Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tìm hiểu sử thi Chương Han của người Thái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.11 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC



NGUYỄN THỊ HƯƠNG





TÌM HIỂU SỬ THI CHƯƠNG HAN CỦA
NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC










HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC




NGUYỄN THỊ HƯƠNG


TÌM HIỂU SỬ THI CHƯƠNG HAN CỦA
NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM


CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC DÂN GIAN
MÃ SỐ 60.22.36
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS.TS LÊ CHÍ QUẾ



Hà Nội, 2010

MC LC
Phần mở đầu
1. Lớ do chn ti: 1
2. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu 2

3. Ph-ơng pháp nghiên cứu 3
4. Lch s vn 4
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Cu trỳc lun vn 10
Phần nội dung
Ch-ơng 1: ng-ời thái và văn hoá của dân tộc thái ở
việt nam 11
1.1. Ng-ời Thái ở Việt Nam 11
1.2. Văn hoá của dân tộc Thái ở Việt Nam 22
1.2.1. Tôn giáo, tín ng-ỡng 22
1.2.2. Văn học dân gian 27
1.2.3. Một số nét Văn hoá nghệ thuật dân gian 29
Tiểu kết 32
Ch-ơng 2: đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của
Sử thi ch-ơng han 33
2.1. Đặc điểm về nội dung 33
2.1.1. Tóm tắc tác phẩm 33
2.1.2. Sử thi Ch-ơng Han ca ngợi ng-ời anh hùng chiến trận 40
2.1.3. Sử thi Ch-ơng Han phản ánh vấn đề hôn nhân của ng-ời anh hùng
53
2.2. Một số đặc điểm về nghệ thuật 57
2.2.1.Sử thi Ch-ơng Han là sử thi anh hùng 57
2.2.1.1.Nhân vật chính là ng-ời anh hùng lý t-ởng 57
2.2.1.2.Tính hào hùng kì vĩ 61
2.2.1.3.Tính lãng mạn lịch sử 65
2.2.1.4.Ph-ơng pháp miêu tả 68
2.2.2.Yếu tố kì ảo trong Sử thi Ch-ơng Han 72
Tiểu kết 75
Ch-ơng 3: b-ớc đầu tìm hiểu sắc thái bản địa và quan
hệ đông nam á của sử thi ch-ơng han 76

3.1 Sắc thái bản địa 76
3.2. Quan hệ Đông Nam á 85
Tiểu kết 97
Phần kết luận 98
TH MC TI LIU THAM KHO .102

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.1. Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Bởi vậy, tính
đa dân tộc là một trong những nét đặc sắc độc đáo của văn hoá Việt Nam. Năm
mươi tư dân tộc anh em sống trên dải đất hình chữ S này đã đóng góp năm tư
sắc màu văn hoá khác nhau, trong đó văn hoá Thái nổi lên như một mảng màu
đặc biệt đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình. Bảo tồn văn
hoá Thái, văn học Thái chính là thực hiện nhiệm vụ quan trọng của công tác
văn hoá - văn nghệ được đặt ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: “
Khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá nghệ thuật của các dân
tộc trên đất nước ta, tạo ra sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của
nền văn hoá Việt Nam”.
1.2. Trong vốn văn hoá dân gian cổ truyền, sử thi các dân tộc thiểu số là một
thể loại văn hoá đặc sắc và độc đáo. Nó không chỉ là một thể loại văn học mà
còn là một hình thức sinh hoạt văn hoá mang đậm sắc thái tộc người. Nó là kết
tinh những thành tựu của văn học dân gian, truyền thống văn hoá nghệ thuật,
sinh hoạt, ca hát… Vẻ đẹp văn hoá, văn học này có sức hút kì lạ đối với chúng
tôi. Tìm hiểu, nghiên cứu Chương Han-sử thi Thái, chúng tôi khao khát đi tìm
vẻ đẹp thực sự hấp dẫn của tác phẩm văn chương, từ đó có một cái nhìn bao
quát về giá trị sử thi Thái và cao hơn nữa là góp phần nghiên cứu văn hoá, văn
học Thái.
1.3. Lâu nay, nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Thái , các nhà khoa học
chủ yếu tìm hiểu , nghiên cứu về các thể loại quen thuộc như Truyện cổ, truyện

thơ, ca dao, tục ngữ…Đó là những tinh hoa văn hoá Thái đã được khẳng định.
Tuy nhiên, trong kho tàng văn học Thái còn có một thể loại có tầm vóc mà ít
người biết đến, lại càng ít người quan tâm nghiên cứu đó là sử thi anh hùng.
Bằng việc nghiên cứu sử thi Thái Chương Han, chúng tôi mong muốn góp
phần bé nhỏ của mình để lấp “khoảng trống” khoa học ấy.

2
1.4. Sử thi là thể loại đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Phổ thông
trung học. Các nhà soạn sách đã lựa chọn những trích đoạn tiêu biểu trong sử
thi Đăm Săn ( sử thi anh hùng) và sử thi Đẻ đất đẻ nước ( sử thi thần thoại) để
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 10. Nhưng lâu nay người học, người đọc
chỉ biết đến sử thi anh hùng ở Tây Nguyên, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy ở
Tây Nguyên tồn tại khoảng hơn một trăm sử thi, nổi bật như sử thi Đăm Săn,
Xinh Nhã, Khinh Dú, Đam Di rất ít người biết đến ở Tây Bắc cũng tồn tại sử
thi anh hùng. Tìm hiểu sử thi Chương Han, chúng tôi mong muốn giới thiệu
với người đọc một sử thi anh hùng ở Tây Bắc.
1.5. Sử thi Chương Han lưu truyền ở vùng người Thái Tây Bắc Việt Nam bao
gồm từ Sơn La, Lai Châu xuống đến miền tây Nghệ An. Hiện nay có ba bản
sưu tầm về Sử thi Chương Han. Bản của Nguyễn Ngọc Tuấn và bản của
Vương Trung sưu tầm ở Sơn La, bản của Phan Đăng Nhật sưu tầm ở tây Nghệ
An. Theo tư liệu chúng tôi đọc được, Sử thi Chương Han còn lưu truyền ở Lào,
Thái Lan và Tây nam Trung Quốc. Vì vậy đây là vấn đề mới và lý thú cần được
nghiên cứu. Với sự gợi ý của thầy hướng dẫn cùng niềm say mê văn hoá văn
học Thái và mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn văn hoá dân
tộc, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu sử thi Chương Han của
người Thái ở Việt Nam” làm đề tài luận văn khoa học của mình.
2- ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Sử thi Chương Han lưu truyền ở Sơn La, vì đây là
địa bàn gốc của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
tham khảo sử thi Khủn Chưởng sưu tầm ở phía tây Nghệ An. Ngoài ra, chúng

tôi cũng tham khảo một số bài viết giới thiệu sử thi Chương Han lưu truyền ở
Lào và Thái Lan để so sánh đối chiếu.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Sử thi Chương Han của dân tộc Thái được các
chuyên gia nghiên cứu về sử thi đánh giá cao, coi đó là kiệt tác hàng đầu của
văn học dân gian Thái. Tầm vóc của nó sánh ngang với sử thi Đăm Săn của dân
tộc Ê-Đê. Có nhiều vấn đề hấp dẫn, lý thú cần khám phá tìm hiểu về sử thi này.
Nhưng trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ dừng lại nghiên

