Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKK Trò chơi vận động – phương tiện rèn luyện thể chất toàn diện Ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.63 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO LONG KHÁNH
TRƯỜNG THCS LÊ QUÍ ĐÔN
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
“TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG”
“TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG”
PHƯƠNG TIỆN RÈN LUYỆN THỂ CHẤT TOÀN DIỆN
PHƯƠNG TIỆN RÈN LUYỆN THỂ CHẤT TOÀN DIỆN
I
- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển tâm sinh lý của học sinh THCS và giáo
dục, định hướng con người mới - con người có tác phong công nghiệp và tư
tưởng đạo đức mang bản sắc dân tộc. Cũng như qui luật phát triển và sự vận
động của con người không ngừng nâng cao kiến thức và tầm hiểu biết của mình,
trong đó “Trò chơi vận động - phương tiện rèn luyện thể chất toàn diện” là
môn khoa học tự nhiên không thể thiếu cho lứa tuổi THCS trong học tập - vui
chơi – giải trí. Qua trò chơi vận động sẽ giúp các em phát triển trí tuệ, rèn luyện
toàn diện thể chất và sự khéo léo, giáo dục đạo đức để hình thành nhân cách.
Hiện tại học sinh bậc THCS còn hạn chế về tính tổ chức, tính kỷ luật,
chưa tự tin hòa nhập vào tập thể cũng như lúng túng trước đám đông, thiếu năng
động trong sinh hoạt đờøi sống hằng ngày. Nhận thức về phát triển toàn diện thể
chất chưa được tích cực tạo nên sự e ngại những họat động có tính động về thể
lực làm ảnh hưởng không nhỏ cho việc học tập.
- Qua thực tế trong quá trình giảng dạy thể dục thể thao ở bậc THCS.
Việc “Rèn luyện thể chất” tôi nhận thấy có nhiều học sinh thể lực còn hạn chế,
thường tránh né những hoạt động mang tính thể lực, dẫn đến rụt rè, thụ động
trong mọi lĩnh vực, ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập. Các em thường co
cụm, đợi sự hướng dẫn, chưa mạnh dạn làm người lĩnh xướng – đi đầu.
- Đa số các bậc cha mẹ ít quan tâm đến hoạt động trò chơi vận động và rèn
luyện thể chất. Thông thường các bậc cha mẹ chủ yếu tập trung các môn học văn
hóa môn tự nhiên mà lại quên điều cơ bản “ Chơi mà học, học mà chơi “. Thông
qua trò chơi phát huy toàn diện về các mặt giáo dục trí tuệ, tư tưởng ; giáo dục


Sáng kiến kinh nghiệm Trang 1 Bùi Văn Dzụ
tính thẩm mỹ ; tính tổ chức ; tính kỷ luật ; tính tập thể; tính chiến thuật ; tính
sáng tạo … và rèn luyện thể lực, trau dồi và nâng cao kiến thức xã hội. Đặt biệt
là Trò chơi vận động – phương tiện rèn luyện thể chất toàn diện để nâng cao
nhận thức được thể hiện qua trò chơi, làm cho người tổ chức ( GV), người chơi
(HS ) hứng thú, phấn khích dễ nhớ - nhớ lâu.
Xuất phát từ lý do trên, nên tôi đã chọn đề tài “ Trò chơi vận động –
phương tiện rèn luyện thể chất toàn diện” trong môn học thể dục để làm đề tài
nghiên cứu.
II- THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
CỦA ĐỀ TÀI :
1. Thuận lợi :
Chính sách Nhà nước rất quan tâm cho nền giáo dục và thế hệ tương lai
của đất nước. Xã hội hình thành và phát triển nhiều mô hình hoạt động giáo dục
thể chất, giáo dục con người toàn diện. Các bậc cha mẹ rất quan tâm và đầu tư
cho con cái, theo dõi, tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình.
Nghị quyết trung ương 4 (khóa VII ) đã nêu “ Công tác TDTT cần coi
trọng và nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học, tổ chức hướng dẫn
đông đảo quần chúng nhân dân rèn luyện thân thể hàng ngày, nâng cao chất
lượng các cơ sở đào tạo … “ Và ngày 25 tháng 6 năm 2007 Chủ tịch UBND tỉnh
Đồng Nai ra quyết định số 1813/QĐ-UBND về việc tổ chức triển khai thực hiện
Kế họach chương trình 5 đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu tỉnh Đồng Nai giai đọan
2006 – 2010 trong đó “ … đầu tư trang bị các thiết bị hỗ trợ cho tập luyện của
học sinh ở các bộ môn : Bóng đá, cầu lông, bơi lội, kinh phí dự kiến 750 triệu
đồng “.
+ Về tính tổ chức : Học sinh THCS đã được vào tổ chức Đội Thiếu niên
tiền phong Hồ Chí Minh. Học tập và họat động trong môi trường tập thể có tính
tổ chức cao ở cấp tiểu học với các chương trình rèn luyện như Rèn luyện Đội
viên ; Chuyên hiệu.
+ Về tính kỷ luật : Lứa tuổi THCS đã được giáo dục ý thức kỷ luật ở bậc

