ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG VĂN NAM
(Thích Trí Như)
ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG VĂN NAM
(Thích Trí Như)
ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Giáo viên hướng dẫn:
TS. Dương Văn Duyên
Hà Nội - 2010
108
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC, TƯ
TƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO 7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức 7
1.2. Tư tưởng giáo dục đạo đức trong Giới luật Phật giáo. 19
1.2.1. Khái quát một số nét chung về Giới luật Phật giáo 19
1.2.2. Nội dung tư tưởng giáo dục đạo đức trong Giới luật Phật giáo . 24
1.2.3. Ý nghĩa của Giới luật trong giáo dục đạo đức con người 38
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 48
2.1. Thực trạng và những yêu cầu về đạo đức đối với thanh niên
Việt Nam hiện nay 48
2.2.1. Thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay 48
2.1.2. Yêu cầu đạo đức đối với thanh niên Việt Nam giai đoạn
hiện nay 62
2.2. Một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo
đức thanh niên Việt Nam hiện nay 67
109
2.2.1. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo tới giáo dục tư tưởng đạo
đức thanh niên 67
2.2.2. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục niềm tin và
lý tưởng đạo đức cho thanh niên 73
2.2.3. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục nghĩa vụ và
hành vi đạo đức thanh niên 82
2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực
của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay 90
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên. Người sáng lập là thái tử Tất Đạt Đa (Sidahrtha), họ Gôtama
(Gautama), con vua Tịnh Phạn (một vương quốc Bắc ấn Độ) Phật giáo với
tư cách là một tôn giáo đặc biệt không đề cập đến thần sáng tạo ra thế giới
và con người. Khác với các tôn giáo khác (Kitô giáo: thượng đế, Đạo
Islam: Thánh Allah, Đạo giáo: Trời đại la sinh ra ba Thánh, Đạo Do Thái:
yaroeh (tồn tại mãi), Đạo Bàlamôn: Brahman…). Sự xuất hiện Phật giáo là
nhằm phủ nhận thế giới quan của đạo Bàlamôn, chống lại sự bất bình đẳng
của tôn giáo này, nó đã thể hiện tính tiến bộ, nhân văn nhất định. Phật giáo
đã chứa đựng sự kết hợp hai tư cách: tôn giáo và triết học. Với sự hoà quện
cả hai tư cách tôn giáo và triết học, Phật giáo đã sớm được truyền bá rộng
rãi và có ảnh hưởng sâu sắc tới văn hoá các nước châu Á: Trung quốc, Nhật
Bản, Triều Tiên… và Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo còn được truyền bá và
phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
Phật giáo được truyền bá vào nước ta từ những năm đầu Công nguyên
theo hai con đường là từ Ấn Độ và từ Trung Hoa. Phật giáo đã tồn tại ở
nước ta hơn 18 thế kỷ, một chiều dài lịch sử khá đủ để dân tộc ta khẳng
định và gạn lọc, khẳng định những gì tích cực và hay đẹp, gạn lọc những gì
không hợp. Sự thật hiển nhiên, những tư tưởng nhân văn cao đẹp của Phật
giáo trong kinh sách, nhất là trong giới luật đã ảnh hưởng không nhỏ tới lối
sống, đạo đức của nhân dân Việt Nam trong mấy nghìn năm từ rất nhiều
thế hệ và thuộc mọi tầng lớp.
Giới luật là một trong những nội dung quan trọng nhất trong giáo lý
của Phật giáo. Giới luật hàm chứa những nội dung tư tưởng giáo dục đạo
đức, nhân cách cao đẹp không chỉ đối với người tu hành mà còn ảnh hưởng
2
tốt đối với nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, đối với nước ta trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, dưới sự tác động của kinh tế
thị trường, những luồng tư tưởng văn hóa ngoại lai xâm nhập làm thay đổi
đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ các tầng lớp trong xã hội cả
theo hướng tích cực và tiêu cực. Thanh niên là một tầng lớp quan trọng
trong xã hội, là tương lai của đất nước, là những người đóng góp quan
trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên cũng là thế hệ trẻ
trung, năng động và dễ bị sức cuốn của những luồng tư tưởng văn hóa
ngoại lại, dễ bị tiêm nhiễm những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội như: lười
lao động, trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút… Vì vậy, việc giáo dục một lối
sống có đạo đức cho thanh niên ngày nay là rất cần thiết cho toàn xã hội, để
họ xứng đáng là những người sung sức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do đó, nghiên cứu ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo đối với đạo đức
thanh niên ở nước ta hiện nay không chỉ có ý nghĩa giáo dục truyền thống
đạo đức, định hướng lý tưởng sống mà còn hướng tới một xã hội chân,
thiện, mỹ, theo đúng tinh thần hành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam:
“Phật giáo đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về Phật giáo và Giới luật Phật giáo trong lịch sử và hiện
tại ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình, có thể kể đến một số công trình
điển hình sau đây: Các bộ phái Phật giáo tiểu thừa, tác giả André Bareau,
Pháp Hiền dịch, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003; Kimura Taiken với tác
phẩm Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, tác giả Thích Quảng Độ dịch,
Nxb.Tôn giáo, năm 2007; Lưu Vô Tâm với tác phẩm Phật học khái lược,
Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, năm 2002; Thích Minh Chánh với Luật học toát
yếu, Nxb. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1986; Thích
Thiện Chơn với Giới học, Nxb. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2009; Thích Tuệ Đăng với Giới luật học cương yếu, Nxb.