3
cứu những vấn đề cơ bản của nội dung phản ánh, một số đặc điểm về nghệ
thuật và bước đầu tìm hiểu sắc thái bản địa và quan hệ khu vực Đông Nam Á
của Sử thi Chương Han.
3- PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết tốt mục đích đề tài đặt ra, chúng tôi đã vận dụng các phương
pháp sau đây:
3.1. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp:
Để tìm hiểu những vấn đề cơ bản của nội dung phản ánh, một số đặc điểm về
nghệ thuật của tác phẩm, người nghiên cứu phải đọc kĩ tác phẩm, phải phân
tích cụ thể các yếu tố của tác phẩm như cốt truyện, kết cấu, chi tiết, nhân vật,
hình ảnh, hình tượng, câu văn, từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật từ đó qui
nạp, tổng hợp vấn đề.
3.2. Phƣơng pháp so sánh:
Luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu so sánh giữa sử thi Chương Han lưu truyền
ở Tây Bắc Việt Nam với sử thi Thạo Hùng- Thạo Chương lưu truyền ở Lào và
Thái Lan, ngoài ra còn kết hợp so sánh với sử thi Khủn Chưởng lưu truyền ở
Tây Nghệ An, từ đó làm cơ sở tìm hiểu sắc thái bản địa và quan hệ khu vực
Đông Nam Á của Sử thi Chương Han.
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành:
Thể loại sử thi, trong đó có sử thi Chương Han không chỉ là một thể loại văn
học mà còn là một hình thức sinh hoạt văn hoá mang đậm sắc thái tộc người.

Nó là kết tinh những thành tựu của văn học dân gian, truyền thống văn hoá
nghệ thuật, sinh hoạt, ca hát Thái. Vì vậy khi nghiên cứu, người nghiên cứu cần
sử dụng kết hợp phương pháp phân tích, nghiên cứu một tác phẩm văn học dân
gian với phương pháp nghiên cứu một hiện tượng văn hoá dân gian. Khi nghiên
cứu các phương diện nội dung, nghệ thuật của tác phẩm cần đặt trong mối quan
hệ với phương thức sáng tác, phương thức biểu diễn, phương thức lưu hành,
trong mối quan hệ mọi mặt của đời sống văn hoá, đời sống xã hội.

4- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:

4
4.1. Lịch sử sƣu tầm:
Chương Han là một tác phẩm mang tầm vóc sử thi được lưu truyền rất lâu đời
và sâu rộng trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Thái. Chương Han
có ở Lào, Thái Lan , Miến Điện . Ở Việt Nam Chương Han được lưu truyền ở
Sơn La,ở tây Nghệ An trong người Thái và được ghi vào sách bằng chữ Thái
cổ.
Sử thi Chương Han được các chuyên gia nghiên cứu về sử thi đánh giá cao,
coi đó là một trong những kiệt tác hàng đầu của văn học dân gian Đông Nam Á
lục địa.
Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít văn bản Chương Han bằng chữ Thái cổ. Vả lại
các văn bản còn lại cũng không hoàn chỉnh, vì người xưa thích đoạn nào chép
lại đoạn đó, cứ thế lưu truyền trong dân gian.
Người đầu tiên chú ý sưu tầm Sử thi Chương Han phải kể đến Phan Đăng
Nhật. Năm 1960, khi làm giáo viên ở Tây Bắc, Phan Đăng Nhật đã cùng nhà
dân tộc học Cầm Trọng sưu tầm các sách Chương Han. Sau đó đến năm 1965,
Mỹ ném bom Sơn La làm cháy mất các sách trên. Công việc bị đứt đoạn, những
năm sau Phan Đăng Nhật mải miết đi tìm sử thi khắp Nam Bắc mà không quên
duyên nợ thuở ban đầu với anh hùng Chương.
Nhưng người có công với Sử thi Chương Han phải nói đến ông Nguyễn Ngọc

Tuấn, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn
Quốc gia, lúc sinh thời đã có nhiều năm công tác, sinh sống cùng cộng đồng
người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Với sự hiểu biết khá sâu sắc về văn hoá Thái,
nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn Ngọc Tuấn đã dày công sưu tầm ,dịch
thuật, hiệu đính, khảo dị trường ca Chương Han. Bản Chương Han của ông
Nguyễn Ngọc Tuấn được tập hợp từ các văn bản viết bằng chữ Thái và là kết
quả của công việc hiệu đính khảo dị 3 văn bản:
- Bản của cụ Lò Văn Sau, bản Nam, xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn, Sơn La.
- Bản của cụ Cầm Bao nguyên cán bộ Sở văn hoá Tây Bắc
- Bản của cụ Lò Văn Úi, bản Phiêng Ngùa, xã Chiềng Sôm, huyện Mai Sơn,
Sơn La.

5
Nhưng bản do ông Nguyễn Ngọc Tuấn để lại chỉ có phần dịch gồm 116 trang,
không có chữ Thái, không có giới thiệu.
Khoảng năm 1998, ông Nguyễn Hữu Ưng, em ông Nguyễn Ngọc Tuấn cho
Phan Đăng Nhật mượn bản Sử thi Chương Han do ông Tuấn sưu tầm. Phan
Đăng Nhật đã nhờ học sinh và đồng nghiệp ở Sơn La giúp đỡ kết hợp với lao
động của bản thân biên soạn lại, cuốn Chương Han- Sử thi Thái đã hoàn thành,
được Nhà xuất bản Khoa học xã hội in năm 2003 với đầy đủ các phần cần thiết
và số trang đầy đặn 335 trang. Trong cuốn này gồm bản dịch thuật của ông
Nguyễn Ngọc Tuấn với 2940 câu chia làm 11 chương, 260 câu thơ đầu Chương
Han bằng chữ Thái cổ chụp từ luận văn Đại học của Hà Thu Thuỳ, tác phẩm
Quam Chương Han do ông Cầm Bao sưu tầm và chép lại viết bằng chữ Thái La
tinh, các bài nghiên cứu, các phụ lục của GS.TSKH.Phan Đăng Nhật.
Ngoài ra còn có một bản Chương Han do Vương Trung sưu tầm, giới thiệu và
dịch có sự tham khảo các bản của Lò Văn Sau, bản Nam, xã Chiềng Chang,
huyện Mai Sơn, Sơn La. Bản này được xuất bản năm 2005- Nhà xuất bản Văn
hoá dân tộc. Quyển của Vương Trung ngoài phần giới thiệu tác phẩm có hai
phần chính: sử thi Chương Han viết bằng chữ Thái La tinh và sử thi Chương

