Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

Không gian văn hóa Hồ Tây qua nguồn tư liệu văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 196 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
====***====




NGUYỄN THỊ LÊ





KHÔNG GIAN VĂN HOÁ HỒ TÂY
QUA NGUỒN TƯ LIỆU VĂN HỌC





LUẬN VĂN THẠC SĨ



Hà Nội - 2009

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
====***====





NGUYỄN THỊ LÊ




KHÔNG GIAN VĂN HOÁ HỒ TÂY
QUA NGUỒN TƯ LIỆU VĂN HỌC



LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : Việt Nam học
Mã số : 60 31 60
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Nho Thìn


Hà Nội - 2009


2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 8

4.1. Đối tượng nghiên cứu 8
4.2. Phạm vi nghiờn cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn 8
6. Kết quả đóng góp của luận văn 9
7. Bố cục của luận văn 9
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIấN CỨU VÀ CÁC
KHÁI NIỆM 10
1.1. Khái niệm văn hóa, không gian văn hóa và xu hướng tiếp cận văn hóa
học trong nghiên cứu văn học 10
1.2. Giới hạn khu vực Hồ Tõy 16
CHƢƠNG 2: KHÔNG GIAN VĂN HÓA VẬT THỂ VÙNG HỒ TÂY QUA
VĂN HỌC 19
2. 1. Lao động sản xuất các sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống và sinh hoạt 19
2.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới không gian lao động sản xuất vùng
Hồ Tây xưa 19
2.1.2. Một số hoạt động lao động sản xuất của người dân vùng Hồ Tây xưa 29
a) Nghề dệt 29
b) Nghề làm giấy 34
c) Nghề đúc đồng 42
2.2. Lao động cải tạo môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, xõy dựng
những cụng trỡnh kiến trỳc phục vụ cuộc sống của người dân vùng Hồ
Tây xưa 45

3
CHƢƠNG 3: KHÔNG GIAN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ VÙNG HỒ TÂY
QUA VĂN HỌC 59
3. 1. Phong tục, lễ hội vựng Hồ Tõy 59
3.2. Đời sống tâm linh, tín ngưỡng vùng Hồ Tây 62
3.3. Khụng gian sinh hoạt văn chương vùng Hồ Tây 70
3.3.1. Hỡnh tượng Hồ Tây trong văn học 70

a) Vẻ đẹp, sức hấp dẫn của văn hóa Hồ Tây trong văn học 70
b) Hồ Tây qua cuộc chiến luận văn chương 84
3.3.2. Hồ Tây - nơi gặp gỡ văn chương 90
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100


















4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Khụng bao giờ, ai mà cú thế núi hết được về Hồ Tây - tôi ngỡ thế”,“nghĩ về Hồ
Tây, tưởng như cả cuộc đời cũng chưa thể thấu hiểu được cuộc sống trước sau của
người, của cảnh một vũng hồ ấy”{21; tr 171-172}.
Hồ Tây là một thắng cảnh của Thăng Long, từ khi Thăng Long được chọn làm

kinh đô của nước Đại Việt, vùng Hồ Tây đó tham gia tớch cực vào quỏ trỡnh kiến tạo
văn hóa Thăng Long. Hồ Tây là một vùng đất cổ, một không gian đặc biệt của thủ đô
Hà Nội. Hồ Tây nằm sát khu vực Hoàng thành - trung tâm chính trị và khu vực 36 phố
phường - trung tâm buôn bán của kinh thành Thăng Long xưa nên muốn hiểu lịch sử
văn hóa Thăng Long - Hà Nội dứt khoát không thể bỏ qua khu vực Hồ Tây. Giữa cái
ồn ào, sầm uất của chốn phồn hoa đô hội, Hồ Tây giống như một “khoảng lặng”, một
điểm nhấn để tạo nên sự cân bằng, tạo nờn sự hài hũa cõn đối cho tổng thể không gian
văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Quá trỡnh phỏt triển hay quỏ trỡnh văn hóa hóa Hồ
Tây gắn liền với các triều đại phong kiến. Hồ Tây là nơi du ngoạn, thưởng lóm, xõy
dựng hành cung của cỏc bậc vua chỳa, nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa cung đỡnh,
nơi đó từng đọng lại và xếp lớp biết bao huyền thoại, in dấu tích của biết bao tao nhân
mặc khách, của những danh nhân chốn phồn hoa thứ nhất Long thành. Hồ Tây vẫn, đó,
đang và sẽ mói cũn là nguồn đề tài vô tận của thi ca, nhạc họa…
Nghiên cứu không gian văn hóa Hồ Tây là một cách tiếp cận không gian văn hóa
Thăng Long. Cấu trúc và lịch sử hỡnh thành, phỏt triển của khụng gian văn hóa Hồ
Tây phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cấu trúc và lịch sử không gian văn
hóa Thăng Long - Hà Nội. Hồ Tây là nơi hội tụ và lan tỏa những tinh hoa văn hóa của
đất Thăng Long ngàn năm văn vật, nơi hun đúc lên “hùng khí Thăng Long” lẫm liệt.
Mỗi tên đất, tên làng, tên đền, tên miếu thậm chí mỗi gốc cây, gũ bói nơi đây đều gắn
với những con người, những truyền thuyết ly kỳ, hấp dẫn, gợi cho chúng ta chút hoài
niệm, luyến tiếc, tự hào… Lịch sử không ngừng đi tới có một nguồn mạch thơ ca dài
theo năm tháng. Xó hội ngày càng phỏt triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiờn tiến,
con người ngày càng văn minh hiện đại thỡ càng cú xu hướng trở về nguồn cội, trở về
với những giá trị tư tưởng của dân tộc. Thủ đô đang từng ngày thay da đổi thịt, Hồ Tây
với một vốn liếng văn hóa dân gian phong phú có một vai trũ đặc biệt quan trọng.

5
Không gian văn hóa Hồ Tây vừa mang những nét đặc thù của văn hóa Thăng Long -
Hà Nội, vừa mang những nét riêng biệt.
Mặt khác, trong những năm gần đây, khuynh hướng nghiên cứu văn hóa theo

vùng đang ngày càng trở nên phổ biến trong các công trỡnh nghiờn cứu về văn hóa.
Nú khụng chỉ là những cảm nhận, những ý niệm sơ khai nữa mà đó mang tớnh chất lý
thuyết và phương pháp luận khoa học. Thăng Long - Hà Nội chính là một trong những
vùng được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý nhiều nhất. Và khi nghiờn cứu về
Thăng Long - Hà Nội có một khu vực mà người nghiên cứu không thể không nhắc tới,
đó là Hồ Tây.
Văn học thuộc loại văn hóa phi vật thể, nó ghi lại những quan sát, tư tưởng, ấn
tượng, cảm xúc của con người trong hoạt động sống, lao động, sinh hoạt Đến lượt
mỡnh cỏc hoạt động sống, kể cả hoạt động tác động thế giới tự nhiên và xó hội của
con người thực chất mang tính chất văn hóa. Vỡ thế, văn học có giá trị tư liệu to lớn để
tỡm hiểu văn hóa. Nhưng cách tiếp cận văn hóa Việt Nam qua dẫn liệu văn học hiện
chưa được chú ý đúng mức. Luận văn này có ý nghĩa xỏc lập thờm một hướng tiếp cận
văn hóa qua tư liệu văn học.
Với những ý nghĩa như thế, luận văn triển khai nhằm có được một cái nhỡn
tương đối đầy đủ và trọn vẹn về vùng văn học Hồ Tây, về không gian văn hóa Hồ Tây
trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, thấy được vai trũ, vị trớ của nú đối với tổng thể
vùng văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Thủ đô của chúng ta sắp nghỡn năm tuổi, đang
phát triển mạnh mẽ không ngừng, chúng ta phải làm thế nào để lưu giữ và bảo tồn
được những nét văn hóa truyền thống đặc trưng của khu vực.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói đến các tác phẩm nghiên cứu về Hồ Tây, về không gian văn hóa vùng Hồ
Tây, trước tiên chúng ta phải nhắc tới các tác phẩm địa chí. Năm 1435, Nguyễn Trói
viết Dư địa chí. Trong tỏc phẩm này Nguyễn Trói nhắc đến địa danh Hồ Tây với một
số sản vật tiêu biểu của các làng vùng ven.
Một số tác phẩm dư địa chí nổi tiếng khác như Bắc thành địa dư chí lược do tổng
trấn Lê Công Chất và các danh nho đó tập hợp biờn soạn vào khoảng đời Minh Mệnh
triều Nguyễn; Hoàng Việt nhất thống dư địa chí được biên soạn vào năm Gia Long thứ
5 (1806); Đại nam nhất thống chí được biên soạn trong khoảng thời gian từ sau năm