3
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000…. Nhìn chung các công trình kể trên
đề cập đến các nội dung nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, nguồn gốc ra đời,
giáo lý của Phật giáo nguyên thủy, các vấn đề về giới luật trong Phật giáo
dành cho người xuất gia cũng như người tại gia một cách rất cụ thể dưới
góc độ tiếp cận của thần học và tôn giáo.
Nghiên cứu về đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay có một số công
trình tiêu biểu sau: Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp
của tác giả Nguyễn Duy Quý chủ biên; Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên; Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn
giá trị xã hội của tác giả Huỳnh Khái Vinh chủ biên; Lý tưởng đạo đức và
việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay của
Đoàn Văn Khiêm; Giáo dục nhân cách cho tuổi trẻ của Phan Hà Sơn, Phát
triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Đức Tiến….Các công trình trên đã khái quát được những nội dung
chính về tình hình, thực trạng cũng như xu hướng biến đổi của đạo đức
thanh niên nước ta hiện nay. Những giá trị đạo đức thanh niên trong bối
cảnh đổi mới của đất nước cũng như mặt hạn chế trong đạo đức thanh niên
trước tác động của cơ chế thị trường, thông qua đó đề xuất các giải pháp
khác nhau nhằm xây dựng và hoàn thiện đạo đức thanh niên trong công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu về đạo đức Phật giáo có các công trình sau: “Đạo đức
Phật giáo trong thời hiện đại” của Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1993; Đặng Thị Lan với “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con
người Việt Nam”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2006; Tạ Chí Hồng
với “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội
Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2004; Hoàng
Thị Lan với “Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức trong xã hội
4
Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2004; Nguyễn
Phan Quang với “Có một nền đạo lý ở Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1996; … Trong đó tiêu biểu là công trình “Đạo đức Phật giáo
với đạo đức con người Việt Nam”, của Đặng Thị Lan, Nxb. Đại học Quốc
gia, Hà Nội, năm 2006. Công trình này về cơ bản hệ thống hóa được một
phần nào đó những tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo: những giá trị,
chuẩn mực đạo đức Phật giáo và sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo với
đạo đức truyền thống Việt Nam, đạo đức Phật giáo với việc xây dựng và
hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một
số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu
cực của đạo đức Phật giáo. Có thể đánh giá đây là một công trình nghiên
cứu công phu và có chất lượng, tác giả đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
dưới góc độ tiếp cận của triết học và tôn giáo học để chỉ ra những tác động
tích cực và tiêu cực của Phật giáo trong đời sống đạo đức con người Việt
Nam. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức Phật giáo với đạo đức thanh niên Việt
Nam và cụ thể hơn là ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo với giáo dục đạo
đức thanh niên nước ta hiện nay mới chỉ được tác giả đề cập đến trong công
trình của mình một cách khái quát nhất, chưa có sự phân tích theo hướng
chuyên sâu.
Ngoài ra, trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là Tạp chí Triết
học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, Tạp chí lý
luận chính trị cũng có một số bài đề cập tới Phật giáo, Giới luật Phật giáo
và đạo đức Phật giáo, đạo đức thanh niên Việt Nam. Đặng Thị Lan với Đạo
đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 2 năm 2002; Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo
đến việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục
Lí luận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội, số
5
11/ 2002; Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, Tạp chí
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1/ 2003; Phật giáo với đạo đức,
tâm lí, lối sống người Việt, Tạp chí Giáo dục Lí luận, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội, số 5/2003; Từ bi - giá trị nhân
bản của đạo Phật, Kỉ yếu Hội nghị Khoa học nữ lần thứ 8. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội,…
Điểm qua tình hình nghiên cứu như vậy đã cho thấy vấn đề “Ảnh
hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt
Nam hiện nay” là một chủ đề chưa được nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi hy
vọng với đề tài này sẽ khai thác, bổ sung và khẳng định những giá trị giáo
dục cao đẹp của Phật giáo, khẳng định vai trò Phật giáo trong lịch sử Việt
Nam nói chung và trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận mác xít luận văn phân
tích làm rõ những ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo
đức thanh niên Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
Thứ nhất: Luận văn khái quát một số vấn đề lý luận chung về đạo đức
và phân tích những nội dung cơ bản về tư tưởng giáo dục trong Giới luật
Phật giáo.
Thứ hai: Trình bày thực trạng và những yêu cầu về đạo đức thanh niên
ở nước ta hiện nay; phân tích một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo
trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Giới luật Phật giáo và đạo đức thanh niên
Việt Nam hiện nay.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số ảnh hưởng của
Giới luật Phật giáo (chủ yếu là Giới luật dành cho tín đồ Phật tử) trong giáo
dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực: giáo dục tư
tưởng đạo đức; giáo dục niềm tin và lý tưởng đạo đức; giáo dục hành vi và
nghĩa vụ đạo đức.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đựơc thực hiện trên cơ sở vận dụng các
quan điểm mác xít về tôn giáo và đạo đức.
Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về Giới luật Phật giáo, đạo đức thanh niên Việt Nam
hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu của Triết học và Tôn giáo học; phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Phân tích, làm sáng tỏ một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong
giáo dục đạo đức thanh niên ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu và phân tích
được ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo một cách có hệ thống.
Ý nghĩa thực tiễn: Vận dụng những tư tưởng giáo dục trong Giới luật
Phật giáo vào giáo dục thanh niên nước ta hiện nay. Luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung
và Phật giáo, đạo đức Phật giáo nói riêng, cho việc hoạch định chính sách
đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước .
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục;
nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.
7
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC,
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức
Thuật ngữ đạo đức (moral) được hình thành rất sớm trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ thứ IV trước công nguyên, gắn liền với tên
tuổi của nhà tư tưởng vĩ đại Aristot (384-322 trước công nguyên). Thời kỳ
xa xôi người ta quan niệm đạo đức là những chuẩn mực chung nhằm điều
chỉnh hành vi con người, sao cho tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con
người với nhau, giữa con người với xã hội.
Theo tiếng Hy Lạp cổ Ethos là luân lý; là thói quen; là phong tục tập
quán, thông qua đó mà điều chỉnh hành vi con người. Ngoài ra Ethos còn
có nghĩa là nơi cư ngụ, là quê hương, nguồn gốc, lai lịch, họ hàng.
Trong Nho giáo, đạo đức được lý giải ở cương thường, hay mở rộng
ra là luân thường.
Đạo là chỉ những mối quan hệ nhằm duy trì một trật tự từ gia đình
tới xã hội. Đó là mối quan hệ vua, tôi; cha mẹ, con cái; chồng, vợ; anh em;
bạn bè. Trong 5 mối quan hệ trên, 3 mối quan hệ đầu là phục tùng, tạo
thành tam cương: bầy tôi phải trung thành với vua, con cái phải phục tùng
cha mẹ, vợ phải phục tùng chồng. Ta có thể hiểu “Đạo chính là đường đi
lối lại của nề nếp, có phép tắc rõ ràng. Theo nghĩa đen và nghĩa bóng của
từ, đạo là con đường đúng đắn từ nơi đi cho đến nơi tới. Đạo là hệ thống
những nguyên lý, những phép tắc, những quy luật cơ bản của sự vận
động”[15;109].
Đức là những quy định, những yêu cầu phải thực hiện cho đúng trách
nhiệm của mỗi giới, mỗi người. Ví dụ như đối với nữ giới yêu cầu thực
hiện tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Đối với nam giới: Nhân, Lễ, Nghĩa,
8
Trí, Tín, Dũng, Liêm. Tất nhiên ở những nước khác nhau, sự ảnh hưởng
của Nho giáo có khác nhau.
Ở Trung Quốc thứ tự những phẩm chất được con người đề cao:
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; Ở Nhật Bản lại đề cao: Trung, Lễ, Dũng, Tín,
Kiệm. Còn ở Triều Tiên đề cao: Trung, Hiếu, Tín, Nhân, Dũng.
Theo Nho giáo, đạo đức là sự hướng dẫn, là sự định hướng để con
người vươn tới những điều tốt đẹp.
Đức là sự biểu hiện của đạo, là kết quả vận động của đạo. Đạo mà
không đúng, đức cũng không có. “Đạo là cái vật phải theo, đức là vật có
được do theo đạo”[15;121].
Đạo theo Nho giáo còn được hiểu là quy luật. Do vậy, trời có đạo của
trời, đất có đạo của đất, người có đạo của người.
Có thể nói, đạo đức là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với
người khác. Đạo đức luôn là mối quan hệ hai chiều, đòi hỏi mỗi người phải
thực hiện theo đúng vị trí của mình trong mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình hay ngoài xã hội. Đạo đức là phương thức xác lập mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, là phương thức điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân
và xã hội.
C.Mác cho rằng, đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người
trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực
của cái thiện.
Đạo đức được đề cập trong Từ điển tiếng Việt là “những tiêu chuẩn,
những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan
hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”[84;280].
Qua các ý kiến khác nhau, chúng tôi có thể khẳng định đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những hành vi và đánh giá cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và thông qua dư luận xã hội.
9
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh những mối quan hệ
xã hội. Có đạo đức thời kỳ cộng sản nguyên thủy, đạo đức thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức có
tính chất kế thừa. Một chế độ xã hội mất đi, thay thế bằng một chế độ khác,
đạo đức xã hội cũ không mất đi ngay mà trong chế độ xã hội mới, đạo đức
của nó kế thừa những giá trị đạo đức của xã hội cũ. Đạo đức xã hội có đạo
đức thế tục, đạo đức tôn giáo.
Đạo đức được cấu thành từ một số phương diện sau:
Thứ nhất: Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo đức và thực tiễn
đạo đức (trong đó có hành vi đạo đức).
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống các quy tắc, các chuẩn mực hành
vi đạo đức phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại trong xã
hội, bao gồm cảm xúc và tình cảm đạo đức của con người. Từ tình cảm,
xúc cảm đạo đức hình thành niềm tin của con người vào những điều tốt
đẹp, thông qua đó mà hướng dẫn hành động của mỗi người sao cho phù
hợp với những yêu cầu chung của xã hội.