Han dịch ra tiếng Việt gồm 2371 câu chia làm 10 chương.
Ngoài bản sử thi Chương Han được sưu tầm ở Sơn La, GS.TSKH.Phan Đăng
Nhật còn sưu tầm sử thi Khủn Chưởng- một phiên bản khác của sử thi Chương
Han lưu truyền ở tây Nghệ An. Năm 2001, , GS.TSKH.Phan Đăng Nhật được
mời về Nghệ An làm chủ biên cuốn sách Văn học dân tộc thiểu số Nghệ An.
Truyện cổ tích Chưởng ồm, Chưởng noọi làm Phan Đăng Nhật chú ý và nảy ra
ý định đi tìm sử thi Chương ở miền núi Nghệ An. GS.TSKH.Phan Đăng Nhật
tìm đến Quỳ Châu, nơi có đồng bào dân tộc Thái sinh sống, được các cấp lãnh
đạo Đảng, Chính quyền huyện Quỳ Châu và nhân dân địa phương giúp đỡ, sau
một thời gian tìm tòi, sưu tầm, bổ sung, phục hồi, biên dịch, tác phẩm đã hoàn
thành và ra mắt bạn đọc với tên gọi: Khủn Chưởng- anh hùng ca Thái – Nhà
xuất bản khoa học xã hội- Hà Nội 2005. Tác phẩm gồm ba phần: Phần giới

6
thiệu chung, phần sử thi Khủn Chưởng dịch ra tiếng Việt gồm 8 chương, phần
sử thi Khủn Chưởng viết bằng chữ Thái la tinh.
4.2. Lịch sử nghiên cứu:
Các công trình nghiên cứu Sử thi Chương Han cho đến nay mới rất ít. Có lẽ vì
đây là tác phẩm mớí sưu tầm được, còn ít người biết đến, lại khó, phức tạp. Có
thể kể tên các công trình nghiên cứu sau:
- Đầu tiên phải kể đến bài viết của GS.TSKH.Phan Đăng Nhật trong hội thảo
Thái học với tiêu đề: “ Sử thi Chương Han- Hiện thực lịch sử và ước mơ lâu
đời của nhân dân Thái cũng như nhân dân các dân tộc” đã bước đầu giới thiệu
về sử thi Chương Han. Trong bài viết, GS đã khẳng định, sử thi Chương Han
với độ dài 2940 câu là sử thi dài trung bình trong các sử thi Việt Nam. Chương
Han được chia làm 11 chương. Xuyên suốt 11 chương của tác phẩm đều kể về
cuộc đời và công tích của nhân vật anh hùng Chương Han. Chương có hai công
trạng chính là đánh giặc và lấy vợ. Mục tiêu của cuộc đời chiến đấu của
Chương là cuộc sống hoà bình, yên vui, dứt mọi oán thù, cũng là nguyện vọng
ước mơ của nhân dân Thái và nhân dân các quốc gia trên thế giới. Có thể nói,

chiến tranh vì hoà bình, bạo lực để đến phi bạo lực mới là bản chất của sử thi
Chương Han, đó là giá trị sâu xa và trường cửu của nó.
- Luận văn tốt nghiệp của Hà Thị Thuỳ, khoa Ngữ văn- Đại học Tổng hợp do
GS.TS. Lê Chí Quế hướng dẫn với đề tài: Bước đầu nhận xét Sử thi Chương
Han. Trong luận văn của mình, Hà Thu Thuỳ giới thiệu 260 câu thơ đầu
Chương Han bằng chữ Thái cổ và đưa ra những nhận xét bước đầu về Sử thi
Chương Han. Trong phần nội dung của luận văn, Hà Thu Thuỳ giới thiệu về
Chương Han và khẳng định đây là tác phẩm có dung lượng lớn: “ Với một nội
dung tương đối lớn: 2400 câu thơ, sử thi Chương Han đã phản ánh được một
hiện thực lịch sử và ước mơ lâu đời của nhân dân Thái và nhân dân các dân tộc
nói chung.” Phạm vi lưu truyền của sử thi Chương Han xét về không gian có
địa bàn rất rộng lớn: trung tâm là Chiềng Khừa ( nay thuộc Bắc Lào) lan toả
đến vùng Thái Việt Nam về phía đông toàn bộ Bắc Lào, vùng Lạn Na Chiềng
May (Thái Lan), vùng Thái Miến Điện và Tây nam Trung Quốc. Chương Han

7
của người Thái Việt Nam thì có chủ yếu ở Tây Bắc. Trong đó, trung tâm của nó
là vùng của người Thái Đen: Mường Muổi, Mường La, Mường Thanh. Phương
thức phản ánh trong sử thi Chương Han là phương thức kết hợp những yếu tố
hiện thực và yếu tố huyền thoại. Hà Thị Thuỳ khẳng định: “ Với chất liệu sống
phong phú và sinh động của nó, sử thi Chương Han thực sự là bài ca hào hùng
về một chặng đường đã đi qua đầy gian khổ nhưng chói ngời những chiến
công, kì tích những khát vọng cao cả của cộng đồng người Thái trong quá trình
vận động lịch sử lâu dài của họ”. Cuối phần nội dung luận văn, Hà Thu Thuỳ
rút ra năm nhận xét chung về sử thi Chương Han:
1- Chương Han có những thuộc tính của một tác phẩm thuộc loại sử thi.
Bởi: - Chương Han là một tác phẩm tự sự mang tính lịch sử.
- Chương Han là tác phẩm mang tính kì vĩ.
- Chương Han là tác phẩm mang tính nhân dân sâu đậm.
2- Chương Han là tác phẩm thuộc tiểu loại sử thi thiết chế xã hội. Vì Chương

Han ca ngợi chiến công của nhân vật anh hùng. Hình tượng nhân vật Chương
Han rất gần với hình tượng nhân vật Đăm San trong Khan của người Êđê. Họ
đều là những người hùng chiến trận có công lớn đối với dân tộc, họ mang ý
tưởng và ý chí đại diện cho dân tộc. Họ mưu cầu tự do, hạnh phúc và sự giàu có
cho mình và cho cộng đồng.
3- Sử thi Chương Han có một ý nghĩa to lớn đối với văn học và văn hoá dân
gian của người Thái Tây Bắc. Nó đóng góp cho nền văn học dân tộc Thái một
hình tượng văn học có ấn tượng sâu sắc. Sử thi Chương Han còn đóng góp to
lớn cho kho tàng những làn điệu cổ của dân tộc Thái - đó là làn điệu “Khắp
Chương”.
4- Đối với việc nghiên cứu văn hoá của nước Việt Nam thống nhất đa dân
tộc, sử thi Chương Han cũng có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó góp phần làm
tăng sắc màu nền văn hoá dân gian nước Việt Nam đa dân tộc thống nhất này.
5- Sử thi Chương Han có mối quan hệ với sử thi nhiều nước trong và ngoài
khu vực Đông Nam Á. Từ Chương Han, chúng ta có tư liệu để nghiên cứu, so
sánh mối quan hệ với sử thi Thạo Hùng- Thạo Chương của Lào.