6

Tự Đức thứ 18 (1864) đến trước năm Tự Đức thứ 29 (năm 1875); Đồng Khánh dư địa
chí được hoàn thành dưới thời Đồng Khánh (1886 – 1887). Trong các tác phẩm địa chí
này đều ít nhiều nói về vùng Hồ Tây chủ yếu là về cương giới, sự tích, tên gọi, thổ sản,
phong tục tập quán
Ở thể loại địa chí, Tõy Hồ chớ là tập địa chí khảo về vùng Hồ Tây cùng những
làng xó lõn cận khỏ chi tiết. Nội dung khảo cứu ngoài phần Địa dư bao gồm 14 mục
hỡnh thế, nguồn gốc, nỳi sụng, cổ tớch, phần mộ, từ viện, tự am, đệ trạch, sản vật,
nghề nghiệp, tiểu truyện, nhân vật, tiên thích và văn chương. Mặc dù vẫn cũn nhiều ý
kiến xung quanh giá trị khoa học của tác phẩm này song thực sự đây vẫn là công trỡnh
khảo cứu về lịch sử, văn hóa Hồ Tây một cách khá toàn diện và đầy đủ.
Ngoài các tác phẩm địa chí thỡ cũn một khối lượng lớn các tác phẩm văn học viết
về vùng Hồ Tây. Hồ Tây là chủ thể khơi nguồn sáng tác cho vô số các bài ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, truyền thuyết, giai thoại. Có thể nói Hồ Tây là một vùng văn học độc
đáo trong tổng thể vựng văn học Thăng Long – Hà Nội. Đây là nguồn cảm hứng vô tận
cho các thi nhân như Nguyễn Mộng Tuõn, Sỏi Thuận, Phựng Khắc Khoan, Nguyễn
Quý Đức, Đoàn Nguyên Tuấn, Vũ Quỳnh, Hải Thượng Lón ễng, Nguyễn Huy Lượng,
Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du Hồ Tõy cũn là nơi
gặp gỡ của các cuộc văn chương kỳ ngộ: Nguyễn Trói – Nguyễn Thị Lộ, Trạng Bùng
Phùng Khắc Khoan – Liễu Hạnh, Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương Một số tác phẩm
văn xuôi tiêu biểu viết về Hồ Tây như Vũ trung tựy bỳt của Phạm Đỡnh Hổ, Thượng
kinh ký sự của Lờ Hữu Trỏc, Chuyện trong phủ chỳa của Nguyễn Án
Vũ trung tựy bỳt của Phạm Đỡnh Hổ là tập bỳt ký ghi chộp về đời sống xó hội
nước ta vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu XIX trong đó ghi chép về cuộc sống
sinh hoạt xa hoa của các bậc vua chúa xưa ở khu vực Hồ Tây qua đó mà thấy được vẻ
đẹp, sức cuốn hút của Hồ Tõy.
Lờ Hữu Trỏc với tỏc phẩm Thượng kinh ký sự đó cho chỳng ta một cỏi nhỡn đầy
đủ, chân xác về cảnh sắc một vùng trời nước Hồ Tây vào những năm ở thế kỷ XVIII
với những “lâu đài cao ngất, uy nghi rải suốt đông tây, hoàng cung bày ra khí thế {54;
tr 8}; búng cõy ở ly cung um tựm, thấp thoỏng, khi ẩn khi hiện. Trờn bói một dóy lõu
đài. Cỏ hoa đua tươi, khoe hồng phô biếc”{54; tr 452}.


7
Về những cuốn sỏch, những cụng trỡnh sưu tầm, nghiên cứu về Hồ Tây hoặc là
viết riêng về Hồ Tây hoặc là một phần trong những cụng trỡnh viết về Hà Nội thỡ
phần lớn đều xuất hiện sau năm 1945. Tiêu biểu có Địa chí văn hóa dân gian Thăng
Long – Đông Đô – Hà Nội của Đinh Gia Khánh và Trần Tiến; Tỡm lại dấu vết thành
Thăng Long của Phạm Hõn; Mặt gương Tây Hồ của Nguyễn Vinh Phỳc; Gương mặt
Hồ Tây của Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện và Quang Dũng; Hồ Tõy – Phủ Tõy Hồ của
Nguyễn Vinh Phỳc; Truyền thuyết ven Hồ Tõy của Bùi Văn Nguyên, Vũ Tuấn Sán,
Chu Hà Tác phẩm Truyền thuyết ven Hồ Tõy tập hợp một số truyền thuyết về lịch sử
hỡnh thành Hồ Tây; các địa danh làng xó, gũ, nỳi, ao, vườn (gũ Phượng Chủy, Ao
Quà, Ao Quan, vườn Tỏi ); các di tích tiêu biểu (như đền Mục Thận, viện Châu Lâm,
chùa Bà Đanh ); các vị tổ nghề, nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc được thờ phụng ở
những làng ven hồ (như Sóc Thiên Vương, ông tổ nghề giấy Thái Luân, công chúa
Bảo Hoa, Phùng Hưng ) Đây là một trong những tác phẩm nghiên cứu một cách khá
cụ thể, chi tiết và toàn diện về khu vực Hồ Tây. Hồ Tõy – phủ Tõy Hồ do Ngô Văn
Phú biên soạn và sưu tầm cũng viết khá kỹ về khu vực Hồ Tây và phủ Tây Hồ. Tác giả
khảo về sự tích Hồ Tây, các nhân vật Hồ Tây, cảnh đẹp và các thú chơi, đặc sản của
Hồ Tây; chùa chiền, chợ và các làng xó ven Hồ Tõy; Phủ Tõy Hồ và cỏc lễ hội. Ngoài
ra, tỏc giả cũn trớch dẫn một số ca dao, thơ văn và câu đối có liên quan đến khu vực
Hồ Tây.
Một trong những cụng trỡnh khảo cứu khỏ cụng phu và chi tiết về khu vực Hồ
Tõy là tỏc phẩm Mặt gương Tây Hồ của Nguyễn Vinh Phúc. Tác phẩm chia làm 8
chương gồm các nội dung: Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, Kẻ Bưởi, sông Thiên Phù Tứ Tổng,
Tây Hồ - nguồn cảm hứng thơ văn, chuyện kể dân gian, các di tích, lễ hội vùng Hồ
Tây, các làng nghề. Qua công trỡnh này chỳng ta cú được một hỡnh dung khỏi quỏt về
cỏc làng xó ven Hồ Tõy, trong đó có nhiều địa danh đó bị xúa nhũa trong quá khứ, tên
gọi của Hồ Tây qua các thời kỳ lịch sử, hệ thống di tích quanh Hồ Tây; một số lễ hội
tiêu biểu khu vực này Đây là một nguồn tư liệu quý hiếm cho những ai quan tõm,
muốn tỡm hiểu về lịch sử, văn hóa của khu vực Hồ Tây.