Nói về ý thức đạo đức trong "Giáo trình triết học Mác - Lênin"
khẳng định: Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, tốt
xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân
trong xã hội.
Ý thức đạo đức bao gồm:
Bộ phận đầu tiên là: những vấn đề nhận thức luận. Cơ sở triết học của
đạo đức, chức năng, các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Bộ phận này bao
gồm những vấn đề mang tính chất lý luận.
10
Bộ phận thứ hai: Tập hợp những chuẩn mực như thói quen, phong tục,
tập quán, nếp sống v.v. Những chuẩn mực này tồn tại trong xã hội, truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Để có ý thức đạo đức con người phải có tri thức đạo đức. Tri thức đạo
đức là những hiểu biết về phương diện đạo đức của con người. Tri thức đạo
đức có được thông qua việc nghiên cứu lý luận đạo đức như các phạm trù,
các quy luật hình thành đạo đức. Những kiến thức này được hình thành
trong nhà trường, thông qua nghiên cứu sách vở. Bộ phận thứ hai là những
tri thức đạo đức thông thường, được hình thành do tiếp xúc trong xã hội,
hay do cha mẹ, ông bà, thầy cô dạy bảo. Bộ phận này còn được hình thành
thông qua thực tiễn đạo đức. Từ thực tiễn cuộc sống đạo đức hàng ngày mà
con người hình thành những tri thức, những hiểu biết đạo đức của mình.
Từ những tri thức đạo đức, xã hội và mỗi con người hình thành lý
tưởng đạo đức của mình. Lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt nhất, khát
vọng lớn nhất về đạo đức mà con người mong muốn đạt được. Lý tưởng
đạo đức là cái cần và mong muốn đạt được một cách hoàn mỹ về mặt
đạo đức.
Mỗi chế độ xã hội có sự phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Trong
xã hội có đối kháng và sự khác biệt về giai cấp thì cũng có nhiều lý tưởng
đạo đức, nhưng lý tưởng đạo đức của giai cấp thống trị về kinh tế sẽ giữ vai
trò thống trị trong xã hội.
Lý tưởng đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là xóa
bỏ mọi tình trạng bất công, áp bức bóc lột, là xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ văn minh, xây dựng một xã hội đầy tình người trong mọi
quan hệ xã hội, con người tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Lý tưởng đạo đức không phải là cái cao xa, không thể với tới, mà là
cái phản ánh nguyện vọng của con người, do vậy nó từng bước được thực
hiện trong cuộc sống.
11
Lý tưởng đạo đức có loại khẳng định, có loại phủ định. Cái khẳng định
là những cái con người mong muốn như mọi người làm việc thiện, làm việc
tốt, con người được sống yên vui, hạnh phúc.
Lý tưởng phủ định là những điều mà con người không mong muốn
như: bất công, trộm cắp, bạo lực tàn bạo…v.v. Những điều đó, người lương
thiện không ai muốn có ở trong xã hội.
Muốn cho hành vi đạo đức đúng đắn chúng ta phải có lý tưởng đạo
đức đúng đắn. Muốn cho lý tưởng đạo đức đi vào trong cuộc sống biến
thành hành vi đạo đức trong xã hội đòi hỏi chúng ta phải bồi dưỡng, xây
dựng tình cảm đạo đức tốt đẹp ở trong mỗi con người.
Tình cảm đạo đức là tình cảm bậc cao của con người, là thái độ, cảm
xúc của con người trước những vấn đề đạo đức trong xã hội. Con người có
sự đồng cảm với những khó khăn bất hạnh trong cuộc sống của những
người khác, lúc đó họ sẽ suy nghĩ những biện pháp, cách thức giúp đỡ
người đó.
Con người có thái độ lên án, căm ghét những việc làm ác, những sự
bất công trong xã hội, lúc đó mới dẫn dắt họ tới thái độ và hành động phản
kháng tình trạng đó ở trong xã hội.
Tình cảm đạo đức có một sức mạnh to lớn trong việc huy động mọi
khả năng, mọi tiềm lực để vượt qua những khó khăn thách thức để làm việc
thiện, tránh những việc làm ác ở trong xã hội. Tình cảm đạo đức vừa mang
tính khách quan vừa mang tính chủ quan.
Những hiện tượng đạo đức trong xã hội mang tính chất khách quan. Ví
dụ như ăn trộm, ăn cắp, giết người vô tội đều bị coi là việc ác; giúp đỡ
người khác, thương những người nghèo khổ đều được coi là việc thiện.
Song tính chủ quan là quan niệm về những hiện tượng đó ở trong xã
hội, tác động của nó gây ra lại mang tính chất chủ quan, phụ thuộc vào tri
thức và lợi ích của mỗi người.
12
Muốn có tình cảm đạo đức đúng đắn ở mỗi người, đòi hỏi chúng ta
phải giáo dục, phải có sự trải nghiệm trong cuộc sống. Làm thế nào cho
mỗi người chúng ta đều có một tấm lòng cảm động trước những việc làm
tốt, việc làm đúng, những tấm gương hy sinh dũng cảm của đồng bào chiến
sỹ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù, căm phẫn trước những việc làm ác,
những kẻ tàn bạo, những hành động trộm cắp, cướp giật.