mầm non, tiểu học qua nội qui, qui chế.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 2 Bùi Văn Dzụ
+ Về giáo dục thể chất : Ở cấp mầm non, tiểu học các em đã học môn thể
dục, tham gia trò chơi dân gian, trò chơi vận động đã giúp các em phát triển về
thể chất. Bên cạnh đó, đời sống kinh tế của nước ta những năm gần đây trên đà
phát triển, phụ huynh có đời sống ổn định, sự quan tâm cho con cái ngày một
chu đáo nên chế độ dinh dưỡng dành cho các em tương đối đầy đủ và tạo điều
kiện cho con em mình tham gia các họat động TDTT.
2. Khó khăn :
Tâm sinh lý lứa tuổi THCS thời kỳ biến đổi các em dễ kích động bất đồng
ảnh hưởng không nhỏ cho một số họat động mang tính tập thể cao. Do tâm lý
lứa tuổi, phần lớn phụ huynh phải theo dõi, quan tâm thái quá làm các em bị gò
bó. Bên cạnh đó, phụ huynh chưa đánh giá cao về tính năng lợi ích việc học thể
dục và các họat động trò chơi vận động.
+ Về tính tổ chức : Phần lớn học sinh tham gia các sinh hoạt tập thể chưa
nhiều, không thường xuyên.
+ Về tính kỷ luật : Học sinh lứa tuổi THCS nhận thức tính kỷ luật tự giác
chưa cao. Do biến đổi tâm sinh lý, thường làm ngược lại những qui định để thể
hiện mình đã là người lớn ; là người nổi trội trong nhóm bạn.
+ Về giáo dục thể chất : Phụ huynh nhận định chưa toàn diện giữa học tập
các bộ môn văn hóa chủ đạo còn gọi là môn chính ( Toán, Lý, Hóa, Văn, Ngọai
ngữ …) và học các môn khác được xem là môn phụ và thực tế của địa phương,
các bậc cha mẹ muốn con mình học tốt các môn chính, xem nhẹ việc học môn
giáo dục thể chất là môn phụ tạo nên tâm lý “ … bên trọng -, … bên khinh “, sợ
con mình vận động nhiều mệt mỏi không học các môn chính được. Ý thức học
sinh vẫn còn tư tưởng môn phụ, nên học không tích cực.
3. Hiện trạng :
Hiện nay, việc giảng dạy bộ môn thể dục rất được chú trọng trong trường
THCS, là một yêu cầu quan trọng đối với từng đối tượng học sinh. Nhiều công
trình khoa học đã chứng minh rằng lứa tuổi THCS là thời kỳ thuận lợi nhất cho

sự phát triển thể chất và hình thành các kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho con người.
Qua quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh sức khỏe – trí tuệ
là thứ quý nhất của con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có mối quan hệ
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 3 Bùi Văn Dzụ
tương quan bổ sung cho nhau. Để có sức khỏe tốt không chỉ cần dinh dưỡng và
vệ sinh tốt đã đủ mà chúng ta cần phải thường xuyên tập luyện thể dục thể thao.
Nhưng tập TDTT phải có những bài tập cho phù hợp tâm sinh lý từng độ tuổi
mới có hiệu quả. Bên cạnh sự phát triển về thể chất đó, về mặt tinh thần của con
người sẽ được phát triển song hành về trí tuệ.
Đặc biệt, lứa tuổi học đường là thời kỳ rất cần thiết cho sự vận động để
phát triển trí-lực tòan diện giúp học sinh có đủ sức khỏe, tinh thần minh mẫn mà
học tập, đảm bảo cho mục tiêu nhiệm vụ sau này là lao động, xây dựng bảo vệ tổ
quốc.
Qua quá trình giảng dạy và theo dõi việc học tập bộ môn thể dục bậc THCS
có trên 70 % học sinh có thái độ thờ ơ thiếu tích cực với môn học thể dục – giáo
dục thể chất.
- Trên 80% chưa thể hiện tính tự giác, tính tổ chức, chưa biết phát huy tính
tập thể, chưa nhận thức hết ý nghĩa rèn luyện thể chất ảnh hưởng trực tiếp đến
việc học tập qua câu thành ngữ “Một tinh thần minh mẫn trong một thể xác
tráng kiện“.
- Một số phụ huynh phản ảnh : Học (tập) thể dục nhiều ( chạy, nhảy ) con
em về nhà mệt mỏi không học môn khác được.
- Điều kiện cơ sở vật chất ở trường học chưa đáp ứng yêu cầu bộ môn làm
hạn chế cho người dạy và người học. Không phát huy hết khả năng, năng khiếu
người học (HS) ; người dạy không có điều kiện truyền đạt hết kỹ năng.
Từ những hiện trạng trên tôi nhận thấy những tích cực và tiêu cực trong
việc tập luyện TDTT.
+ Tích cực : Theo phân phối chương trình của ngành Giáo dục đã đáp ứng
sự phát triển tâm sinh lý mọi lứa tuổi.
+ Tiêu cực : Nhận thức của học sinh và số đông phụ huynh xem nhẹ môn