Năm 2000, UBND quận Tõy Hồ xuất bản cuốn sỏch Danh tớch Hồ Tõy. Cuốn
sách bao gồm những bài viết được biên soạn công phu về các di tích lịch sử văn hóa
đó được nhà nước xếp hạng và một số di tích khác ở khu vực Hồ Tây. Trong đó trỡnh
bày khỏi quỏt cỏc phương diện địa lý, lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc, tôn

8
giáo và truyền thuyết có kèm theo phần chú dịch các tư liệu Hán Nôm hiện cũn lưu giữ
ở các di tích.
Nói đến nguồn tài liệu nghiên cứu về khu vực Hồ Tây không thể không kể đến
một khối lượng lớn các công trỡnh nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí.
Những công trỡnh này đi sâu khảo cứu nhiều mặt về khu vực Hồ Tây như: truyền
thuyết, lễ hội, thành hoàng Năm 2000, trên Tạp chớ Khảo cổ học nhà sử học Trần
Quốc Vượng có bài Đôi lời về Hồ Tây. Với vốn tri thức dân gian, tri thức lịch sử
phong phú kết hợp với phương pháp nghiên cứu liên ngành địa – văn hóa, tác giả đó
giỳp người đọc có được một cái nhỡn sỏng rừ về tờn gọi, lịch sử hỡnh thành Hồ Tõy,
quan hệ giữa Hồ Tõy với sụng Tụ Lịch, sụng Thiờn Phự và những hồ khỏc.
Trờn Tạp chớ Lịch sử, nhà nghiên cứu Vũ Văn Luân có một loạt bài nghiên cứu
về các làng nghề vùng Hồ Tây. Những khảo cứu của tác giả về các làng Hồ Khẩu,
Đông Xó, Yờn Thỏi đó giỳp chỳng ta hiểu thờm về ba làng ven đô với nhiều nghề thủ
công truyền thống. Ngoài ra, tỏc giả cũn cú bài viết về Truyền thuyết một số vị thần
khu vực Hồ Tõy, qua đó khẳng định vùng đất quanh Hồ Tây là một vùng văn hóa lâu
đời, nơi lưu giữ nhiều thần thoại truyền thuyết.
Như vậy, không gian văn hóa vùng Hồ Tây mặc dù đó được các nhà nghiên cứu
quan tâm tỡm hiểu từ nhiều gúc độ như địa lý, văn học, lịch sử, tôn giáo, song có thể
thấy văn hóa vùng Hồ Tây được nghiên cứu từ việc khảo sát các tác phẩm, các sáng
tác văn học cũn rất mờ nhạt. Cỏc nhà nghiờn cứu như Nguyễn Vinh Phỳc (Mặt gương
Tây Hồ), Ngô Văn Phú (Hồ Tõy - Phủ Tõy Hồ), Bùi Văn Nguyên (Truyền thuyết ven
Hồ Tõy) chủ yếu nghiên cứu về Hồ Tây dưới góc độ địa lý, lịch sử, văn hóa tuy có
sử dụng nguồn tư liệu văn học (văn học dân gian và văn học bác học) để phác dựng lại
không gian văn hóa Hồ Tây nhưng cũn sơ sài, thực chất các cứ liệu văn học mới chỉ

được các tác giả khai thác như một dẫn chứng minh họa một cỏch hết sức chung chung
hoặc chỉ là một sự thống kê đơn thuần. Cũn nghiờn cứu văn hóa Hồ Tây từ những dẫn
liệu văn học một cách đầy đủ thỡ hầu như là chưa có tác phẩm nào đáp ứng được. Các
tác phẩm thông sử, địa chí, các tác phẩm văn học dân gian, cổ trung đại cùng với
những công trỡnh nghiờn cứu trong thời kỳ hiện đại sẽ là cơ sở, là nguồn tài liệu vô
cùng quý giá để người viết hoàn thành luận văn này.


9
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Sưu tầm các tư liệu văn học dân gian và văn học viết về Hồ Tây từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, bước đầu hỡnh thành được một bộ hồ sơ tư liệu về văn học vựng Hồ Tõy.
- Trờn cơ sở những tư liệu có được, luận văn sẽ tiến hành khảo cứu một cách
toàn diện và cụ thể những đặc trưng văn học vùng Hồ Tây, văn hóa vùng Hồ Tây, từ
đó đưa ra những đánh giá chính xác và hợp lý về mảng văn học này, về vai trũ và
những đóng góp của nó đối với văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là không gian văn hóa Hồ Tõy (qua những
tác phẩm văn học dân gian (truyền thuyết, ca dao, thành ngữ, tục ngữ…) và văn học
viết (thơ, văn xuôi, giai thoại…) từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX viết về khu vực Hồ Tây.
4.2. Phạm vi nghiờn cứu
Luận văn chỉ khảo cứu những tác phẩm văn học dân gian và văn học viết về Hồ
Tây đến thế kỷ XIX để từ đó nghiên cứu về không gian văn hóa Hồ Tõy ở hai phương
diện văn hoá vật thể và phi vật thể (văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần). Việc phõn
chia này chỉ cú ý nghĩa tương đối, tiện cho sự mụ tả và phân tích chứ không có ý nghĩa
tuyệt đối.
Khu vực Hồ Tây mà luận văn nghiên cứu không đồng nhất với không gian hành
chính mà được hiểu rất linh hoạt. Lấy Hồ Tây làm trung tâm, luận văn nghiên cứu
những khu vực nằm sát và chịu ảnh hưởng, chịu sự lan tỏa của văn hóa Hồ Tây.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp thống kê: Thống kê các nguồn tài liệu liên quan đến luận văn,
thống kê đối tượng nghiên cứu của luận văn - hệ thống tác phẩm văn học dân gian và
văn học viết (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX) về khu vực Hồ Tây.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu.
- Phương pháp liên ngành, đa ngành được sử dụng để tiếp cận đối tượng từ nhiều
góc độ khác nhau

10
- Phương pháp lịch sử, văn hóa: Từ tư liệu văn học thông qua phương pháp lịch
sử, văn hóa tỡm hiểu khụng gian văn hóa Hồ Tây, tỡm hiểu người dân vùng Hồ Tây
xưa tổ chức không gian sống, không gian sinh hoạt, sản xuất của mỡnh như thế nào?
6. Kết quả đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên có được một tập hợp thống kê những tác phẩm văn học dân gian
và văn học viết (thế kỷ X đến thế kỷ XIX) về khu vực Hồ Tây tương đối cụ thể và đầy
đủ.
- Dựa vào những tư liệu đó thu thập, thống kờ người viết phân tích, tổng hợp và
khái quát lên được những nét riêng, những đặc điểm nổi bật của không gian văn hóa
Hồ Tây.
- Trên cơ sở áp dụng phương pháp lịch sử văn hóa luận văn phát hiện mối liên hệ
mật thiết giữa văn học vùng Hồ Tây cũng như văn hóa vùng Hồ Tây với tổng thể vùng
văn hóa Thăng Long – Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I: Tổng quan về khu vực nghiên cứu và các khái niệm
Chƣơng II: Khụng gian văn hóa vật thể vùng Hồ Tây qua văn học
Chƣơng III: Không gian văn hóa phi vật thể vùng Hồ Tây qua văn học
Ngoài ra cũn cú phần Phụ lục và Mục lục tham khảo.









11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIấN CỨU
VÀ CÁC KHÁI NIỆM
1.1. Khỏi niệm văn hóa, không gian văn hóa và xu hƣớng tiếp cận văn hóa học
trong nghiên cứu văn học
Ngày nay, trờn thế giới cỏc học giả vẫn tiếp tục bàn cói về khỏi niệm văn hóa,
tiếp tục đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau tùy theo góc độ nghiên cứu của từng
người muốn nhấn mạnh lĩnh vực nào. Theo cỏc cỏch tiếp cận khỏc nhau thỡ sẽ cú
những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Cú nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa
tùy theo góc nhỡn:
- Từ góc độ miêu tả các thành tố: văn hóa là đạo đức, phong tục, tín ngưỡng,
luật pháp…
- Từ góc độ lịch sử: nhấn mạnh sự trao truyền, kế thừa văn hóa giữa cỏc thế hệ
song lại không chú ý sự biến đổi của văn hóa.
- Từ góc độ giá trị chuẩn mực: văn hóa là lối sống, là giá trị của một cộng đồng
người.
- Từ góc độ tâm lý học: văn hóa là những hỡnh thức tõm lý có quy định về mặt
xó hội, những hỡnh thức hành vi quen thuộc.
- Từ góc độ cấu trúc, văn hóa được xem là một hệ thống mà mỗi thành tố thực
hiện một chức năng riêng.
- Từ góc độ nhân học: văn hóa là sản phẩm hoạt động tinh thần của con người,
phân biệt người với động vật.
Phõn tớch một nền văn hóa, một vùng văn hóa cần xuất phát từ chức năng của

văn hóa. Theo sách Culturologia
1
của Drach chủ biên, văn hóa có mấy chức năng sau:
- Văn hóa là sự thực hiện những mục tiêu mang tính lý tưởng và giá trị, theo
quan niệm này thỡ văn hóa là tổng số những giá trị tinh thần và vật chất, là trật tự phức
tạp của những lý tưởng có ý nghĩa đối với một tổ chức xó hội cụ thể. Tất nhiên cần lưu
ý, giá trị là khái niệm rất tương đối trong khụng gian và thời gian.