Để thực hiện lý tưởng đạo đức trong xã hội, cần phải xây dựng những
chuẩn mực đạo đức cho phù hợp với điều kiện cụ thể của quốc gia dân tộc,
của mỗi địa phương, mỗi ngành nghề, mỗi công việc.
Chuẩn mực đạo đức là những quy tắc xác định mẫu hành vi đạo đức
cần phải theo, dựa trên lợi ích của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại.
Chuẩn mực đạo đức trong thời đại ngày nay là yêu hòa bình, yêu tự do, tôn
trọng con người, căm thù trước những hành vi trộm cắp dù là dân tộc khác
nhau, tôn giáo khác nhau, giai cấp khác nhau đều tuân theo những chuẩn
mực đạo đức chung đó.
Tính dân tộc của những chuẩn mực đạo đức luôn là một trong những
yếu tố tạo nên bản sắc đặc thù của dân tộc đó. Các dân tộc khác nhau có
trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, có chế độ chính trị khác nhau,
có nền văn hóa khác nhau nên có những chuẩn mực đạo đức khác nhau,
thậm chí còn trái ngược nhau. Những chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt
Nam hiện nay là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần cộng
đồng và tính nhân văn. Những chuẩn mực này được hình thành do điều
kiện sản xuất lúa nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của người dân
Việt Nam.
Tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức phụ thuộc vào lợi ích của các
giai cấp. Yêu nước trong thời kỳ phong kiến theo lập trường của giai cấp
phong kiến. Yêu nước Việt Nam hiện nay là phải gắn với xây dựng và bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Yêu nước trong thời đại ngày nay
13
phải thể hiện trong lao động sản xuất, trong học tập để xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Yêu nước
hiện nay phải thể hiện trong đấu tranh bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ
sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Trong một xã hội có nhiều công việc khác nhau, nhiều ngành nghề
khác nhau, ở mỗi một ngành nghề, một công việc đó lại có những biểu hiện
về chuẩn mực đạo đức khác nhau. Xã hội cần xây dựng những chuẩn mực
đạo đức để làm cơ sở cho mọi người lấy đó làm tiêu chuẩn rèn luyện phấn
đấu, lấy đó làm cơ sở để đánh giá mỗi con người. Ví dụ cùng là tinh thần
yêu nước nhưng người công nhân phải thể hiện trong sản phẩm lao động
của mình, phải lao động có trách nhiệm với năng suất cao, chất lượng tốt,
phải thích ứng được cơ chế thị trường. Người cán bộ công chức nhà nước
phải thể hiện trong trách nhiệm trước công việc của mình, phải hoàn thành
những trách nhiệm công việc mà xã hội giao cho, phải xem xét giải quyết
những công việc cho nhân dân như giải quyết công việc của chính mình.
Tinh thần yêu nước của người bác sỹ phải thể hiện trong công việc hàng
ngày, phải hết lòng chăm sóc bệnh nhân, phải thực hiện "lương y như từ
mẫu", không được gây phiền hà, khó dễ cho bệnh nhân. Tinh thần yêu nước
của lực lượng vũ trang, công an, quân đội phải thể hiện trong công việc bảo
vệ an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tinh thần yêu nước
của học sinh, sinh viên phải thể hiện trong ý thức học tập, tinh thần vượt
khó để nắm vững kiến thức khoa học, không ngừng sáng tạo để có một
kiến thức vững vàng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
sau này.
Trên cơ sở ý thức đạo đức, con người ta hành động thể hiện ra bên
ngoài, tạo thành hành vi đạo đức. Thực tiễn đạo đức (hành vi đạo đức) là
hành động của con người do ảnh hưởng niềm tin, của ý thức đạo đức, là
14
quá trình hiện thực hóa niềm tin, lý tưởng đạo đức thành hiện thực trong
đời sống xã hội. Ý thức đạo đức và hành vi đạo đức có quan hệ gắn bó với
nhau. Có ý thức đạo đức đúng đắn, mới có hành vi đạo đức đúng. Ngược
lại, hành vi đạo đức lại tác động trở lại ý thức đạo đức.
Những hành vi đạo đức đúng đắn được xã hội thừa nhận, khen thưởng
động viên, sẽ làm tăng nhiệt tình trách nhiệm của chủ thể đạo đức. Ngược
lại, những hành vi đạo đức đúng đắn không được xã hội cổ vũ động viên,
những việc làm sai trái không bị phê phán, lên án sẽ làm thui chột nhiệt
tình, ý thức trách nhiệm của chủ thể đạo đức trong xã hội.
Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức có quan hệ biện chứng và bổ sung
cho nhau.
Trên cơ sở những giá trị đạo đức như: Phong tục tập quán, những
chuẩn mực đạo đức trong xã hội, mỗi cá nhân hình thành quan niệm về cái
thiện, cái ác, cái đúng, cái sai, về hạnh phúc và bất hạnh. Từ đó mà hình
thành những hành vi đạo đức như tôn sư, trọng đạo, kính trọng cha mẹ,
vâng lời thầy cô, thương yêu đồng loại, thành những hành động nghĩa hiệp
như giúp đỡ bạn bè trong lúc gặp hoạn nạn, khó khăn….