học thể dục; điểm (đánh giá) xếp loại đúng khả năng học sinh “trung bình, yếu”
nhiều bị phản ánh là giáo viên khó …
III- NỘI DUNG ĐỀ TÀI :
1- Một số khái niệm và quan niệm liên quan đến đề tài :
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 4 Bùi Văn Dzụ
a/- Khái niệm : Trò chơi vận động là phương tiện của giáo dục thể chất, là
hoạt động có ý thức, nhằm đạt được những kết quả, những mục đích có điều
kiện đã được đặt ra. Trong khi thực hiện các nhiệm vụ của trò chơi, mỗi người
trong từng “vai trò” của mình phải sử dụng các hoạt động như : đi, chạy, nhẩy,
ném, vỗ, đập, leo, mang, vác, bò, trườn, vượt qua chướng ngại vật, tự bảo vệ
mình hoặc bảo vệ đồng đội vv.
b/- Quan niệm trò chơi vận động :
Quan niệm về trò chơi vận động (TCVĐ) rất nhiều, xoay quanh nguồn gốc
và ý nghĩa của trò chơi, tuy nhiên có thể chia thành hai trường phái chính.
+ Các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa duy tâm (điển hình là: Gaillois, Siller,
Gross, Khol vv) cho rằng trò chơi mang tính vững bền, không đổi, trong trò
chơi chỉ thể hiện “Bản năng sinh tồn”, là các hoạt động sinh học thuần túy. Họ
không nhận thấy sự khác biệt khi hoạt động của con người trong trò chơi và lúc
động vật đùa giỡn. Ngoài ra, theo họ trò chơi có trước lao động và hai hoạt động
này đối kháng nhau.
+ Các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa duy vật (điển hình là: G.Plekhanov,
A.Mkarenko…) đã chứng minh rằng lao động đã sản sinh ra trò chơi và làm nền
tảng cho sự phát triển tiếp theo của các trò chơi. Với nhận thức đó các nhà giáo
dục theo chủ nghĩa Mark luôn đề cao sự giáo dục toàn diện, trong hướng dẫn trò
chơi phải đạt được sự phát triển cả trí tuệ đạo đức, thể chất và các mặt giáo dục
khác.
2- Phân loại trò chơi: có 3 loại
*- Trò chơi sáng tạo (Games of creation): Là những trò chơi theo chủ đề,
chủ yếu là phát triển trí lực.
*- Trò chơi hoạt động (Games of skill): Tác động toàn diện cơ thể.

*- Trò chơi thể thao (Olympic Games): Là các môn thi đấu trong chương
trình thế vận hội.
Ở đây chúng ta tập trung tìm hiểu và đi sâu vào loại 2 là trò chơi hoạt động
(TCVĐ).
3- Cách phân loại TCVĐ : Có 2 cách phân loại
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 5 Bùi Văn Dzụ
* Dựa vào các phương tiện: Với nội dung phong phú, TCVĐ sử dụng rất
nhiều phương tiện khác nhau, người ta có thể chia thành các dạng hoạt động
chính trong khi sử dụng các phương tiện để chơi như sau :
* Chơi theo dạng mô phỏng (bắt chước) gồm có:
a. Diễn xuất cho giống người hay con vật.
b. Làm theo quy ước giả định, có đối kháng.
(Các trò chơi này có thể kèm theo bài hát, câu đồng dao, bài thơ, hò vè, hoặc âm
thanh dẫn nhịp).
* Các trò chơi tiếp sức : Nhiều người cùng luân phiên thực hiện một công
việc, có thể là chạy, nhảy, nói, hát, vv
* Vượt qua chướng ngại vật (có độ cao, độ khó khác nhau).
a-Chơi với các đạo cụ cầm tay (khăn, bóng, gậy ).
b- Có hoạt động đối kháng (một chọi một, một đối kháng tập thể, tập thể
đối kháng tập thể).
c-Hoạt động phán đoán, tìm kiếm để đạt một kết quả nào đó từ những
thông tin được thu nhận (các suy luận mang tính logic, âm thanh, hình ảnh, cảm
giác… thông qua các giác quan).
d- Các trò chơi có sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại.
* Dựa vào mối tương quan của người chơi: có 3 loại
a. Trò chơi cá nhân (không phân chia thành đội): là những trò chơi hoạt
động tập thể, có những đặc điểm chính, là trong khi tham gia vào cuộc chơi thì
mỗi người đều độc lập, chịu trách nhiệm với riêng mình về vai trò và hành động,
không bị ràng buộc liên đới với các thành viên khác. Trong nhóm trò chơi này
có thể mọi người tham gia cùng lúc hoặc tham gia lần lượt, trong quá trình chơi