1
Ã. Â. Äðàữ, ấúởỹũúðợởợóốÿ (Văn húa học) , M. 2003, tr. 95-101.


12
- Văn hóa là phương thức điều chỉnh, bảo tồn, tái sản xuất và phát triển xó hội,
là kỹ thuật sản xuất và tỏi sản xuất con người trong xó hội. Quan điểm này nhấn mạnh
vào phương diện kỹ thuật của văn hóa.
- Văn hóa thực hiện bản chất thông tin qua biểu tượng, qua cỏc ký hiệu ngữ
nghĩa.
- Văn hóa là tổng số những yếu tố xó hội điều chỉnh hoạt động của con người
(hôn nhân, gia đỡnh, văn bản, tượng trưng…).
- Văn hóa là thiết chế xó hội cấp cho xó hội tớnh hệ thống nhờ đó mà xó hội cú
tớnh chỉnh thể bền vững, khỏc tự nhiên (văn hóa vật chất, văn hóa chính trị, văn hóa
tinh thần), nó qui định chuẩn mực hành vi con người trong xó hội.
- Văn hóa hoàn thiện con người như là chủ thể đạo đức - tinh thần của văn hóa .
Những khái quát về chức năng của văn hóa nói trên giúp ta chú ý đến vai trũ và
ý nghĩa của khụng gian văn hóa Hồ Tây đối với văn hóa Thăng Long.
Hiểu một cỏch nụm na thỡ văn hóa là những gỡ đối lập với tự nhiên; những giá
trị mà con người tạo ra không có sẵn trong tự nhiên thỡ là văn hóa. Âm nhạc là văn
hóa, chữ viết là văn hóa, đền đài, miếu phủ là văn hóa, con đường, công viên là văn
hóa

Theo cỏc sỏch nghiờn cứu lý luận về văn hóa, văn học ở Nga thỡ “sự mâu thuẫn
giữa tự nhiên và văn hóa được khắc phục thường là qua phạm trù hoạt động. Nhiều
nhà khoa học nhận xét rằng văn hóa như là hiện tượng trở thành văn hóa chỉ do khả
năng của con người như khả năng hoạt động” {7; tr 180} hay: “Văn hóa, đó là tự
nhiên được con người tái tạo, con người tái tạo tự nhiên đồng thời bằng cách này, nó
khẳng định mỡnh với tư cách là con người. Chỉ có con người là thực thể duy nhất có
khả năng đổi mới không ngừng. Con người là người sáng tạo văn hóa độc đáo, nó cấp
cho nó ý nghĩa thụng qua sự thay đổi không ngừng các biểu tượng” {7; tr 97}. “Văn
hóa đó trước hết là thế giới các sự vật xung quanh ta, mang trong chúng dấu ấn của
lao động, trí tuệ, nguyện vọng của con người. Văn hóa đó là thế giới của những nhu
cầu và nguyện vọng hoàn toàn mang tính con người, đó được thỏa món hay chưa được
thỏa món” {7; tr 102}.
Xung quanh khái niệm văn hóa lại có khái niệm văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể hay cũn gọi là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Cũng theo tỏc giả G.V.
Dracha trong cuốn “Cultorologia” thỡ văn hóa tinh thần “thuộc về văn hóa tinh thần có
hệ tư tưởng, khoa học, đạo đức, giao tiếp tinh thần, sáng tạo nghệ thuật và tôn giáo”

13
{7; tr 124-125} và “văn hóa tinh thần là hoạt động hướng đến sự phát triển tinh thần
của con người và xó hội, sỏng tạo tư tưởng, tri thức, các giá trị tinh thần - các kiểu ý
thức xó hội” {7; tr 180}. Và tác giả chia văn hóa tinh thần ra thành hai tiểu hệ thống
quan trọng là văn hóa đạo đức và văn hóa nghệ thuật. Cũn về văn hóa vật chất tỏc giả
cũng viết: “Công cụ lao động, phương tiện sản xuất, quần áo, đời sống, nhà ở, phương
tiện giao thông - tất cả những gỡ được gọi là phương tiện nhân tạo để cư trú của con
người và là quá trỡnh và kết quả của hoạt động vật chất của con người” {2; tr 120}
Như vậy, văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa thể hiện đời sống tinh
thần của con người dưới hỡnh thức vật chất, là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến
những vật và chất trong tự nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và giá trị thẩm
mĩ phục vụ đời sống con người Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại (hay thể hiện)
của văn hóa không phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hỡnh khối tồn tại khỏch quan

trong khụng gian và thời gian mà nú thường tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi
ứng xử của con người và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất,
giao tiếp xó hội, trong hoạt động tư tưởng văn hóa, nghệ thuật mà thể hiện ra, khiến
người ta nhận biết được sự tồn tại của nó. Sự phân chia khái niệm văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể chỉ là tương đối, nên hiểu một ranh giới mềm dẻo không nên quá
cứng nhắc và rạch rũi.
Nếu như trước đây, văn hóa chỉ được xem như một yếu tố phụ thuộc vào kinh tế
chính trị thỡ ngày nay với một quan niệm mới văn hóa đó trở thành động lực và mục
tiêu của phát triển kinh tế chính trị, xó hội núi chung. Văn hóa đó cú mặt ở khắp mọi
nơi, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống xó hội và thực sự văn hóa đó trở thành một
nhu cầu cấp thiết gắn liền với cuộc sống mỗi người, mỗi dân tộc và cả loài người.
Một định nghĩa mới được tiếp cận với bản chất của văn hóa cũng dần dần hỡnh
thành. Nếu trước đây, khái niệm văn hóa chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp trong giới hạn
các hoạt động văn học, nghệ thuật thỡ ngày nay văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, là
tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tỡnh cảm, tri thức, vật chất và tinh thần
của xó hội. Văn hóa không chỉ đơn thuần bó hẹp trong các hoạt động sáng tác nghệ
thuật mà bao hàm cả phương thức sống, truyền thống, tín ngưỡng
Nhằm đưa ra một định nghĩa mới về văn hóa, tại lễ phát động “Thập kỷ văn hóa”
ngày 21/01/1998, Tổng giám đốc UNESCO F. Mayor nói: “Văn hóa phản ánh và thể
hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống con người đó diễn ra trong