8
- Bài giới thiệu về Sử thi Chương Han của GS.TSKH.Phan Đăng Nhật in trong
cuốn Chương Han- Sử thi Thái. Trong bài viết này, GS đã giới thiệu các hình
thức tồn tại của Chương. Chương hay Chương Han thực chất là một hiện tượng
văn hoá lịch sử, có một sự lưu truyền rộng lớn. Chương trước hết là một nhân
vật tryuền thuyết. Chương có khi là một người, thường là một nhân vật anh
hùng, có khi là nhiều người, hoặc cũng có thể là một nhóm người. Trong đời
sống thực tế có một nhân vật Chương chuyên “nổi loạn” được gọi là giặc
Chương. Sử thi Chương Han là một bộ phận quan trọng trong các hình thức tồn
tại của Chương. Phần tiếp theo, GS tóm tắt tác phẩm, giới thiệu đề tài và chủ đề
tác phẩm. Theo GS.TSKH.Phan Đăng Nhật, tác phẩm có hai đề tài chính: Đánh
giặc và lấy vợ. Đề tài chiến tranh trong sử thi Chương Han chính là phản ánh
lịch sử chiến tranh hình thành và phát triển châu mường của người Thái. Sử thi

Chương Han với tư cách là một tác phẩm văn học nghệ thuật đã phản ánh lịch
sử với những đặc điểm riêng: Tính hào hùng kì vĩ, tính lãng mạn lịch sử. Đây là
hai đặc điểm của sử thi Chương Han về phương pháp phản ánh và khái quát
lịch sử- xã hội, cũng là hai đặc điểm để phân biệt sử thi và các bộ môn khoa
học xã hội khác như sử học, dân tộc học. Phần kết luận, GS.TSKH.Phan Đăng
Nhật khẳng định: Chương Han là sử thi tiêu biểu của người Thái ở Tây Bắc
Việt Nam. Xét về nội dung đề tài, Chương Han là sử thi thiết chế xã hội vì đề
tài của nó là sự ổn định trật tự xã hội. Bằng chiến tranh, Chương và đồng đội
đã đem lại sự thống nhất và hoà bình cho vùng Thái. Xét về thời kì ra đời,
Chương Han là sử thi cổ sơ. Vì xã hội Thái thời hình thành sử thi vẫn là xã hội
cổ sơ tiền quốc gia, hình thái tập trung cao nhất là 16 châu mường Thái, chưa
bao giờ hình thành nhà nước. Tuy nhiên đây là sử thi cổ sơ thời kì muộn, vì
rằng, đề tài của cuộc chiến đấu trong Chương Han là đấu tranh xã hội, không
phải là cuộc đấu tranh giữa con người với tự nhiên nhằm đạt đến những thành
tựu văn hoá nguyên thuỷ. Nhân vật chính là con người, không phải con người
và tự nhiên được biến hoá thành thú vật, quái vật như sử thi cổ sơ thời kì đầu.
- Bài viết của GS.TSKH.Phan Đăng Nhật với tiêu đề: “ Mối quan hệ giữa sử thi
Chương Han và sử thi Thạo Hùng hay Chương”. Trong bài viết này, GS Phan

9
Đăng Nhật đối chiếu hai bản sử thi: Chương Han của người Thái- Việt Nam và
Thạo Hùng của người Thái- Lào để tìm ra mối quan hệ giữa chúng. Đối chiếu
về nhân vật, GS đưa ra nhận xét: “dầu có sai khác ít nhiều, hệ thống nhân vật
trong 2 sử thi Thái- Lào và Thái- Việt cơ bản thống nhất”. Đối chiếu về cốt
truyện, GS nhận xét: Tuy có khác biệt nhỏ, nhưng toàn bộ cốt truyện là thống
nhất. Từ đó, GS Phan Đăng Nhật kết luận: Trường hợp của Chương Han và
Thạo Hùng hay Chương xét tính chất trùng lặp trong cả 2 phạm vi nhân vật và
cốt truyện, xét mức trùng lặp ở cấp độ cao, chúng ta có thể coi đây là những tác
phẩm cùng cội nguồn. Chương Han và Thạo Hùng hay Chương là các dị bản
của cùng một kiệt tác sử thi chung của người Thái, và còn không ít dị bản sử thi

Thái nữa, có chủ đề chung, mang tên Hùng(hoặc Chương) hiện lưu truyền tại
các vùng người Thái ở Đông Nam Á lục địa.
- Một số bài giới thiệu sử thi Thạo Hùng- Thạo Chương của Lào, Thái Lan.
Các công trình nghiên cứu trên đều mới chỉ bước đầu tìm hiểu và đi vào một
số khía cạnh nhỏ, chưa có công trình nào có cái nhìn bao quát toàn bộ Sử thi
Chương Han. Nhưng chúng tôi coi đó là những tiền đề vững chắc, những gợi ý
quí báu mà chúng tôi cần tham khảo, học hỏi trong quá trình nghiên cứu, triển
khai đề tài.
5- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
- Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm đến sử thi anh hùng Tây
Nguyên, các tác phẩm sử thi như Đăm Săn, Xing Nhã đã được người đọc biết
đến như những kiệt tác của văn hoá- văn học Tây Nguyên, ít người biết đến và
quan tâm đến sử thi Tây Bắc. Luận văn của chúng tôi là công trình nghiên cứu
sử thi Chương Han với tư cách là sử thi anh hùng của người Thái ở Tây Bắc
một cách toàn diện và hệ thống.
- Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng đặt sử thi Chương Han trong mối quan
hệ với khu vực Đông Nam Á mà trước hết là trong mối quan hệ với Lào , Thái
Lan để tìm ra những nét có tính bản địa và những nét mang tính khu vực.
6- CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:

10
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc
thành ba chương:
Chương 1: Người Thái và Văn hoá của dân tộc Thái ở Việt Nam.
Chương 2: Đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của sử thi Chương Han.
Chương 3: Bước đầu tìm hiểu sắc thái bản địa và quan hệ Đông Nam Á của
sử thi Chương Han.























11

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NGƢỜI THÁI VÀ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC THÁI Ở VIỆT
NAM
1.1. NGƢỜI THÁI Ở VIỆT NAM:
1.1.1. Việt Nam có khoảng trên dưới một triệu người Thái cư trú trên một địa
bàn khá rộng, liền từ Tây Bắc Việt Nam đến miền Tây Thanh Hoá, Nghệ An
(rải suốt từ sông Thao qua Sông Đà, sông Mã đến tận sông Lam). Họ cư trú
khắp toàn tỉnh Sơn La, Lai Châu, tập trung thành các huyện thuộc các tỉnh Lào

Cai, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An [50]. Đây là vùng
rừng núi trùng trùng điệp điệp, núi cao bao quanh các thung lũng, lòng chảo bị
chia cắt bởi các con sông, khe suối: Sông Đà, Sông Mã, Nặm Mu, Nặm Na;
phía Đông có dãy núi Hoàng Liên Sơn với những đỉnh Phanxipăng, PuLuông,
YamPhình, PuKhao Lương cao vút; phía Tây là dãy núi sông Mã với những
ngọn PuĐenĐinh, PaSamSao, PuLaiLeng điệp trùng [50]. Nằm giữa những
dãy núi tầng tầng, lớp lớp đó là cả một vùng cao nguyên rộng lớn: Mộc Châu,
Nà Sản (Sơn La). Đâu đó bên những thung lũng, lòng chảo có những dãy núi đá
vôi dựng đứng, có ngọn được chấm dứt bởi vết cắt thẳng từ trên xuống dưới
của lưỡi dao Ải Lậc Cậc trong truyền thuyết xa xăm thành “Pha Lan” (vách núi
đá) trắng xoá với nhiều hình thù vừa trữ tình, vừa bí hiểm. Chính vì vậy mà
người Thái đã có những câu thơ nổi tiếng nói về quê hương mình:
“Hên to phu tốc pú dặn duội
Huổi tốc huổi lạn cắp, hin hỏ”
Nghĩa là:
“Nhìn thấy chăng! núi tiếp núi trập trùng,
Suối reo, thác đổ, uốn khúc qua nền đá vôi”
Bốn cánh đồng rộng lớn miền Tây Bắc (cánh đồng Mường Thanh ở Điện
Biên – Lai Châu, Mường Lò ở Nghĩa Lộ – Yên Bái, Mường Than thuộc Than
Uyên – Lào Cai, Mường Tấc thuộc Phù Yên – Sơn La) và nhiều cánh đồng nhỏ