có thể có sự “đối chọi” (đấu trí, đấu lực…vv) hoặc không có sự “đối chọi” trong
trò chơi.
b. Trò chơi cá nhân chuyển thành đồng đội: Là các trò chơi lúc đầu mọi
người hoạt động riêng lẽ, xuất hiện tình huống “bất ngờ” bắt phải kết hợp thành
nhóm (tổ) để phối hợp hành động, sự kết hợp đó không ổn định suốt trong một
trò chơi.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 6 Bùi Văn Dzụ
c. Trò chơi đồng đội: Các trò chơi thuộc nhóm này mang tính chất thi đua
của cả đơn vị tập thể (nhóm, tổ, đội ) có đặc điểm là mỗi hành động, dẫn tới kết
quả thành công hay thất bại đều ảnh hưởng đến cá nhân người làm và ảnh hưởng
đến cả tập thể đó. Mỗi đơn vị phải biết tổ chức, hợp đồng trách nhiệm để mang
lại phần thắng.
4. Tác dụng của TCVĐ trong GDTC và các hoạt động xã hội khác:
a/. Giáo dục đạo đức ý chí:
TCVĐ cùng với các môn TDTT, cắm trại được coi là phương tiện chính
dùng trong lĩnh vực GDTC. Nói đến GDTC thì nhiệm vụ của mặt giáo dục này
không chỉ làm phát triển cơ thể, tăng cường các tố chất vận động, hình thành kỹ
xảo vận động mà còn góp phần giáo dục đạo đức ý chí cho người tập. Trong các
phương tiện đã nêu thì trò chơi là phương tiện góp phần giáo dục đạo đức ý chí
cho người tập rất có hiệu quả, sở dĩ có thể nói như vậy vì:
Các trò chơi gây được hứng thú và rất hấp dẫn người chơi, trong lúc chơi
“người tham gia” như được thoát ly khỏi hoàn cảnh thực tại, nên dễ bộc lộ cá
tính và thể hiện con người thật, khó kiềm chế và che dấu những mặt yếu kém về
đạo đức ý chí. Nhờ đó những người hướng dẫn (các nhà giáo dục, HLV, thầy cô
giáo) có thể nắm vững về từng học sinh để kết hợp giáo dục các mặt ý chí như:
cương quyết, dũng cảm, tích cực, kiên trì và hi sinh….
Đồng thời trong quá trình chơi, người chơi tiếp xúc với nhau, cá nhân phải
hoàn thành nhiệm vụ của mình trước tập thể ở mức độ cao, tập thể có trách
nhiệm động viên giúp đỡ cá nhân hoàn thành nhiệm vụ đó. Vì vậy ta có thể giáo
dục các em về đạo đức như: tình bạn, lòng nhân ái, tinh thần tập thể, tôn trọng

đối thủ, ngay thẳng trong khi thi đua, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, mong
muốn hoàn thiện….
Điều này được thể hiện rõ nét ở trẻ em trong trò chơi, các em biểu lộ tình
cảm rất rõ ràng vui khi thắng lợi, buồn khi thất bại, vui mừng khi thấy đồng đội
hoàn thành nhiệm vụ, bản thân thấy có lỗi khi không làm tốt vai trò của mình…
Vì tập thể các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại
thắng lợi cho đội, đây chính là đặc tính thi đua rất cao của TCVĐ.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 7 Bùi Văn Dzụ
Nên việc giáo dục cho thanh thiếu niên thông qua TCVĐ là rất cần thiết để
giúp trẻ phát triển toàn diện về đạo đức cũng như về thể lực, tạo tiền đề vững
chắc cho các quá trình phát triển sau này.
b/- Tác dụng tăng cường sức khỏe khi sử dụng làm phương tiện tập
luyện:
Qua quá trình nghiên cứu các nhà khoa học đã kết luận: “Vận động là một
hiện tượng sinh học, là nhu cầu của cơ thể ở mọi lứa tuổi. Khi vận động mối
quan hệ giữa cơ quan cảm thụ đến bộ máy vận động thông qua sự chỉ huy của
thần kinh trung ương được thiết lập rất chặt chẽ. Phản xạ từ cơ quan nội tạng ảnh
hưởng tới chức phận của hệ vận động, vì vậy ít vận động là nguyên nhân gây ra
sự suy yếu của cơ thể và chức năng của từng cơ quan, làm phát triển một số
bệnh lý mãn tính, gây rối loạn các chất chuyển hóa trong cơ thể. TCVĐ nếu
được thực hiện đúng phương pháp khoa học thì nhất định có tác dụng nâng cao
sức khỏe. Đây là mục đích cơ bản, quan trọng nhất trong GDTC.
Các loại TCVĐ với luật lệ đơn giản được sử dụng với nhiều dạng hoạt
động khác nhau mà phần lớn là các động tác tự nhiên (thực dụng) và tiến hành
ngoài trời… nên có ảnh hưởng rất tốt đối với cơ thể con người về sức chịu đựng
môi trường hoàn cảnh.
Tham gia trong các TCVĐ sẽ được phát triển các tố chất vận động, đặc biệt
là tố chất nhanh và khéo léo. Cách chạy đuổi bắt trong các trò chơi không chỉ
phát triển sức nhanh đơn thuần về tần số bước chạy mà giúp người chơi “kỹ
năng chạy đổi hướng”, cách làm động tác giả, cách tăng giảm tốc độ và xuất