14
quỏ khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ văn hóa đó cấu
thành nờn một hệ thống cỏc giỏ trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó,
từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mỡnh”{64; tr 5}.
Bên cạnh khái niệm văn hóa chúng ta lại có khái niệm văn hóa học và nhân học
văn hóa. Có thể nói “văn hóa học chủ yếu nghiên cứu những giá trị văn hóa đó được
cả một cộng đồng nhất định thừa nhận, đó được đúc kết qua những châm ngôn, tục
ngữ, những kinh sách, những tập tục khá ổn định. Nhân học văn hóa lại chủ yếu chú ý
mụ tả sự trỡnh diễn, sự biểu hiện của cỏc quan niệm văn hóa trong đời sống hiện thực

với phương pháp khảo sát điền dó, quan sỏt thực địa hoặc thông qua các tài liệu khảo
cổ học, thư tịch ghi chép có tính chất miêu tả thực địa” {66; tr 15}. Trong một hệ
thống văn hóa khác nhau, những yếu tố, thành phần khác nhau có vai trũ khỏc nhau.
Chẳng hạn, những gỡ thuộc về chớnh trị thỡ thường dễ thay đổi, cũn những gỡ thuộc
về văn hóa lại có sức sống bền vững, dai dẳng, có sự chi phối tinh vi, sâu sắc hơn.
Việc tiếp cận văn học đồng thời có thâm nhập vào nền tảng văn hóa sẽ đem đến cho
chúng ta cái nhỡn toàn diện hơn, đa chiều hơn khi tỡm hiểu những giỏ trị văn học.
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học là mối quan hệ gần gũi, biện chứng, từ lâu
đó được các nhà nghiên cứu quan tâm, tỡm hiểu.
Trước đây, khi nghiên cứu văn hóa thỡ văn học thường được coi như một nguồn
tài liệu, cũn nghiên cứu văn học thỡ lại tỡm thấy ở tự bản thõn nú những chủ đề văn
hóa, ở một góc độ nào đó cũng có thể coi như là một nguồn tài liệu. Như vậy, rừ ràng
mối quan hệ này là mối quan hệ tương hỗ, văn hóa và văn học làm tài liệu nghiên cứu
cho nhau.
Trong thời gian gần đây, khi mà khái niệm văn hóa học và nhân học văn hóa
được phổ biến rộng rói thỡ mối quan hệ giữa văn học và văn hóa được chú ý nhiều
hơn. Văn hóa bắt đầu được coi là nhân tố chi phối văn học, một số tác giả đi theo
hướng nghiên cứu này như Trần Đỡnh Hượu, Trần Nho Thỡn, Trần Ngọc Vương, Đỗ
Lai Thúy,.v.v
Ai cũng thừa nhận văn hóa là một tổng thể, một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố
trong đó có văn học. Như vậy, văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi
phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Tuy nhiờn, so với cỏc yếu tố khỏc thỡ văn học
có thể coi là một yếu tố mạnh và năng động. Văn học không phải là một yếu tố tĩnh mà

15
luôn luôn có sự sáng tạo, sáng tạo những yếu tố mới cho bản thân nó và cho hệ thống.
Và văn học luôn phản ánh hiện thực thông qua lăng kính văn hóa, và nói như các nhà
lý luận phờ bỡnh văn học thỡ đó là phương thức phản ánh hiện thực một cách nghệ
thuật. Như vậy, nghiên cứu văn học từ góc nhỡn văn hóa là một phương pháp nghiên
cứu có nhiều thuận lợi bởi nó đưa người ta đi từ cái tổng thể đến cái bộ phận, cái khái

quát đến cái cụ thể. Chẳng hạn như nghiên cứu không gian văn hóa Hồ Tây qua tư liệu
văn học thỡ rừ ràng chỳng ta đó coi văn học vùng Hồ Tây là sản phẩm của văn hóa
vùng Hồ Tây nói riêng và Thăng Long - Hà Nội nói chung. Văn hóa vùng Hồ Tây
chính là cái phông chung cho bức tranh văn học Hồ Tây và ngược lại văn học vùng Hồ
Tây lại thấm đẫm những đặc điểm văn hóa vùng này. “Phương pháp tiếp cận tác phẩm
từ quan điểm văn hóa học ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó
tác phẩm văn học đó ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo,
đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người, cũng như sự chi phối
của các phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xó hội sống động hiện thực
từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây
dựng nhân vật, kết cấu, mô típ, hỡnh tượng, cảm xúc, ngôn ngữ ”, phương pháp này
“thiờn về giải mó cỏc hỡnh tượng nghệ thuật, tỡm ra nền tảng văn hóa lịch sử của
chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong
không gian và thời gian”{66; tr 9-10}. Như vậy, rừ ràng tiếp cận văn học từ góc nhỡn
văn hóa có thể cho ta cái nhỡn khỏi quỏt hơn, lý giải hợp lý hơn những yếu tố khác
nhau của văn học từ đề tài, chủ đề, các yếu tố thi pháp.
Luận văn của chúng tôi nghiên cứu “Không gian văn hóa Hồ Tây qua nguồn tư
liệu văn học” cũng chính là nghiên cứu mối quan hệ giữa không gian văn hóa vùng Hồ
Tây và văn học vùng Hồ Tây. Chúng ta vẫn thường nói văn học là nhân học, văn là
người. Nói đến văn hóa thực ra cũng là nói đến con người. Bất kỳ tác phẩm văn học
nào cũng đều thể hiện con người và hoạt động của nó trong không gian và thời gian
xác định. Con người trong văn học của mỗi một thời kỳ lịch sử lại có một diện mạo
riêng chịu sự quan niệm về con người lý tưởng của thời đại ấy. Con người là sản phẩm
xó hội, đó và khụng ngừng được văn hóa hóa, tức là con người đó xõy dựng được
những định chế quy định hành vi ứng xử xó hội và ứng xử bản thân. Khái niệm không
gian được đề cập ở đây không phải là không gian vật lý mà là khụng gian xó hội,

16
khụng gian văn hóa. Xét con người trong không gian xó hội tức là xột cỏch cảm nhận
xó hội của con người trong một thời đại lịch sử nào đó. Có nhiều dạng thức không gian

khác nhau, có không gian của lao động, cư trú và sinh hoạt, không gian văn hóa dân
gian (lễ hội), không gian tôn giáo (đền, chùa, miếu), không gian cá nhân, không gian
kỹ thuật trong đó diễn ra các hoạt động sống của con người. Thời gian là phạm trù
thể hiện cách con người cảm nhận sự vận động của dũng đời.
Không gian văn hóa là một khái niệm mềm dẻo bao gồm một phạm vi trong đó
có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống với những mối quan hệ
về nguồn gốc và lịch sử, những tương đồng về trỡnh độ phát triển kinh tế hỡnh thành
nờn những đặc trưng văn hóa chung thể hiện cả ở trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo đời
sống, văn hóa tâm linh cũng như các loại hỡnh thuộc văn hóa quy phạm. Không gian
văn hóa không đơn thuần là một lónh thổ địa dư nhất, nó là một môi trường thống
nhất, rộng lớn do con người sống trong không gian ấy sáng tạo ra. Chúng ta cần phải
hiểu khái niệm không gian ba chiều (quảng tính, chứa vật thể) và các vật thể trong đó
(pho tượng, ngôi nhà, cánh đồng, con đường, con người với tất cả mọi loại hỡnh lao
động, phong tục, lối sống, các sản phẩm văn hóa của con người ). Cần phân biệt khái
niệm không gian địa lý tự nhiờn và khụng gian văn hóa. Một cái hồ ở trên mặt trăng
không thể gọi là không gian văn hóa vỡ khụng cú sự sống của con người quanh nó.
Nơi nào có con người cư ngụ mới thành không gian văn hóa. Một cái hồ ở trên miệng
núi lửa không thể gọi là không gian văn hóa nhưng khi có bàn tay con người biến nó
thành khu du lịch nó trở thành không gian văn hóa. Con đường do con người đắp để đi
cũng là một sản phẩm văn hóa vỡ tự nhiờn vốn khụng cú đường
Về vấn đề lịch sử của không gian văn hóa: không gian văn hóa liên tục thay đổi
do hoạt động của con người cũng không ngừng đổi mới. Vớ dụ, quỏ trỡnh định đô
chắc chắn là một sự kiện khiến cho Hồ Tây thay đổi nhiều so với trước đó. Việc tiếp
nhận các luồng văn hóa bốn phương (Nho, Phật, Đạo hay văn hóa Chămpa ) cũng
khiến cho không gian văn hóa Hồ Tây có một bộ mặt mới (đền, chùa, quán ). Các
biến cố chính trị tác động mạnh đến không gian văn hóa. Rồi khi nhà Nguyễn chuyển
kinh đô vào Huế, hay cuộc xâm lược và khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp tất
nhiờn cũng làm ảnh hưởng, làm thay đổi khụng gian văn hóa Hồ Tõy.