Từ những tình cảm, những nhận thức về trách nhiệm trước quê hương,
đất nước mà mỗi người thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm như: nghĩa vụ
lao động, bảo vệ Tổ quốc… Tất nhiên, những nghĩa vụ này vừa là nghĩa vụ
công dân, đồng thời là nghĩa vụ đạo đức của mỗi người trong xã hội. Nếu
không có ý thức đạo đức đúng đắn sẽ không thể thực hiện hành vi đạo đức
đúng đắn.
Ngược lại, qua thực tiễn đạo đức mỗi người có thể củng cố ý thức đạo
đức, tăng cường niềm tin vào những điều tốt đẹp hoặc có sự bổ sung, sửa
đổi những nhận thức không phù hợp. Ví dụ qua những hành động nghĩa
hiệp giúp đỡ những người còn khó khăn, tình bạn, tình người được phát
15
triển từ đó sẽ củng cố niềm tin của con người vào những việc làm từ thiện
trong xã hội.
Thứ hai: Quan hệ đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống xác định mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa cá nhân và xã hội trên phương diện đạo đức.
Quan hệ giữa con người với con người như quan hệ giữa cha mẹ với
con cái; vợ chồng, anh em, bạn bè…
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội như quan hệ giữa cá nhân mỗi người
với tập thể, quan hệ giữa mỗi người với làng, xã, quan hệ giữa mỗi công
dân với đất nước. Những quan hệ này đều là quan hệ hai chiều. Một mặt cá
nhân phải có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội như trách nhiệm tôn
trọng những quy định chung của tập thể, của làng xã, trách nhiệm của mỗi
công dân với đất nước. Mặt khác, tập thể, cộng đồng, xã hội phải bảo vệ lợi
ích chính đáng cho mỗi người.
Những quan hệ đạo đức do điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Do
vậy, một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì trước sau những quan hệ
đạo đức trong xã hội sẽ thay đổi theo. Ví dụ trước đây trong quan hệ vợ
chồng, người vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng “phu xướng, phụ tùy” thì
nay là bình đẳng, tôn trọng nhau.
Hiện nay, Việt Nam đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa và quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, do
vậy quan hệ đạo đức trong xã hội và trong gia đình có những thay đổi trên
nhiều phương diện. Trong quan hệ gia đình, cha mẹ và con cái, vợ và
chồng ngày càng bình đẳng hơn. Cha mẹ tôn trọng những nguyện vọng
chính đáng của con cái. Vợ chồng tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của nhau,
cùng nhau giải quyết mọi việc trong gia đình. Tuy nhiên, do tác động của
cơ chế thị trường, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng
lỏng lẻo hơn, “Thiếu trách nhiệm, thiếu gương mẫu trong quan hệ vợ
16
chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái và ngược lại”[95;204]. “Hôn nhân
dựa trên tính toán vị kỷ, trên cơ sở đồng tiền, địa vị xã hội có xu hướng gia
tăng”[95;202-203].
Trong xã hội, tính tích cực xã hội, tính năng động sáng tạo, ý thức,
trách nhiệm trong công việc ngày càng được nâng cao, tư tưởng ỷ nại trong
thời kỳ bao cấp ngày càng được khắc phục. Điều đó được thể hiện ngày
càng nhiều người Việt Nam đã dần dần thích ứng được với cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế. Nhiều người vươn lên làm chủ khoa học kỹ
thuật, quá trình sản xuất, kinh doanh. Những phong trào nở rộ trong xã hội
như: đền ơn, đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, xây nhà tình thương, trái tim
cho em, tết cho người nghèo.v.v…Thật cảm động, không ít người giúp đỡ
người khác hàng chục triệu đồng nhưng lại không muốn người khác biết
danh tính của mình. “Sự nảy nở và xuất hiện những tấm gương người tốt ở
khắp mọi nơi, những gương mặt ưu tú, điển hình trong thanh niên, sinh
viên, học sinh, những người lao động giỏi trong nông dân, công nhân, trí
thức, những cán bộ, nhân viên trong các cơ quan hành chính…những tấm
gương sáng và những biểu hiện tốt đẹp đó vẫn là đường nét chủ đạo trong
bức tranh đạo đức xã hội ta”[95;259-260].
Bên cạnh những tiến bộ đạo đức xã hội nêu trên, trong xã hội không ít
những tiêu cực, quan hệ đạo đức xã hội bị xuống cấp. “Đạo đức của cán bộ,
đảng viên và công chức không được coi trọng đúng mức, giáo dục và tự
giáo dục đạo đức bị xem nhẹ, việc rèn luyện và đánh giá đạo đức đối với
cán bộ trong công sở, cơ quan bị xem nhẹ.
Đạo đức học đường, quan hệ thầy trò và môi trường giáo dục đạo đức,
nhân cách trong gia đình – nhà trường và xã hội bị tổn thương bởi thương
mại hóa giáo dục không được ngăn chặn và đẩy lùi”[95;260-261].
Thứ ba: Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
17
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong một cộng đồng
người nhất định, là phương thức điều chỉnh hành vi đạo đức của mỗi cá
nhân trong cộng đồng, nhằm hình thành, phát triển và không ngừng hoàn
thiện tồn tại xã hội.
Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng đồng lợi ích giữa các
thành viên trong cộng đồng đó. Nó tồn tại trong kinh nghiệm, phong tục tập
quán, trong tôn giáo và mang tính phổ quát của cộng đồng đó.