phát hoặc ngừng đúng lúc. Nhìn chung sự phát triển thể lực trong các trò chơi
không đơn điệu mà làm cho người chơi trở nên tháo vát linh hoạt, phát triển
năng lực quan sát định hướng. Các cơ quan vận động được hoàn chỉnh, tăng
cường khả năng phối hợp các hoạt động của chi và thân.
Nhờ rèn luyện trong thiên nhiên nên tăng cường khả năng kháng bệnh, chịu
đựng được với những thay đổi của thời tiết khí hậu. Với các em nhỏ kích thích
sự phát triển, mau lớn không bị còi. Với người lớn giúp duy trì khả năng hoạt
động, tăng tuổi thọ. Tuy vậy trò chơi do tính hấp dẫn của nó, dễ tạo cho người
tập ham vui nên khó điều chỉnh đúng lượng vận động đối với từng người trong
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 8 Bùi Văn Dzụ
lúc tập, vì vậy các nhà sư phạm làm công tác hướng dẫn phải nắm vững phương
pháp và theo dõi để điều chỉnh tốt về số lần và thời gian cho hợp lý.
5. Tác dụng của TCVĐ về mặt xây dựng kỹ năng - kỹ xảo vận động
trong tập luyện các môn thể thao :
TCVĐ vừa là phương tiện vừa là phương pháp và có một chương trình
phong phú hấp dẫn, nhưng đơn giản, sân bãi dụng cụ ít tốn kém, đặc biệt là có
thể lựa chọn những trò chơi cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý từng đối
tượng, dễ vận dụng vào mọi hoàn cảnh.
Tận dụng các ưu điểm trên, khi tập luyện kỹ thuật của các động tác môn thể
thao, có thể đưa vào thành các thao tác cần thực hiện trong trò chơi. Các thao tác
đó do đã đơn giản hoá về cử động hoặc hoàn cảnh thực hiện (kích thước sân bãi,
yêu cầu luật chơi…) làm cho người tập dễ tiếp thu, nhờ đó tập vào động tác
chính, sẽ hình thành các kỹ năng - kỹ xảo nhanh hơn.
Vì vậy TCVĐ là phương tiện hỗ trợ rất tốt cho việc chuẩn bị thể lực, kỹ
năng, đáp ứng nhu cầu hoạt động, cũng cố hoàn thiện kỹ xảo vận động giúp
người tập làm quen và nâng cao thành tích trong thi đấu.
6. Tác dụng của TCVĐ trong các giờ học thể dục của học sinh phổ
thông:
Ngoài hoạt động học tập và lao động, thì trò chơi thể hiện không chỉ như sự
giải trí và tiêu khiển, vẫn chiếm vị trí lớn. Các em đặc biệt yêu thích các trò chơi

linh hoạt với luật lệ cụ thể và các môn bóng, quá trình chơi gây hứng thú nhanh
chóng và đặc biệt đối với các em.
Đối với tuổi học sinh, cơ thể đang độ phát triển của các em rất cần thiết
phải chơi đùa, đó là nhu cầu sinh học, cũng quan trọng như ăn, ngủ, học tập….
của các em trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó chúng ta thường thấy, nếu việc
vui chơi của các em không được người lớn hướng dẫn tổ chức, thì các em cũng
tự tụ họp rủ nhau chơi những trò chơi đã biết.
Trong giờ học thể dục ở trường phổ thông việc đưa TCVĐ vào các giáo án
vừa mang tác dụng phát triển thể chất (các tố chất vận động và năng lực hoạt
động chung của cơ thể) lại vừa có mục đích trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 9 Bùi Văn Dzụ
động, tổ chức trò chơi, để các em có thể tự chơi đạt kết quả tốt, cũng như tạo bầu
khí buổi học được sinh động hơn.
Ngoài ra thông qua việc dạy trò chơi còn có tác dụng giáo dục về mặt đạo
đức, uốn nắn các mặt yếu kém về cá tính, kích thích sáng tạo, nhận thức đúng
các hành vi đẹp… để góp phần giáo dục toàn diện cho các em.
Quá trình dạy TCVĐ cho học sinh phải đảm bảo tính chất phù hợp, lứa
tuổi, giới tính. Chọn trò chơi theo mục đích rõ ràng, phù hợp với thời điểm giờ
học, môi trường hoàn cảnh để trò chơi diễn ra. Tránh các trò chơi đơn thuần về
mặt bạo lực, tạo nên các mâu thuẫn gây ra mất đoàn kết hoặc tạo nên các thương
tích cho cơ thể các em.
Là lĩnh vực để thể hiện tài năng, tổ chức rèn luyện thể chất tinh thần cho
những người tham gia.
Là nơi có thể đưa vào để giáo dục về điều luật, truyền thống hoặc phong
cách riêng của đoàn thể đó.
Là giao điểm hội tụ để tuyên truyền, quảng bá về sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, công nghệ và văn hóa tư tưởng của các đơn vị tiến hành trò chơi.
Tóm lại : “ Trò chơi vận là phương tiện rèn luyện thể lực tích cực và toàn
diện” :
Trò chơi vận động là loại hình hoạt động như một môn học, giáo dục thái