17

Như vậy, tỡm hiểu khụng gian văn hóa Hồ Tây (luận văn của chúng tôi nghiên
cứu không gian văn hóa Hồ Tây thời trung đại) qua tư liệu văn học suy cho cùng là
người viết muốn thông qua tư liệu văn học phục nguyên lại không gian sống của cư
dân vùng Hồ Tây xưa, tỡm hiểu xem họ tổ chức khụng gian sống như thế nào từ không
gian lao động sản xuất, không gian tâm linh đến không gian chính trị xó hội Tuy
nhiên, luận văn của chúng tôi nghiên cứu không gian văn hóa qua tư liệu văn học song
không phải xuất phát từ một khung lý thuyết có sẵn về văn hóa mà là xuất phỏt từ thực
tế văn học, dùng tư liệu văn học để làm sáng rừ những vấn đề về văn hóa. Nghiên cứu
không gian văn hóa dưới góc độ văn học không những chúng ta tiếp cận, khôi phục
được dáng dấp hiện thực cuộc sống vùng Hồ Tây xưa mà quan trọng hơn qua đó chúng
ta cũn hiểu được những tâm tư, tỡnh cảm, những niềm vui cũng như nỗi buồn của con
người nơi đây với tư cách chủ thể của không gian văn hóa này. Bởi, văn học là tiếng
nói tâm hồn con người, văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là một hiện thực
khô cứng mà vô cùng sinh động, có hồn.
1.2. Giới hạn khu vực Hồ Tõy
Như trên đó núi, giới hạn khu vực Hồ Tõy mà luận văn nghiên cứu không đồng
nhất với khu vực hành chính. Khu vực Hồ Tây được hiểu rất linh hoạt, tất cả chỉ mang
tính chất tương đối. Về mặt địa giới hành chính, lấy Hồ Tây làm trung tâm, khu vực
Hồ Tây được hiểu là những vùng đất nằm sát cạnh Hồ Tây hoặc gián cách với mặt
nước Hồ Tây nhưng chịu sự chi phối của mặt nước Hồ Tây trong sản xuất cũng như
trong đời sống. Gọi theo tên làng thỡ hiện nay ven hồ có 13 làng: Chỏm đỉnh Bắc là
làng Nhật Tân. Theo bờ phía Đông là làng: Quảng Bá, Tây Hồ, Nghi Tàm, Yên Phụ.
Bờ Nam là các làng: Thụy Khuê, Đông Xó, An Thọ, Yờn Thỏi. Bờ Tõy là làng: Vệ
Hồ, Trớch Sài, Vừng Thị. Tất cả những làng này hiện thuộc quận Tõy Hồ. Đó là 13
làng nằm kề sát mặt nước Hồ Tây, nhưng nói đến Hồ Tây chúng ta không thể không
nói đến một vùng đất tuy gián cách với hồ nhưng từ xưa đến nay nhắc đến Hồ Tây
người ta thường nhớ ngay đến nó: đó là vùng Bưởi. Vùng Bưởi là một khái niệm dùng
để chỉ chung một dải đất trải dọc phía Tây Nam Hồ Tây bao gồm gần chục làng như:
Đông Xó, An Thọ, Trung Nha, Tiờn Thượng, Vạn Long, An Phú, Bái Ân, Vừng Thị,
Trớch Sài. Những làng này do cú quan hệ mật thiết với mặt nước Hồ Tây đặc biệt là


18
trong nghề sản xuất thủ cụng truyền thống nờn chỳng vẫn thuộc quần thể khu vực Hồ
Tõy.
Cũng tương tự như vậy, khi nói đến vùng ven Hồ Tây không thể không nói đến
Ngũ Xó, Phỳ Gia và Phỳ Thượng.
Mặt khác, khu vực Hồ Tây mà luận văn nghiên cứu là Hồ Tây của cách đây hơn
một thế kỷ trở về trước. Do đó, giới hạn khu vực rất linh hoạt qua các thời kỳ.
Căn cứ vào Tõy Hồ chớ, khu vực Hồ Tây bao gồm 36 phường, thôn, trại thuộc
huyện Vĩnh Thuận và huyện Từ Liêm {30; tr 56}.
Đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), khi quy hoạch lại kinh đô Thăng Long
với hai huyện, 36 phường thỡ cả vựng Hồ Tõy (lỳc này vẫn bao gồm hồ Trỳc Bạch và
hồ Mó Cảnh) thuộc đất kinh thành. Thời kỳ này, chung quanh hồ có 12 phường trong
số 18 phường của huyện Quảng Đức (sau đổi là Vĩnh Thuận). Mười hai phường đó
nay là 12 làng thuộc khu Ba Đỡnh và huyện Từ Liờm như: Yên Phụ, Nghi Tàm, Nhật
Chiêu, Tây Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Bái Ân, Vừng Thị, Trớch Sài, Hồ Khẩu, Yờn
Thỏi, Thụy Chương.
Sang thời Nguyễn chia nhỏ các phường thành các thôn trại mới song 11 phường
ven Hồ Tây vẫn giữ y nguyên cho đến thời Pháp thuộc {50; tr 36}.
Thời Pháp thuộc từ năm 1889 đến 1915, vùng Hồ Tây thuộc khu vực ngoại
thành, đến năm 1915 có tên huyện Hoàn Long.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, các làng ven hồ trở thành các xó trong số 120
xó thuộc ngoại thành Hà Nội, đến kháng chiến chống Pháp thỡ thuộc một trong 3 quận
ngoại thành.
Sau ngày hũa bỡnh lập lại (1954) thành phố Hà Nội thuộc 4 quận nội thành (từ
quận 1 – 4), và 5 quận ngoại thành ( quận 5 – 8) thỡ vựng Hồ Tõy thuộc quận 5. Năm
1961, thành phố Hà Nội mở rộng địa giới, gồm 4 khu phố và 4 huyện thỡ vựng này
thuộc huyện Từ Liờm, cho tới tận 1995 mới trở về nội thành. Núi chung, trước năm
1946, phần lớn những làng trên thuộc 6 xó trong số hơn 20 xó của huyện Từ Liờm và
4 phường của quận Ba Đỡnh. Ngày 28 thỏng 10 năm 1995, theo Nghị định số 69/CP

của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập quận Tây Hồ thỡ về mặt hành chớnh phần
lớn những làng trờn thuộc 8 phường của quận Tây Hồ. Cũn lại thuộc một phường của

19
quận Ba Đỡnh và thuộc một phường của quận Cầu Giấy. Cụ thể đó là các phường:
Quảng An, Tứ Liên, , vỡ xưa kia hai hồ vốn liền nhau; về sau vỡ Hồ Tõy rộng quỏ,
nhõn dõn ba làng Trỳc Yờn, Yờn Phụ, Yờn Quang mới đắp con đê chắn ngang để giữ
phần cá về phía mỡnh. Con đê đó có tên là Cố Ngự, nay là đường Thanh Niên. Phú
Thượng, Nhật Tân, Xuân La, Yên Phụ, Bưởi, Thụy Khuê (quận Tây Hồ); Trúc Bạch
(quận Ba Đỡnh); Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy). Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ, cũn hồ Trỳc
Bạch và khu vực hồ Mó Cảnh thuộc quận Ba Đỡnh, tương đương với các phường.
Nói đến Hồ Tây là phải nói đến hồ Trúc Bạch
Một số địa danh của các làng thuộc vùng ven Hồ Tây trong lịch sử cũng có sự
thay đổi nhiều lần. Chẳng hạn như Nhật Tân trước đây gọi là Nhật Chiêu
1
; Yên Phụ
trước đây gọi là Yên Hoa
2
; Thụy Khuê trước đây gọi là Thụy Chương.
Từ một vùng đầm hồ hoang vu, thông qua quá trỡnh định đô, mở rộng kinh thành
Thăng Long, Hồ Tây ngày càng được các vua chúa quan lại nhà Lý đặc biệt quan tâm.
Qua con mắt tinh tường của các ông vua nhà Lý, Hồ Tây được phát hiện không chỉ là
mảnh đất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, các ngành nghề thủ công
mà cũn được nhỡn nhận, đánh giá như một vùng danh thắng, một vùng đất thiêng. Phải
chăng vỡ thế mà khụng biết bao nhiờu chựa chiền, đền miếu nguy nga, bao nhiêu công
trỡnh kiến trúc được xây dựng xung quanh hồ vào đời Lý. Cựng với sự vận động của
lịch sử, lớp trầm tích văn hóa Hồ Tây ngày càng dày hơn. Trải qua bao cuộc bể dâu,
qua sự hưng vong của các triều đại phong kiến, Hồ Tây vẫn cũn đó, vẫn mang nét đẹp
riêng mà hiếm một vùng hồ nào trên đất Việt có thể sánh kịp.