Dựa trên cơ sở những lợi ích chung mà người ta xây dựng những
chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi đạo đức của các thành viên
trong xã hội sao cho phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội, đảm bảo
cho xã hội ổn định và phát triển.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, trong cộng
đồng, khẳng định sự tồn tại của các cá nhân với những nét riêng biệt, thể
hiện cá nhân ấy là một cá thể độc lập trong cộng đồng.
Đạo đức cá nhân trong cộng đồng là đa dạng, phong phú bao gồm
những nét chung của thời đại, của dân tộc, những nét đặc thù của từng vùng
cá nhân sinh sống, giai cấp, tầng lớp xã hội cá nhân đó tồn tại và mang cả
những nét của dòng họ, gia đình mà đặc biệt là nét riêng của cá nhân đó.
Mỗi thời kỳ lịch sử đạo đức xã hội có những thay đổi, đòi hỏi mỗi cá
nhân phải thường xuyên học tập, nghiên cứu và không ngừng bổ sung,
hoàn thiện những phẩm chất đạo đức của cá nhân mình sao cho phù hợp
với yêu cầu của xã hội.
Đạo đức cá nhân là đa dạng, phong phú. Cùng một phẩm chất đạo đức
nhưng mỗi người lại có cách biểu hiện mang những nét riêng, song dù có
đa dạng phong phú tới đâu, sự biểu hiện đó phải tuân thủ theo những chuẩn
mực chung của xã hội.
18
Quan hệ giữa đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng. Đạo đức xã hội là cái chung mang tính khái quát.
Đạo đức cá nhân là cái riêng, do vậy vô cùng đa dạng và phong phú.
Đạo đức cá nhân là đa dạng, phong phú, nhưng không bao giờ bao
hàm hết những chuẩn mực chung của đạo đức xã hội. Trên cơ sở những
chuẩn mực chung đạo đức xã hội, mỗi cá nhân từ cách nhìn nhận, đánh giá
riêng của mình, từ đó mà tiếp nhận những phẩm chất chung đó.
Sự tiếp nhận những phẩm chất đạo đức chung của xã hội ở mỗi cá
nhân phụ thuộc vào sự hiểu biết, từng trải của cá nhân đó. Một người hiểu
biết nhiều, nhìn chung sẽ tiếp nhận được những giá trị chung của đạo đức
xã hội và sự thể hiện đạo đức xã hội ấy trong cá nhân đó cũng đa dạng,
phong phú.
Đạo đức xã hội không phải là con số cộng mà là sự tổng hợp, sự khái
quát những phẩm chất đạo đức cá nhân. Khi đã trở thành đạo đức xã hội, nó
sẽ được giữ gìn, phổ biến bằng phong tục tập quán, thành dư luận xã hội,
được quy định thành thang giá trị đạo đức.
Để phát huy vai trò của đạo đức xã hội trong hình thành phát triển
đạo đức cá nhân, chúng ta cần quan tâm tới xây dựng đạo đức xã hội cho
phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần, do vậy trong xã hội cũng tồn tại nhiều giai cấp,
tầng lớp khác nhau, có lợi ích khác nhau, có nhiều quan niệm đạo đức khác
nhau. Trong xã hội ta hiện nay giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, cho
nên đạo đức của giai cấp công nhân giữ vai trò thống trị trong xã hội. Đạo
đức của giai cấp công nhân gắn với cuộc đấu tranh chống lại mọi bất công,
áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội kỷ cương, nề nếp, không ngừng nâng
cao mức sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng một xã hội đầy
19
tình người. Con người tôn trọng những quy ước của cộng đồng. Cộng đồng
quan tâm tới từng con người, xây dựng một lối sống “mỗi người vì mọi
người, mọi người vì mỗi người”. Các dân tộc sống trong quan hệ hữu nghị,
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Chỉ có xây dựng được một quan hệ đạo đức
xã hội tốt đẹp mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng đạo đức mỗi
thành viên. Ông cha ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Mỗi đứa
trẻ ngay từ khi mới sinh ra được sống trong một quan hệ xã hội tốt sẽ có
điều kiện hình thành nhân cách tốt.
Muốn xã hội tốt, quan hệ đạo đức xã hội lành mạnh đòi hỏi từng con
người phải có những phẩm chất đạo đức tốt. Không thể có một xã hội tốt,
khi từng thành viên trong xã hội thiếu đạo đức, thiếu văn minh.
Mỗi gia đình cần phải quan tâm tới giáo dục đạo đức, từng con người
phải quan tâm tới giáo dục đạo đức, từng người hàng ngày, hàng giờ phải
quan tâm rèn luyện, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, hiểu
được những nghĩa vụ đạo đức, thực hiện theo những yêu cầu, chuẩn mực
đạo đức trong xã hội chúng ta mới có được một xã hội lành mạnh.
Để có được điều đó, một mặt xã hội phải quan tâm xây dựng những
chuẩn mực đạo đức phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử, với yêu cầu mỗi
công việc, phải tuyên truyền phổ biến để mọi người hiểu và làm theo, mặt
khác phải tạo ra dư luận xã hội cổ vũ, động viên những việc làm đúng,
những tấm gương sáng. Mặt khác phải phê phán những kẻ làm sai, những
hành vi tội ác.