độ nhận thức và quá trình nhận thức đúng đắn, phát huy cao tính tự giác trong tổ
chức, tự giác phát huy tinh thần kỷ luật-trật tự và rèn luyện thể chất tích cực
nhất.
Là một môn học luôn gây sự chú ý đối với mọi tầng lớp mọi lúc mọi nơi
bằng những phương pháp, hình thức tổ chức, hình thức chơi, luật chơi, đối tượng
tham gia trò chơi … phù hợp với tâm sinh lý từng lứa tuổi, thõa mãn nhu cầu vui
chơi, giải trí và học tập.
Là môn học được đánh giá cao về tính khoa học, tạo ra sự hứng thú cho mọi
người không phân biệt giới tính, độ tuổi, trình độ, dân tộc …
7- Vai trò và tổ chức TCVĐ :
Vai trò và tầm quan trọng trực tiếp tác động nhận thức của học sinh về
rèn luyện thể chất- phát triển thể lực khi tham gia trò chơi vận động :
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 10 Bùi Văn Dzụ
- Nhận thức đúng đắn về nội dung, ý nghĩa, mục đích, yêu cầu của trò chơi.
“Chơi mà học, học mà chơi “.
- Vai trò người tổ chức trò chơi : Phải định hướng tư tưởng, sửa chữa
những sai sót trong quá trình thực hiện trò chơi. Giúp người chơi rèn luyện :
+ Tư tưởng chủ đạo : Lời thuyết minh ( hướng dẫn ), giới thiệu và các động
tác trò chơi phải có tính tư tưởng chủ đạo, phù hợp với tâm sinh lý từng lứa tuổi,
giúp cho các em hình thành nhân cách.
+ Đạo đức : Đoàn kết, mình vì tập thể, vì danh dự chung, phát huy tinh thần
tự giác.
+ Tác phong : Có tính kỷ luật cao, nhanh nhẹn, khéo léo.
+ Rèn luyện thể chất (trí - lực). Tránh cường điệu, cầu kỳ, khó nhớ, khó
thực hiện và dễ gây nhàm chán và chấn thương.
- Vai trò người tham gia trò chơi :
+ Phải tuyệt đối tuân thủ luật chơi, nêu cao tinh thần tập thể, phát huy tính
trung thực, tính kỷ luật và tác phong, đạo đức.
- Có thái độ hành vi đúng đắn với trò chơi như : Chăm chú nghe sự góp ý,
sửa sai, thi đua không ganh đua, cay cú thắng thua, tích cực, đoàn kết, thân ái.

- Phát huy tính tự nguyện, năng nổ và học hỏi.
- Cách đánh giá, nhận xét một TCVĐ sau khi tiến hành xong cuộc
chơi:
Một trong những việc làm không thể thiếu là nhận xét, đánh giá kết quả
thực hiện trò chơi; phân định người hoặc đội đoạt giải theo thứ tự. Muốn việc
“đánh giá” được đúng, chính xác, có được kết quả công bằng và thỏa mãn đối
với các thành viên tham gia cuộc chơi, người hướng dẫn (hoặc giáo viên) cần
lưu ý :
Dựa vào yêu cầu và luật lệ của trò chơi đã phổ biến từ đầu cuộc chơi.
Nêu rõ cụ thể (có tính chất thống kê) các vi phạm của từng đội (hoặc từng
cá nhân), trong quá trình diễn biến của trò chơi (cần có thêm trọng tài phụ đối
với những trò chơi có luật hoặc diễn biến phức tạp).
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 11 Bùi Văn Dzụ
Công bằng nghiêm khắc nhưng cũng khuyến khích và bao dung đối với đội
(hoặc cá nhân) còn quá yếu kém (cụ thể : cần nghiêm khắc với các hành vi đạo
đức xấu và châm chước nâng đỡ với các trường hợp yếu mệt do thể lực).
8- Biện pháp thực hiện :
a)- Quá trình tổ chức thực hiện :
Trong quá trình nghiên cứu, dùng các phương pháp sau :
* Phương pháp tổ chức : Tính tổ chức ; tính đồng đội ; tính tập thể; tính
chiến thuật và quá trình thực hiện trò chơi ; biên soạn, cải biên trò chơi ; tính
sáng tạo trong luật chơi, năng động theo mục đích yêu cầu của trò chơi.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp, tổng kết rút kinh
nghiệm và kết quả .
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến hoạt động ngoại khóa, phương
pháp tổ chức trò chơi, trò vận động, trò chơi dân gian.
- Nghiên cứu tìm hiểu tâm sinh lý lứa tuổi, khả năng vận động, khả năng
tiếp thu và sáng tạo của đối tượng tham gia trò chơi.
- Tổ chức trò chơi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Động viên, giúp đỡ những học sinh rụt rè, nhút nhát, thụ động.

- Theo dõi quá trình thực hiện trò chơi của từng khối-lớp, nhóm nam nữ,
nhóm sức khỏe để sửa sai, hướng dẫn .
b)- Tổ chức thực hiện :
- Triển khai trò chơi : Giới thiệu, hướng dẫn rõ ràng, dễ hiểu ; cách chơi
được tái hiện cơ bản đúng nội dung theo môn học ( Giáo dục thể chất ). Nhiều
học sinh không nắm vững luật chơi, không thực hiện nhiều động tác của trò
chơi. Người tổ chức ( GV ) phải làm mẫu, giải thích và hướng dẫn cách chơi
chậm rãi từ dễ rồi nâng lên khó dần
* Bước 1 : Đây là bước thực nghiệm để nghe- nhận thông tin phản hồi.
* Bước 2 : Hoàn chỉnh trò chơi sau khi đã rút kinh nghiệm, chắt lọc ở bước
thực nghiệm.
* Bước 3 : Đặt tên trò chơi cho phù hợp với nội dung trò chơi, ngắn gọn, dễ
nhớ.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 12 Bùi Văn Dzụ
Người tham gia trò chơi : Nếu học sinh ngại ngùng, rụt rè trước đám đông.
Người tổ chức (GV) luôn động viên, khấy động sự cổ vũ của cổ động viên (bạn
bè cùng tổ- nhóm).
+ Tuy nhiên người tổ chức phải biết vận dụng khả năng đối tượng tham
gia trò chơi. Tránh những động tác, hình thức, cách chơi lập đi lập lại nhiều lần
dễ gây nhàm chám cho người chơi cũng như cổ động viên.
+ Người chơi phải tuân thủ nội dung ý nghĩa trò chơi, không vì cao hứng
mà sai lệch ý nghĩa – tính chất giáo dục và rèn luyện của trò chơi.
+ Động tác trò chơi không phải lúc nào cũng cứng ngắt với luật chơi mà cần
vận dụng, điều chỉnh cho phù hợp với khả năng người chơi.
+ Biết dừng trò chơi hoặc chuyển đổi trò chơi khác khi thấy người chơi
giảm sự hứng thú hoặc ảnh hưởng đến thể lực.
Ví dụ: Cho các đội thi kéo co – Ta chuyển thể đặt tên là Kéo pháo ra tiền
tuyến ( thi từ vòng 1 đến vòng chung kết theo luật đấu loại trực tiếp … đội được
vào đến chung kết ít nhất phải trải qua 5 lượt đấu ). Tiếp tục ta cho chơi tiếp
một trò chơi vận động nữa như : Tải đạn trên mâm pháo ; Hành quân thần tốc