(1)
Thời vua Lờ Hiển Tụng (1740 - 1786) Nhật Tõn được gọi là phường Nhật Chiờu, huyện Quảng Đức, phủ
Phụng Thiờn, thành Thăng Long. Đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX) Nhật Chiờu thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh
Thuận, phủ Hoài Đức, thành Hà Nội. Sang thời Bảo Đại (1926 - 1945), Nhật Chiêu được đổi thành Nhật Tân
(Đảng ủy - Ủy ban Nhân dân phường Nhật Tõn (2004), Lịch sử cỏch mạng phường Nhật Tõn, NXB Hà Nội).
(2)
Tờn Yờn Phụ xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX do việc kỵ hỳy mẹ vua Nguyễn tờn là Hoa.

20



CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN VĂN HÓA VẬT THỂ VÙNG HỒ TÂY
QUA VĂN HỌC
2. 1. Lao động sản xuất cỏc sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống và sinh hoạt
Người nghiờn cứu văn học quan tâm đến cỏc loại khụng gian xó hội được thể
hiện trong tỏc phẩm văn học, khụng gian xó hội cũn được cỏc nhà nghiờn cứu gọi một
cách khác đầy hỡnh tượng là khụng gian nghệ thuật. Khụng gian nghệ thuật bao gồm
tất cả cỏc kiểu khụng gian tồn tại của con người. Đến lượt mỡnh cỏc dạng thức khụng
gian này lại chịu sự quy định của quan niệm chung về xó hội lý tưởng. Nhỡn chung,
trong văn học truyền thống cú cỏc kiểu không gian sau: không gian lao động sản xuất,
không gian văn hóa tâm linh, không gian xó hội
Lao động sản xuất chớnh là sự sống, là cơ sở tồn tại của một cộng đồng. Chỳng
ta thấy ở khu vực Hồ Tõy nổi bật lên là văn hóa thủ cụng nghiệp (xúm làng) với không

gian định hỡnh sinh tồn và phỏt triển của nú là một miền hồ ao, yếu tố nước chiếm ưu
thế đặc biệt. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của văn hóa Thăng Long nói chung và
đặc biệt là của vựng Hồ Tõy núi riờng.
Trong văn học dân gian, không gian lao động sản xuất thường xuyờn xuất hiện
với những cảnh như cảnh cày cấy, tát nước, gieo mạ, thu hoạch, cảnh được mựa, mất
mựa, hạn hỏn, lụt lội So với văn học dân gian như ca dao, dân ca thỡ trong văn học
viết hỡnh tượng khụng gian này rất mờ nhạt, lại thường mang tớnh chất ẩn dụ. Ngư
tiều canh mục chỉ là khụng gian ẩn dật thuần tỳy chứ khụng cú tớnh chất tỏi hiện hiện
thực lao động. Và văn học vựng Hồ Tõy cũng khụng phải là một ngoại lệ.
2.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới không gian lao động sản xuất vựng Hồ Tây xưa
- Nhị hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này

21
Cõu ca dao này chắc hẳn khụng cũn xa lạ gỡ với mỗi người Tràng An thanh lịch,
đó là sự đúc kết vẻ đẹp đặc trưng nhất của kinh thành Thăng Long xưa. Một đô thị cổ
với yếu tố nước chiếm ưu thế đặc biệt, nổi trội.
Trong dân gian truyền thống, Thăng Long xưa luôn được phác họa gắn với vẻ
đẹp sông nước:
- Khen ai khéo họa dư đồ
Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn Gươm
Và nói đến Hà Nội không thể không nhắc đến Hồ Tây - một biểu tượng văn hóa
của Thăng Long - Hà Nội. Hồ Tây là hồ rộng nhất ở Hà Nội nằm ở phía tây bắc của
thành phố:
Ngoài đường quai có hồ sâu
Tõy Hồ rộng rói ngay đầu phía tây
Như vậy, bản chất địa văn hóa của một vùng Hà Nội cổ là thành phố của sông hồ.
Thực đúng là như vậy, nhỡn trờn cỏc bản đồ Hà Nội cổ, ta thấy địa lý tự nhiờn của Hà
Nội được giới hạn bởi ba con sông mà Giáo sư Trần Quốc Vượng đó khỏi quỏt thành
tam giỏc nước. Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng đó tỡm ra cỏi “mộc” rất vững chắc

của Hà Nội là cụm nỳi Voi, nỳi Cung (đây cũng là điểm cao nhất của Hà Nội, có cốt
12m) là địa hỡnh dương quy định địa hỡnh õm là Hồ Tõy cựng cỏc sụng Thiờn Phự
(nay đó bị lấp), Tụ Lịch, Kim Ngưu. Mô hỡnh Hà Nội cổ được giáo sư Trần Quốc
Vượng dựng như sau:


22
Từ mụ hỡnh này chỳng ta thấy cỏc cửa ụ ngày trước đều là cửa nước: ô Cầu Giấy
nằm ở ngó ba sụng Tụ Lịch - Kim Ngưu, ô Đống Mác nằm ở ngó ba sụng Kim Ngưu –
sông Hồng, ô Bưởi nằm ở ngó ba Tụ Lịch - Thiờn Phự. Và cũng từ mụ hỡnh này
chỳng ta thấy Hồ Tõy nằm trọn trong tam giỏc nước ở phía trên của tam giác châu Hà
Nội. Ba cạnh của tam giác này chính là ba con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch, sông
Thiên Phù (nay đó bị lấp). Ba con sụng này gắn bú chặt chẽ với Hồ Tõy khụng chỉ về
điều kiện tự nhiên mà cũn cú vai trũ ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống, văn hóa, tín
ngưỡng của cư dân vùng Hồ Tây. Với tư cách là địa hỡnh õm của Hà Nội, Hồ Tõy đó
đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế, văn hóa của Thăng Long
xưa và Hà Nội nay. Từ xưa, nơi đây đó là khu vực quần cư của những cư dân nông
nghiệp bản địa trong nền văn minh lúa nước sông Hồng. Các nhà khoa học cho rằng
Hồ Tây là một đoạn sông Hồng cũ sau khi dũng sụng đó đổi dũng. Hồ cong cong hỡnh
múng ngựa theo chiều Bắc – Nam, ở giữa là dải đất gồm hai làng Nghi Tàm và Tây
Hồ. Từ phía nam và phía tây, con đường Hoàng Hoa Thám bao quanh hồ đi thẳng mói
cho tới chõn đê sông Hồng ở Nhật Tân (vốn là con đê bao quanh hồ Tõy khi hồ cũn là
một khỳc sụng. Ở vựng Quảng Bỏ, sụng và hồ rất gần nhau – đó là cửa sông vào. Qua
doi đất Tây Hồ, Nghi Tàm – tức bán đảo Hồ Tây – hồ và sông lại giáp với nhau. Đấy
là cửa sông ra. Cửa bị đất cát sông xói lở bồi đắp. Hồ Tây vỡ vậy mà được hỡnh thành.
Hồ xưa kia rộng từ tây qua bắc sang đông, người Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội
qua thời gian đó ngăn đắp và lấp thành từng đoạn thành hồ Cổ Ngựa (ở vào quóng
Hàng Than, bị lấp thời Phỏp thuộc), hồ Trỳc Bạch, Hồ Tõy.
Như vậy, đặc điểm nổi bật của Hồ Tây là địa hỡnh sụng nước, Hồ Tây nằm trọn
trong một tam giác mà ba cạnh là ba con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Thiên