12
ven sông suối Tây Bắc, Tây Bắc Trung Bộ là vùng đất đai màu mỡ, phù hợp
cho nhiều cây trồng như lúa, ngô, khoai, sắn, các loại hoa màu và cây ăn quả…
Tuy vẫn thuộc vùng nhiệt đới nhưng khí hậu nơi đây lại vô cùng khắc nghiệt.
Một năm có thể chia làm ba mùa chính: mùa hanh khô, mùa sương mù và mùa
mưa. Mùa rét có khi nhiệt độ xuống thấp tới 4
o
C, mùa nóng lên tới 39
o

C và với
mỗi tiểu vùng cũng có nhiều khí hậu khác nhau. Có khi cùng một thời điểm ở
Mộc Châu, Sa Pa phải mặc áo rét, đắp chăn bông thì ở nơi khác chỉ cần mặc áo
cộc tay, ngủ không cần đắp chăn. Có khi trong một ngày có khí hậu của bốn
mùa. Khí hậu khắc nghiệt cùng với núi non hiểm trở khiến cả vùng này xưa
từng được coi là chốn “rừng thiêng nước độc”, từng là nơi “che giữ cho các
trấn như dậu như phên, án ngữ miền thượng du làm then chốt” [50,17].
Do địa hình phức tạp với núi cao, sông sâu nên dòng chảy các sông suối
của vùng cũng trở nên đột ngột, dữ dội. Dòng nước đổ dồn từ trên cao xuống
vực sâu tạo thành thác nước trắng xoá trên những triền núi xanh. Mùa mưa,
những trận nước lũ vô cùng hung hãn, dữ tợn. Nước lũ đục ngầu, ầm ầm, ào ào
cuốn theo những cây to và cả cành lá, rác rưởi, đá sỏi lao đi với một tốc độ và
âm thanh ghê người. Sau cơn thịnh nộ, nước rút để lại hai bên bờ sông nhiều
vệt bãi đá hộc, cát sỏi đủ hình thù kích cỡ được tinh luyện trơn tru và vệt các
loại cây đổ ngả nghiêng hai bên bờ. Con sông lại hiền hoà chảy, men theo các
thung lũng tưới nước và cung cấp phù sa màu mỡ cho các cánh đồng.
Trải quanh thung lũng là những dãy núi trùng điệp, nhấp nhô khoác trên
mình màu xanh cây lá của vùng nhiệt đới. Chúng hiện lên trong tầm nhìn và trí
tưởng tượng cuả con người với đủ hình thù những con vật khổng lồ như rồng
chầu, rắn lượn, hổ phục, đại bàng bay… tạo nên một thế giới sinh động vừa
hùng vĩ vừa khoáng đạt nên thơ. Mùa đông mây phủ đầy núi rừng mường bản,
tới chín, mười giờ mới có ánh nắng mặt trời. Đi trên những con đường vắt vẻo
trên sườn núi lẩn trong những dải sương mù người ta có cảm giác như mình
đang đi trong mây. Mùa xuân, hoa ban nở trắng những dải rừng núi xanh đậm
và đó đây điểm xuyết màu hồng phớt của hoa đào. Rừng nơi đây là rừng nhiệt
đới, ẩm, thấp, nhiều tầng cây cối, dây leo chằng chịt. Nhất là những cánh rừng

13
nguyên sinh vùng Tây Bắc. Vẻ rậm rạp, âm u của nó là nơi hội tụ của nhiều
loài động thực vật. Ở đó, ánh nắng mặt trời hầu như không vượt qua được

những lớp cành lá giao nhau đan kín. Thảng hoặc trên những lối mòn dưới tán
cây ta mới thấy được những tia nắng chiếu xuống thân cây và tầng thổ nhưỡng
dưới mặt đất thành những hình hoa nắng lốm đốm. Ngày xưa,đi trên những con
đường mòn rậm rạp nối từ mường này đến mường kia, bản này đến bản khác
phải đi qua rừng. Phải có lòng can đảm lắm người ta mới dám một mình vượt
qua những lối mòn ấy bởi bất kỳ một hình thù hay tiếng động lạ hoặc một cành
cây khô rơi cũng làm gai người, run sợ cho là có “phipa” (ma rừng) trêu.
Không gian núi rừng Tây Bắc cũng có lúc thật buồn rầu ảm đạm. Đó là
vào mùa mưa, những trận mưa rừng kéo dài hàng tháng khiến người ta đi đâu
cũng ngại, chỉ ở nhà nghe âm thanh ồ ồ ngoài suối; tiếng tí tách của mưa rơi
bên dưới vòm lá, ngoài mái nhà tranh; tiếng côn trùng kêu rả rích kéo dài,
không dứt… Vào buổi chiều đông những ngọn gió lạnh thổi vào rừng cây hoặc
những cơn gió lạnh buốt từ rừng già mang theo hơi buốt của núi đá thổi ào đến
làm mọi vật như co lại vì cái lạnh cắt da cắt thịt. Đêm đêm, trong giấc ngủ im
lìm của núi rừng nổi lên lúc khoan lúc nhặt tiếng khảm khắc, tiếng côn trùng,
tiếng rì rầm của khe suối xa hòa cùng tiếng cọn nước đổ xuống lin… Cảnh vật
và âm thanh ấy tạo nên khung cảnh của mùa đông buồn bã ở núi rừng Tây Bắc
và Tây Bắc Trung Bộ.
Đồng bào Thái nói riêng, các dân tộc ít người khác nói chung sinh sống
lâu đời nên có mối quan hệ gắn bó thân thiết, mật thiết với thiên nhiên rừng
núi. Rừng bạt ngàn là nơi cung cấp mọi nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống
hàng ngày của con người từ gỗ làm nhà, củi nấu ăn và sưởi ấm, chiếu sáng, lá
thuốc, thú rừng và cả nương. Trong những tháng giáp hạt hoặc không may mất
mùa thì rừng núi trở thành vị cứu tinh hào phóng và nhân từ. Gắn bó với núi
rừng, họ quen từng mỏm đồi, khe suối, lùm cây, mô đất, tảng đá… Những sự
vật tự nhiên vô tri, vô giác đã thành người bạn thân thiết của con người. Nỗi
buồn, niềm vui và ngay cả tình thương nỗi nhớ nhiều khi cũng được trao gửi
cùng thế giới tự nhiên:

14

“Lôm a lôm ơi
Lôm pay tẳu va lôm mưa nưa lể
Va lôm pay tẳu khuôn ha chí pá khó cưa
Va lôm mưa nưa khuông chai chí pak lót lai
Lôm pín chai khuôn pi chí pak quam xương lay nơ
Xai lả hua co chai ơi” [17,256]
Dịch nghĩa:
“Gió à gió ơi
Gió xuôi hay gió ngược
Gió xuôi cho ta gửi theo gói muối
Nếu gió ngược cho trai gửi theo cuộn tơ
Nếu gió lốc quay anh gửi em lời thương
Tình thương, tình nhớ ơi”
Địa lý thiên nhiên, núi rừng, sông suối, đất đai không chỉ là cảnh quan môi
trường sinh thái địa lý tự nhiên mà còn là mạch nguồn cho những tâm hồn thi sĩ
vùng cao. Những áng văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và văn
học dân gian Thái nói riêng tuôn chảy từ mạch nguồn cảm hứng ấy nên mang
âm hưởng của tự nhiên, hơi thở của núi rừng, cái trong trẻo tinh khiết của nước
nguồn khe suối.
1.1.2. Sau người Tày, người Thái là dân tộc thiểu số đông thứ hai ở Việt Nam,
chiếm 60% dân số của 22 dân tộc[50,15] cư trú dọc vùng Tây Bắc (thuộc các
tỉnh Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai, Hoà Bình) và miền Tây Bắc Trung
Bộ (Tây Nghệ An và Thanh Hoá).
Người Thái có hai ngành: Thái đen và Thái trắng. Thái đen (Táy đăm) cư
trú chủ yếu ở Văn Chấn (Yên Bái), Than Uyên (Lào Cai), Mường La, Thuận
Châu, Mai Sơn, Sông Mã (Sơn La), Tuần Giáo, Điện Biên, Sìn Hồ, Phong Thổ,
Quỳnh Nhai (Lai Châu), miền Tây Thanh Hoá và Tây Nghệ An. Thái trắng cư
trú chủ yếu ở Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, Mai Châu- Hoà Bình,
Mường Chiên( Quỳnh Nhai), Mường Chiến( Mường La), Mộc Châu và Phù
Yên.


15
Các công trình khoa học của những nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra được
những phác thảo về tổ tiên của người Thái. Tổ tiên người Tày- Thái là một
trong các tộc thuộc thành phần tộc người Mông-gô-lô-ít phương Nam đã hình
thành và sinh tụ ở vùng Xip-xong-păn-na (thuộc Nam Trung Quốc và Bắc
Đông Dương ngày nay). Những dân tộc này đã góp phần tạo nên một nền văn
hoá có nhiều nét đặc sắc thường gọi là văn hoá phương Nam. Theo sử sách
Trung Quốc cho rằng, từ thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên đến đời Tần –
Hán về sau đã diễn ra mạnh mẽ những cuộc thiên di rộng lớn của tổ tiên các
dân tộc Miến, Di, Bạch và tổ tiên người Hán xuống miền Nam và Tây Nam
Trung Quốc hoặc miền đầu nguồn các con sông lớn chảy vào Đông Dương. Kết
quả là các tộc người bản địa vùng này phải thiên di xuống phía Nam hoặc dạt
vào vùng rừng núi. Sự hỗn hợp nhân chủng và văn hoá diễn ra mạnh mẽ làm
thay đổi cục diện của người Tày – Thái. Hai cuộc thiên di lớn vào cuối thiên
niên kỷ I trước Công nguyên và đầu thiên niên kỷ II sau Công nguyên theo
hướng Tây Nam và Nam đã tách khối Tày – Thái làm đôi. Cho đến đầu Công
nguyên sự phân bố ngành Tày – Thái phía Đông về cơ bản đã ổn định. Còn sự
phân bố ngành Tày – Thái ở phía Tây thì ổn định muộn hơn.
Quá trình tách khỏi tổ tiên Tày cổ của tộc người Thái gắn liền với quá
trình chinh phục những miền đất mới vốn là khu vực cư trú của những tộc
người tiền Thái. Đó là các tộc người nằm trong trong nhóm ngôn ngữ Môn-
Khơme, bao gồm Khơmú, Mảng, Khơme, Xinhmun, Cơtu, Laha. Theo Đặng
Nghiêm Vạn, vào khoảng thế kỷ XI-XII, một bộ phận tổ tiên ngành Thái đen
do anh em dòng họ Tạo là Tạo Xuông và Tạo Ngơn dẫn đầu xuôi theo dòng
“Nậm Tao” (sông Hồng) đến hạ lưu thì tạt sang bên phải chiếm đất Mường Lò,
lấy cánh đồng Mường Lò – Nghĩa Lộ ngày nay làm trung tâm. Sau đó một thời
gian, hậu duệ của dòng họ Tạo thủ lĩnh là Lạng Chượng cầm binh thu phục dần
các bộ tộc Nam Á từ Nghĩa Lộ qua Sơn La và tới Điện Biên [64, 218]. Cùng
thời đó, một bộ phận Thái trắng khác ở Lào do thủ lĩnh Nhọt Cằm cầm đầu đến

cư trú ở vùng phía Nam Tây Bắc [49]. Hành trình của Lạng Chượng , Nhọt
Cằm mở đầu giai đoạn tầng lớp thống trị Thái làm chủ miền Tây Bắc. Họ cư trú

16
ổn định theo các cánh đồng lớn và những thửa ruộng bậc thang ven sông, suối
vừa làm ruộng vừa làm nương. Với bàn tay lao động cần cù, chịu khó,, người
Thái dần xây dựng các bản mường Tây Bắc trở thành hùng mạnh, giàu có,
đông vui rộn ràng tiếng khắp, tiếng đàn.
Do địa bàn cư trú và những cuộc di dân lớn, các ngành Thái trắng, Thái
đen đã chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi nền văn hoá và nhân chủng của các cư dân
địa phương nơi mà họ đi qua. Nói cách khác, người Thái trong lịch sử đã có
quá trình hỗn dung và tiếp biến văn hoá bởi các dân tộc anh em để tạo nên sắc
thái văn hoá của cả vùng.
Những áng mo của người Thái đã “vô tình” kể lại quá trình thiên di này:
“Đưa xuống núi Kẹo Pét
Đưa xuống nép Kẹo Piên
Xuống đến mường Lử trên đất Lào
Xuống đất Lào đất rộng trời thấp
Xuống đến mường Thanh dưới, Thanh trên
Xuống mường Đói, mường Đuôn
Xuống mường Lằm, mường Lèo
Xuống mường Húng, Chiềng Khương…”
[Theo Lê Sỹ Giáo ]
Đoạn mo này kể lại đường đi của cỏ cây, súc vật từ trên trời xuống trần
gian. Một loạt những địa danh của Tây Bắc, Lào, Thanh Hoá đã được nhắc đến.
Các tên đất tên mường này phản ánh một cách rõ ràng con đường di dân của
người Thái Việt Nam: từ Tây Bắc Việt Nam, từ Lào dọc theo sông Mã xuống
miền Tây Thanh Hoá, Nghệ An.
Các truyện dân gian của dân tộc Thái đã có sự vay mượn những hình
ảnh, môtif, cốt truyện của các dân tộc khác như Kháng, Xá, Lào… trong quá

trình cộng cư. Nhiều tác phẩm dân gian của dân tộc Thái ở Việt Nam có mối
quan hệ gần gũi với các phẩm dân gian của các nước trong khu vực. Sử thi
Chương Han là một minh chứng. Trong “Quắm tố mướng” có truyện kể rằng
sau nạn hồng thuỷ, mọi sinh vật đều bị chết hết, trái đất trở nên hoang vu.