… chắc chắn đội vừa tranh chung kết ở môn kéo pháo sẽ bị ức chế tâm lý bỡi thể
lực đã bị tiêu hao nhiều làm hạn chế sự hứng thú thi đua cũng như thiếu tập
trung để nghe giới thiệu mục đích yêu cầu, luật chơi và tác dụng của trò chơi
môn khác …
c)- Dụng cụ – Đồ dùng phục vụ trò chơi :
- Sân bãi : Ngoài trời, sân trường, bóng mát hay trong nhà … mọi địa
hình, địa vật, diện tích rộng- hẹp đều có thể tổ chức trò chơi. Nhưng trò chơi
phải phù hợp cảnh vật, thời tiết, số người tham gia và đảm bảo tính vừa sức ( thể
lực ) của người chơi.
- Dụng cụ :
+ Quy mô nhỏ : Mọi dụng cụ chung quanh ta đều có thể tận dụng tùy tính
chất quy mô của trò chơi … nhưng cần đơn giản, ít tốn kém … tận dụng tính
khôi hài để người chơi hứng thú hơn.
+ Quy mô vừa và lớn ( loại trò chơi vận động hay vận động trường… có
dụng cụ ) :
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 13 Bùi Văn Dzụ
Sân bãi phù hợp trò chơi, trò chơi được chuẩn bị chặt chẽ từ khâu thuyết
minh ( hướng dẫn- minh họa ), cảnh trí đến kế hoạch và dụng cụ phục vụ trò
chơi ( lưu ý kinh phí ). Dụng cụ, đồ dùng phục vụ trò chơi phải bảo bảo an toàn,
giảm thiểu tối đa sự cố .
Vệ sinh, an toàn sân bãi đảm bảo tuyệt đối tránh xảy ra tai nạn, chấn thương

d)- Phương pháp tổ chức :
- Giới thiệu trò chơi : Giới thiệu mục đích, ý nghĩa trò chơi ở nội dung nào
là chủ đạo phải đảm bảo tính giáo dục và rèn luyện. Qua đó, có thể lồng các câu
chuyện cổ tích, chuyện vui ( phù hợp với bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc)
vào trò chơi để tạo sự háo hức, hứng thú người chơi. Cần ngắn gọn và hấp dẫn.
- Hướng dẫn cách chơi, luật chơi : Tùy theo mỗi trò chơi mà người quản trò
( GV ) linh động hướng dẫn cách chơi ( luật chơi ). Những trò chơi phức tạp
phải hướng dẫn đầy đủ rồi mới chơi. Còn ngược lại những trò chơi đơn giản thì

có thể thực hiện ngay, vừa chơi vừa giải thích làm sao dễ hiểu thu hút người
chơi.
- Chơi thử ( chơi nháp ) : Đây là phần rất quan trọng nhưng cần lưu ý :
+ Nếu không chơi thử hoặc chơi thử quá ít người chơi (HS) không tiếp thu
được sẽ khó khăn khi thực hiện trò chơi, sẽ ảnh hưởng mục đích giáo dục và rèn
luyện mà ta muốn đưa vào.
+ Nếu chơi thử nhiều dễ gây nhàm chán cho người chơi (HS).
- Tiến hành chơi :
* Người quản trò ( GV) : Phải tinh tế giữ khoảng cách phù hợp với học
sinh và điều hành trò chơi một cách linh động, động viên khích lệ, hỗ trợ cho
người chơi, không được tham gia quá sâu làm gián đoạn trò chơi để bắt những
lỗi nhỏ không cần thiết. Nhưng có lúc phải tách ra khỏi người chơi (HS) đối với
những trò chơi có trọng tài.
+ Lời thuyết minh (hướng dẫn- minh họa) nhằm giáo dục tính tổ chức,
tính kỷ luật, giáo dục đạo đức tính trung thực.
+ Phải theo dõi cử chỉ, phong cách, thái độ học sinh, đặc biệt là với học sinh
cá biệt để giáo dục hoặc điều chỉnh phong cách của mình.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 14 Bùi Văn Dzụ
+ Trong quá trình chơi, do yếu tố khách quan hay trò chơi tạo sự hứng thú
cao độ thì quản trò (GV) có thể chuyển hướng trò chơi khác với dự kiến ban đầu
một số nội dung thật linh động và khéo léo, không nên quá nguyên tắc cứng ngắt
làm mất vui, mất không khí sinh hoạt vui chơi.
+ Người quản trò (GV) phải công bằng, xử lý tình huống khách quan,
không thiên vị hay dễ dãi quá.
+ Tác phong người quản trò (GV) chuẩn mực, ngôn ngữ nói phải có văn
hóa và sư phạm, không thô thiển, phong cách vui tươi, dí dỏm, duyên dáng.
+ Hình thức xử phạt là một trò chơi nhỏ, không bắt ép quá đáng mà nên
khuyến khích động viên người bị phạt tham gia.
* Người chơi : Nên chọn một số người năng động làm nhân tố tích cực thúc
đẩy những người khác.