Phù. Ba con sông này gắn bó với Hồ Tây không chỉ ở điều kiện tự nhiên mà trong suốt
lịch sử hỡnh thành, tồn tại đó cú những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế sản
xuất, văn hóa của cư dân vùng Hồ Tây. Yếu tố nước chính là yếu tố chính chi phối
hoạt động của các ngành nghề thủ công truyền thống nơi đây. Nói một cách hơi cực
đoan là nếu không có yếu tố nước (Hồ Tây) thỡ sẽ khụng cú nghề giấy, khụng cú trồng
dõu nuụi tằm cũng như đúc đồng Ngũ Xó
Xin nói thêm về các con sông xung quanh Hồ Tây. Trước hết là sông Hồng. Sông
Hồng đoạn chảy qua khu vực Hồ Tây thuộc địa phận các làng Nhật Tân, Quảng Bá,

23
Tây Hồ, Nghi Tàm, Yên Phụ. Đê sông Hồng được đắp từ năm 1108, đoạn từ Nghi
Tàm đến Thanh Trỡ cú tờn là Cơ Xá. Hồ Tây cũng chính là một khúc của sông Hồng
sau khi con sông này đổi dũng.
Về sụng Tụ Lịch, sỏch Đại Nam nhất thống chí cú ghi:“Sông Tô ở phía đông
thành Hà Nội là phân lưu của sông Nhị, chảy theo phía Bắc tỉnh thành vào cửa cống
thôn Hương Bài, chuyển sang phía Tây đến xó Nghĩa Đô ở phía Đông huyện Từ Liêm
và các tổng huyện thuộc huyện Thanh Trỡ, quanh co gần 60 dặm, rồi đổ sang sông
Nhuệ” {55; tr 186}. Năm 1889, thực dân Pháp đó lấp nhỏnh sụng Tụ từ chỗ cửa sụng
Hồng (Hà Khẩu) qua Hàng Cỏ, Hàng Lược tới Thụy Khuê lập ra các phố Nguyễn
Siêu, Ngừ Gạch, Hàng Cỏ, Hàng Lược chỉ cũn lại nhỏnh từ đầu phố Thụy Khuê lên
chợ Bưởi, rẽ xuống phía Nam qua Cầu Giấy, Láng, Ngó Tư Sở, Đại Kim, Thanh Liệt
rồi đổ vào sông Nhuệ. Sông Tô Lịch là một sông cổ của Thăng Long. Xưa kia, hai bên
bờ sông buôn bán sầm uất, khách buôn từ Bắc có thể theo sông Hồng qua cửa Hà
Khẩu vào sông Tô; từ phía Nam ra cũng có thể theo sông Đáy, sông Nhuệ vào kinh
thành bằng sụng Tụ.
Sụng Thiờn Phự là một nhỏnh của sụng Hồng, tỏch ra vào quóng Phỳ Xỏ, chảy
xuụi theo đường Lạc Long Quân, rồi sông chảy qua cánh đồng làng Cáo, đến cánh
đồng Xuân La thỡ một nhỏnh chảy về phớa tõy nối với sụng Nhuệ; một nhỏnh chảy
tiếp qua Bái Ân đến Bưởi thỡ nối với sụng Tụ (tấm bản đồ Thăng Long thế kỷ XV cũn
ghi lại rất rừ) tạo nờn một ngó ba sụng nước mà theo dân gian thỡ nước xói lở vào

thành nhà Lý khiến vua bị đau mắt. Theo lời thần mộng, ông bà Dầu đó nhảy xuống
sụng để hiến linh thần, làm cho góc thành không bị nước cuốn xói lở, giúp vua khỏi
đau mắt. Vua nhớ ơn, phong thần và sai lập miếu thờ. Hiện nay các làng Yên Thái, Bái
Ân, Xuân Đỉnh đều có đỡnh, miếu thờ phụng. Cũng núi về con sụng này, trong Tõy Hồ
chớ mục sụng nỳi cũng vẫn thấy ghi tờn dũng sụng này: “Sông Già La cũng là nhánh
của sông Nhị. Xưa thuộc động Già La nên có tên như vậy. Động này nay là ấp Quán
La. Triều Lý gọi là sụng Thiờn Phự. Triều Trần đổi là Thiên Hán” {30; tr 243}. Sông
Thiên Phù cạn dần, đến khoảng cuối thế kỷ XVIII, sông cạn trở thành ruộng cấp cho
dân cày cấy và được nhà nước công nhận. Đôi câu đối ở chùa Thiên Niên, làng Trích
Sài dựng từ thời vua Lê Thánh Tông bên Hồ Tây cũng là một bằng chứng về sự hiện
diện của dũng sụng ấy.
“Sài phong đạc trấn thiờn phự hữu

24
Trang cảnh hương truyền lóng bạc tõy”
(Dịch là: Tiếng mừ nơi đỡnh Sài cũn vang vọng sụng Thiờn Phự bờn phải
Hương thơm trang Thiên Niờn vang khắp hồ Lóng Bạc phớa tõy)
Ngoài ra, dù không nằm trong tam giác nước thuộc Hồ Tây nhưng sông Kim
Ngưu cũng có những mối liên hệ mật thiết với Hồ Tây cả về tự nhiên và lịch sử. Sông
Kim Ngưu là một nhánh của sông Tô. Sách Đại Nam nhất thống chí cú chộp: “ ở
phớa Bắc huyện Thanh Trỡ, xưa thông với Hồ Tây, sau bị bồi lấp dần”{55; tr 189}.
Theo truyền thuyết, lịch sử hỡnh thành sụng Kim Ngưu cũng gắn với Hồ Tây. Một
trong những truyền thuyết minh chứng điều này chính là truyền thuyết Khổng lồ
đúc chuông.
Đặc điểm nổi bật của khu vực Hồ Tây là diện tích mặt nước khá lớn. Nằm ở giữa
khu vực là Hồ Tây và hồ Trúc Bạch, phía Đông và Đông Bắc là sông Hồng, ngoài ra
cũn cú nhiều ao, đầm, hồ phân bố rộng khắp trong vùng. Với diện tích trên 500 ha, Hồ
Tây là hồ lớn nhất không chỉ đối với khu vực nghiên cứu mà cũn lớn nhất đối với toàn
bộ nội ngoại thành Hà Nội. Sau đó là hồ Trúc Bạch (gần 30 ha), như một bộ phận cấu
thành cảnh quan hồ trong khu vực.

Ngoài Hồ Tây và hồ Trúc Bạch, hệ thống ao, đầm, hồ ở khu vực ngoài đê và các
khu vực Phú Thượng, Xuân La được hỡnh thành theo cỏc nguyờn nhõn khỏc nhau
như: khu vực ngoài đê do các quá trỡnh tự nhiờn, số cũn lại do hoạt động của con
người. Khu vực Hồ Tây mà luận văn nghiên cứu có thời gian cách ngày nay gần một
thế kỷ trở về trước nên hệ thống sông ngũi, đầm hồ cũn khỏ dày đặc. Ngày nay, các hồ
này đó bị lấp đi nhiều để xây dựng nhà ở, khách sạn và nhà hàng phục vụ cho cuộc
sống và nhu cầu kinh doanh của nhân dân vùng Hồ Tây.
Một điều đáng chú ý là hàng năm, hoạt động bồi tụ, xói lở của sông Hồng có tác
động mạnh tới việc khai thác và mở rộng đất đai khu vực ngoài đê. Những năm nước
lũ lên cao tràn ngập khu vực ngoài đê. Hai quá trỡnh xúi lở, bồi tụ và ngập lụt cú ảnh
hưởng nhiều tới đời sống lao động sản xuất của nhân dân trong vùng.
Hệ thống sông hồ dày đặc ở vùng Hồ Tây có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với đời sống sản xuất. Ngoài các bến sông Hồng thỡ cỏc bến ven hai bờn bờ sụng Tụ
Lịch cũng cú một ý nghĩa quan trọng. Nhiều bến đồng thời cũng là các chợ, chúng ta

×