phật giáo là một tôn giáo xuất thế triết lý đời là bể khổ, nhưng
với tinh thần truyền thống của người Việt thì lại là nhập thế, hình thành nên
tư tưởng đại đoàn kết của nước Đại Việt, cùng chống lại ách áp bức của
dân tộc khác. Điều này được thể hiện trong tư tưởng chính trị của Lý
Thường Kiệt, khi ông thực hiện kế sách “Tiên phát chế nhân” đem quân
tiêu diệt quân thù trước khi chúng tiến vào xâm lược, ông nói: “Chỉ phân
biệt về lãnh thổ quốc gia, không phân biệt nhân dân”. Và trong bài Nam
Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước
Nam, ông đã thể hiện tinh thần đó.
Phật giáo với vị thế trên dưới triều Lý chính đó là nguyên do để các
vua cũng như quân thần thời Lý cùng góp sức đồng lòng, xây chùa với số
lượng tiền rất lớn mà không làm ảnh hưởng đến kinh tế của đất nước. Như
Lê Văn Hưu đời Trần đã chép lại:
“Xây tường cao ngất trời, đẽo đá mà dựng cột chùa, nhà Phật tráng lệ
gấp bội cung vua”.

×