17
Trước cảnh đó, Then (chủ mường Trời) mới nghĩ ra cách xây dựng lại trần gian
đông vui như xưa. Then đã sai Tạo Xuông, Tạo Ngơn đem theo tám “tau pung”
(quả bầu) xuống trần gian, ở ngoài mường Trời của Then. Mọi giống loài chứa
đủ trong đó. Sáu quả bầu được Tạo Ngơn đem xuống mường Lò đẻ ra các
giống loài và sáu cột chống trời. Còn hai quả rải đi các nơi khác thành giống
người Mường Dôn, mường Lào, mường Lự.
Ở Tây Bắc Việt Nam có lưu truyền các truyện kể về người anh hùng Chương
Han, ở tây Nghệ An có anh hùng ca Khủn Chưởng, ở Lào và Thái Lan có sử thi
Thạo Hùng hay Chương. Đây là một bằng chứng về sự giao lưu, gắn kết nhau
của người Thái ở Việt Nam và người Lào, người Thái Lan. Giao lưu văn hoá
giữa các dân tộc gần gũi nhau về môi trường địa lý – lịch sử là một quá trình tất
yếu để tạo nên bản sắc văn hoá chung của cả vùng bên cạnh những nét độc đáo
riêng của từng dân tộc. Sản phẩm của quá trình giao lưu đó là những hiện tượng
văn hoá - xã hội – văn học nghệ thuật như sử thi Chương Han.
Những khía cạnh có tính sơ lược về lịch sử người Thái nói trên phần nào
giúp chúng ta hình dung được một trong những mạch nguồn văn hoá, môi
trường sinh ra văn học dân gian Thái nói chung, sử thi Chương Han nói riêng.
1.1.3. Sau nhiều thế kỷ nhọc nhằn trên những bước đường chinh chiến “pang
tạo tố mương” (thời kỳ đi tìm mường) là đến thời kỳ ổn định cư trú làm kinh tế
nông nghiệp xây dựng bản mường: “pang tạo kin mương” (thời tạo xây
mường). Do đặc trưng của địa bàn cư trú không chỉ có núi cao rừng rậm, sông
sâu mà còn thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới thuận lợi cho cây
cối phát triển, người Thái cổ đã sớm chuyển từ săn bắt, hái lượm sang trồng
trọt, chăn nuôi. Điều kiện thiên nhiên đã dẫn dắt con người tới việc thiết chế

đồng ruộng. Theo Cầm Trọng – Phan Hữu Dật và nhiều nhà nghiên cứu tâm
huyết khác, người Thái là một cộng đồng tộc người sớm có nền văn hoá lúa
nước ở trong các thung lũng lòng chảo [50, 55]. Nhiều sử sách, truyện kể cho
biết người Thái sớm biết tận dụng yếu tố nước và đất để khai khẩn đất đai làm
ruộng, mở rộng diện tích canh tác trên các cánh đồng lớn nhỏ ở các thung lũng
lòng chảo hoặc ở ven các con sông, con suối. Rõ ràng, người Thái là cư dân

18
nông nghiệp và ban đầu chủ yếu là trồng lúa nước. Qua nhiều thế hệ kiến tạo,
người Thái đã có kinh nghiệm kĩ thuật thâm canh cây lúa. Họ cũng đã xác định
được bốn yếu tố “cần” của nghề trồng lúa theo thứ tự “nước – phân – cần –
giống” để tăng năng suất. Theo đó, người Thái xây dựng một hệ thống tưới tiêu
độc đáo bao gồm bốn yếu tố “mương – phai – lái – lin” thích hợp với địa thế
của ruộng nước. Tức là họ biết khơi những đường dẫn nước (Mương), đắp đập
ngăn nước (Phai), đặt “cọn” và dẫn nước qua chướng ngại (Lái) và làm các
máng để dẫn nước vào ruộng (Lin). Hệ thống tưới tiêu này đã trở thành nét văn
hoá rất đặc trưng của người Thái: văn hoá thung lũng. Đặc trưng văn hoá này
đã được phản ánh bằng những hình tượng văn học trong khá nhiều truyện kể
Thái như Quắm tố mướng, Táy pú xấc, các truyện thơ.
Người Thái còn kết hợp làm nương rẫy, trồng những cây, củ, quả dùng
làm thức ăn và cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết để đáp ứng nhu cầu
cuộc sống: quần áo, chăn màn, đệm… Họ cũng làm thêm những nghề phụ khác
như nghề dệt vải, đan lát… Cuộc sống của những cư dân Thái chủ yếu là tự
cấp, tự túc. Con người sống dựa vào rừng, sông, suối bởi nó là nơi cung cấp
nhiều nguồn lương thực, thực phẩm bổ sung cho bữa ăn làm phong phú thêm
đời sống vật chất, tinh thần của họ. Điều kiện kinh tế vật chất của người Thái
đã ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá, tinh thần và liên quan chặt chẽ tới
quan niệm sống của họ trong mọi thời đại.
1.1.4. Cho đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, xã hội Thái là một xã hội
thuộc “thời kỳ đầu của chế độ phong kiến còn nhiều tàn dư của chế độ trước

đó” [55] biểu hiện ở việc sở hữu ruộng đất, bộ máy cai trị và nông dân lao
động.
Tất cả đất đai, ruộng nương, nguồn nước… đều thuộc quyền sở hữu công
cộng của mường. Nhưng tùy nơi trong quá trình lịch sử cũng có sự diễn biến
khác nhau. Có nơi, chúa đất thực chất là kẻ chiếm hữu đất đai ruộng nương.
Theo địa vị và chức phận, mỗi thành viên trong mường đại diện nhận một số
ruộng để làm ăn và đóng góp thóc “gánh vác” để nuôi người bề trên và chi
dùng vào việc của mường.

19
Bộ máy cai trị trong một mường Thái gồm Chẩu Mường, Phìa, Tạo và
những người cầm đầu các lãnh chúa phong kiến. Đứng đầu mường là Chẩu
Mường, đứng đầu Phìa là Tạo Phìa, đứng đầu bản là Tạo Bản. Mường là lãnh
địa cát cứ của Chẩu Mường, có bộ máy cai trị hoàn chỉnh về nội chính, quân sự
và ngoại giao. Dưới Chẩu Mường, các lãnh chúa cai trị ở mỗi vùng theo luật
chung cổ truyền. Ngoài ra, họ còn tự đặt luật riêng theo sở thích cá nhân (lệ
làng) để tha hồ thao túng, bóc lột nhân dân. Xã hội Thái có hai tầng lớp chính:
quí tộc quan lại và dân “gánh vác” hay “cuông, nhốc, puapai”. Quan hệ giữa
hai tầng lớp theo hệ thống khép kín từ trên xuống dưới. Bọn quí tộc quan lại
thống trị luôn tìm mọi cách biện minh cho hành động của mình là dựa vào “luật
đới xơ” (luật đời xưa) nào đó, tự mệnh danh là thay mặt “then” để trị dân. Ngay
cả đến cha, mẹ, chú, bác… những kẻ vừa là nạn nhân vừa là người thực hiện
thứ luật đó, cũng luôn tỏ ra mẫn cán thực thi, có khi còn hoàn toàn tin tưởng
rằng mình làm đúng. Đây chính là nếp nghĩ đã ăn sâu vào tiềm thức người Thái
xưa, làm cho ngay cả các nạn nhân đáng thương cũng vẫn cứ tin là mình đang
được hưởng lẽ công bằng, vẫn tin luật lệ đó là chân lý.
Trong xã hội Thái còn tồn tại hệ thống Mo chang từ Mường xuống bản -
đó là hệ thống cai trị phần hồn của người Thái. Cao nhất là “Mo mường” đứng
bên cạnh Chẩu mường, được Chẩu mường kính nể. Người Thái ấn định “Hó
Lương hệt mo, hó Lo hệt quản” (Họ Lương làm mo, họ Lò làm quan). Ông Mo