1.2. Tư tưởng giáo dục đạo đức trong Giới luật Phật giáo.
1.2.1. Khái quát một số nét chung về Giới luật Phật giáo
Giới luật là một trong những nội dung quan trọng trong giáo lý của
Phật giáo. Giới luật có vai trò không chỉ làm cơ sở để ổn định tổ chức của
giáo hội, tăng, ni, chức sắc tôn giáo mà còn là những điều răn dạy đối với
các tín đồ Phật tử và là nền tảng của đạo đức Phật giáo.
20
Giới luật được hiểu theo tiếng Phạn như sau:
Hiểu theo nghĩa chung, Giới luật được phiên âm từ chữ Pàtimokkha
Từ Pàtimokkha được ghép từ Pàti có nghĩa là hướng về, theo chiều hướng;
và Mokkha có nghĩa là giải thoát. Theo đó Pàtimokkha có nghĩa là hướng
đến sự giải thoát. Theo tiếng Hán cổ dịch Pàtimokkha là những hành vi giới
hạnh, học tập và tu dưỡng đưa đến sự giải thoát.
Nếu hiểu theo nghĩa riêng, tách biệt giữa giới và luật thì Giới luật
được hiểu như sau:
Giới theo tiếng Phạn là Sila, phiên âm thành từ Thi- la, Trung Hoa
dịch là thanh lương, có nghĩa là những điều ngăn cấm, phòng ngừa, ngăn
cấm sự sai trái của bản thân.
Luật theo tiếng Phạn là Vinaya, phiên âm thành Tỳ Nại Da, Trung Hoa
dịch là điều phục, cách giải thoát và cũng được hiểu là những quy định
không được vi phạm, tránh những điều phạm lỗi của bản thân. Luật được
chia làm hai loại: Luật đại thừa và luật tiểu thừa.
Như vậy, Giới luật được hiểu là những nguyên tắc mang tính tập thể,
tính xã hội nhằm qui định những hành vi mà người tu sĩ, người Phật tử phải
tuân theo để giữ được đạo hạnh của mình.
Giới luật được soạn riêng đối với người tu sĩ và tín đồ. Tuy nhiên,
trong luận văn này chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh nội dung Giới luật dành
cho tín đồ Phật tử. Khai thác những nội dung có giá trị ứng dụng nhằm phát
huy ảnh hưởng của chúng trong việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam
hiện nay.
Nói về Giới luật dưới hình thức đơn giản và tổng quát có thể áp dụng vào
thực tế cuộc sống một cách tự nhiên trên cơ sở hộ trì các căn. Trong “Trung
Bộ Kinh”, Thích Minh Châu có viết: “Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì đó mà các
căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp khởi
21
lên, vị ấy chế ngự các nguyên nhân ấy, sống hộ trì các căn, thực hành sự hộ trì
các căn”[5;180]. Nghĩa là trong cuộc sống không vì tham, sân, si và vi phạm
vào các căn, không vì sắc mà mất đi bản tính của mình. Không vì sắc mà
khiến cho bản thân mình phải phiền não, sầu, khổ…Giới luật Phật giáo bao
gồm cả những nội dung trong Bát chính đạo.
Với quan niệm nhân sinh Phật giáo “đời là bể khổ” và “luân hồi,
nghiệp báo” thì con người cũng như các sự vật mất đi ở chỗ này nhưng lại
sinh thành ở chỗ khác. Quá trình thác sinh luân hồi đều do “nghiệp” chi
phối theo luật nhân duyên. Để được giải thoát khỏi kiếp sống trần luân khổ
đau, và tạo được “nghiệp tốt”, chúng sinh phải tuân theo Giới luật, những
điều mà đức Phật răn dạy. Đây chính là cơ sở để Phật giáo đưa ra Giới luật
của mình buộc mọi người phải tuân theo.
Tại sao phải đưa ra Giới luật? Theo quan niệm của Phật giáo căn
nguyên những đau khổ của con người đó là “Tứ diệu đế” (Catvari-arya-
satya). “Tứ diệu đế” bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
“Khổ đế” (Dukkha-satya) là định đề đầu tiên nói về những nỗi khổ của
con người. Theo Phật giáo có tám cái khổ (bát khổ) reo rắc trong đời sống
con người. Ngoài bốn nỗi khổ do sinh, lão, bệnh, tử gây ra con người ta còn
khổ vì yêu thương nhau mà phải xa nhau (thụ biệt ly). Khổ vì oán ghét
nhau mà phải sống, hội tụ với nhau (oán tăng hội). Khổ vì muốn mà không
được (sở cầu bất đắc) và khổ vì sự cảm thụ, sự tụ hội của ngũ uẩn (thụ ngũ
uẩn). Con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Đời là bể khổ.
“Tập đế” (Samarudays-satya) đề cập đến nguyên nhân tạo ra những
nỗi khổ của con người. Phật giáo cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
nỗi khổ đau của con người là do lòng tham, sân, si vô độ. Con người muốn
trường tồn mãi mãi, nhưng thực tại luôn thay đổi, biến hóa trong vòng sinh,
lão, bệnh, tử. Không có cái gì thực là ta, của ta nhưng vì lòng tham, sân, si
vô độ mà lầm tuởng là có ta, của ta và do ta, nên con người cứ khát ái, tham