là người am hiểu vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc đầy đủ và sâu sắc nhất. Họ
thay mặt Chẩu mường tiếp xúc với tổ tiên khi cúng lễ, ngoài ra còn biên soạn
luật tục, lễ nhạc giúp Chẩu Mường cai quản bộ tộc. Ngoài những Mo mường
người Thái thường gọi là Mo luông (Mo lớn) còn có Mo nọi (Mo nhỏ), Mo bản
giúp làng bản, dân chúng cúng lễ tổ tiên. Những Mo này là cầu nối giữa tầng
lớp quí tộc quan lại với dân, gắn bó với đời sống nhân dân, thuộc lòng và lưu
giữ nhiều vốn văn hoá, văn học dân gian cổ truyền.
Nhân dân lao động làm thuê là đối tượng cai trị bóc lột của Chẩu Mường,
Phìa, Tạo. Họ thuộc số đông luôn bị lệ thuộc, có trách nhiệm và bổn phận

20
“gánh vác” làm thuê ruộng của Phìa, Tạo dưới những hình thức khác nhau như
“cuông, nhốc, puapai”.
1.1.5. Quan hệ gia đình và hôn nhân của người Thái có nhiều nét độc đáo, khác
lạ mang đặc trưng riêng của tộc người. Ở vùng Thái trước đây tồn tại chế độ
đại gia đình: ông, bà, cha mẹ, con cháu sống chung trong một nhà sàn rộng lớn.
Người đứng đầu gia đình có nhiệm vụ điều khiển mọi công việc về mặt kinh tế,
đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng, ma chay, cưới xin và thay mặt gia đình trước
bản mường. Các thành viên thường sống hoà thuận, con cái, cháu chắt được
chăm sóc chung. Sau này chế độ tiểu gia đình dần dần được thay thế với tính
chất phụ quyền của nó. Theo tục lệ Thái, chủ gia đình nằm cạnh cột chính bên
cạnh tổ tiên (ma nhà) và là người điều khiển những công việc gia đình. Người
phụ nữ Thái thường là hình ảnh của con người chịu thương chịu khó, yêu
chồng thương con, kính trọng bố mẹ nhưng vẫn giữ địa vị thấp kém hơn nam
giới. Sau giải phóng, quan hệ gia đình Thái có phần công bằng hơn nhưng tư
tưởng cổ hủ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống người dân.
Quan hệ họ hàng giữa các gia đình người Thái cũng rất độc đáo và phức
tạp. Người Thái có mối tình họ hàng thân thuộc sâu sắc. Họ quan niệm “báu ải
có noọng” (không anh cũng em), “báu lung cọ ta” (không anh em phía vợ cũng
anh em phía mẹ,phía bà), “báu nhinh cọ xao” (không anh em phía chồng các

chị gái cũng anh em phía chồng các em gái). Trong một bản có rất nhiều những
quan hệ anh em chồng chéo, móc nối lẫn nhau thành nhiều lớp quan hệ. Theo
tập tục của người Thái, các mối quan hệ đó tự nó phân thành quan hệ ba họ: Ải
noọng (anh chị em ruột, kể cả cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ),
Nhinh xao (nhóm cô, họ phía đàn ông hay họ nội), Lung ta (nhóm cậu, họ
phía đàn bà hay họ ngoại) [50, 232]. Dân tộc này còn mang nặng phong tục tập
quán tôn trọng họ ông cậu (Lung ta), coi Lung ta là trời riêng: “Anh vợ là Trời,
em vợ là Then” (pi lung phạ, noọng nạ then). Nhưng thông thường, những
người trong các mối quan hệ đó đều có trách nhiệm với nhau, đặc biệt là khi
cưới vợ gả chồng hoặc ma chay.

21
Tính chất phức tạp của xã hội còn thể hiện ở tục lệ cưới xin và nghi lễ
ma chay, cúng tế khá nặng nề. Việc dựng vợ gả chồng được qui định bằng
những luật lệ chặt chẽ và phức tạp. Có những luật bất thành văn nhưng ai cũng
phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt, nếu sai sẽ bị xã hội lên án hoặc không
được chấp nhận. Trước khi cưới vợ về nhà, người con trai phải thực hiện tục ở
rể, nhiều từ 6 – 12 năm hoặc ít hơn. Thời gian ở rể đầu tiên gọi là „rể quản” từ
ba tháng đến ba năm, không được tính vào công việc ở rể chính thức. Rể quản
ăn ở riêng ở gian ngoài quản, coi như khách ở chơi. Đây là quãng thời gian thử
thách lòng trung thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức và khả năng lao động của
chàng trai. Sau thời gian thử thách rồi mới được dịch chăn đệm gần nhau làm lễ
chung chăn. Khi ấy, chàng rể mới thành rể chính thức và phải lao động sản
xuất, làm mọi công việc như một thành viên thực sự của nhà vợ. Cũng từ đó,
người con gái mới được làm lễ “búi tóc ngược” thành gái có chồng. Hết hạn ở
rể chính, gia đình nhà trai mới tổ chức nghi lễ “xống pơ” tạ ơn bố mẹ cô gái và
đón con trai, con dâu cùng đàn cháu (nếu có) về nhà. Hôn nhân gả bán (ngân ca
hua) và tục ở rể (khươi mia) là những tục lệ nặng nề trong hôn nhân của người
Thái thủa trước, gây ra bao oan trái, khổ đau, chia lìa đối với nam nữ thanh
niên đến tuổi yêu đương, lấy vợ, lấy chồng. Người phụ nữ sẽ trở thành vật sở

hữu và chịu mọi sự điều khiển của chồng nếu anh ta đã nộp đủ đồ sính lễ, tiền
thách cưới (ngân ca hua) do gia đình vợ yêu cầu. Trái lại, chàng trai rất khó lấy
được vợ khi nhà nghèo không đủ đồ sính lễ, tiền bạc do nhà gái thách cưới, cho
dù đôi trai gái yêu nhau tha thiết. Đây là trường hợp khá phổ biến trong xã hội
xưa.
Mặc dù vậy, do lòng yêu sống, yêu tự do, khát khao hạnh phúc nên ý
thức dân chủ trong xã hội của người Thái khá cao. Nó thể hiện rõ ở mối quan
hệ giữa người với người trong gia đình họ hàng, làng xóm, bạn bè, tình yêu…
đặc biệt là trong tình yêu nam nữ. Mâu thuẫn lớn mang tính bị kịch trong tình
yêu muôn thuở của con người là mâu thuẫn giữa tình yêu tự do và hôn nhân gả
bán. Trong khi các cô gái người Kinh chịu sự kìm toả nặng nề của quan niệm
“nam nữ thụ thụ bất thân”, “bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thì các cô gái, chàng

×