+ Kiềm chế những học sinh có tính hiếu thắng, kiêu ngạo nhưng không làm
ảnh hưởng tâm lý ( nhục chí ) người chơi. Biểu dương những HS trung thực, kỷ
luật, đoàn kết, chơi đẹp, thắng không kêu, bại không nản.
- Kết thúc trò chơi : Cần phải biết lúc nào ngừng trò chơi ( kinh nghiệm
quan sát ; kinh nghiệm quản trò).
+ Đảm bảo tính vừa sức cho người chơi, tạo sự luyến tiếc cho lần chơi sau.
+ Không để người chơi nhàm chán quá sức tạo sự mệt mỏi và chán chơi.
• Trò chơi tham khảo :
Tên trò chơi : Phối hợp tiếp sức với bóng
* Vật dụng chuẩn bị : + Mỗi đội chơi 01 quả bóng.
+ Sân tổ chức bằng phẳng
• Số lượng đội tham gia : Nhiều đội chơi ; Mỗi đội 5-7 em (nam,nữ )
• Thời gian : Dự kiến 5 - 7 phút .
Luật chơi :
+ Từng người một theo số thứ tự đã đeo ( hay do đội đó chọn – BTC theo
dõi ) đứng thành hàng dọc.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 15 Bùi Văn Dzụ
* Khi hiệu lệnh bắt đầu :
+ Người số 1 chuyền quả bóng ngược trên đầu ra sau cho người số 2 và
người số 2 chuyền cho những người sau tiếp cho đến người cuối cùng ( cuối
hàng ). Người cuối cùng hô to. “Đằng sau quay “, Tất cả đềàu quay và bóng lúc
này được chuyền phía dưới 2 chân … lần lượt trở về người số 1 ( cuối hàng ).
Người số1 mang bóng chạy đến nơi quy định đặt quả bóng rồi chạy đến nơi có
dây nhảy ; nhảy dây 10-15 lần liên tục (không được vấp, nếu vấp phải nhảy và
đến lại từ đầu) xong chạy về lấy bóng mang giao cho người số 2 rồi ra đứng bên
ngoài theo dõi và cổ vũ đội mình.
+ Người số 2 chuyền quả bóng ngược trên đầu ra sau cho người số 3 và
người số 3 chuyền cho những người sau tiếp cho đến người cuối cùng ( cuối
hàng ). Người cuối cùng hô to. “Đằng sau quay “, Tất cả đầu quay và bóng lúc
này được chuyền phía dưới 2 chân … lần lượt trở về người số 2 ( cuối hàng ).

+ Người số 2 hô “đằng sau quay “ rồi mang bóng chạy lên đặt vào ô qui
định. Đặt xong, chạy trở về chạm vào tay người số 3.
+ Người số 2 thực hiện trò chơi như người số 1.
+ Người số 3 thực hiện như người số 2.
+ Lần lượt như thế cho đến hết người ( nếu là cuối cùng thì mang bóng
chạy về vạch xuất phát cũng và vạch đích.
Cách tính điểm thi đua :
+ Đội về nhất 20 điểm về nhì ít hơn từ 2 – 3 điểm ; Nếu nhiều đội chơi thì
ta tính điểm bậc thang.
+ Đội nào để bóng rơi xuống đất hoặc chuyền không theo trình tự ( thảy
vượt người )1 lần ( một người ) trừ 2 điểm ; Giậm vạch xuất phát (vạch giới hạn)
trừ 1 lần 1 điểm .
+ Đội nào có người không trao bóng cho người kế tiếp ( thảy, ném từ xa)
1 lần ( một người ) trừ 1 điểm .
+ Đội nào có người chưa nhận bóng ngay điểm xuất phát tức chạy trước
(sớm ) 1 lần ( một người ) trừ 3 điểm .
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 16 Bùi Văn Dzụ



( Hình minh hoạ trò chơi)
* Tác dụng của trò chơi : Trò chơi này thực hiện nhiều động tác lưng, bụng,
chạy nhảy, phối hợp tay chân và sự khéo léo.
+ Rèn luyêïn sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo … tính tập thể.
IV- KẾT QUẢ THỰC HIỆN :
Qua việc củng cố nâng cao chất lượng phương pháp tổ chức được áp dụng
tại trường THCS Lê Quí Đôn, kết quả sau khi thực hiện và khảo sát qua thực
tiễn như sau :
Học sinh đa số tiếp thu về mục đích ý nghĩa trò chơi, hứng thú tham gia
trò chơi và thích được tổ chức các trò chơi thay các nội dung rèn luyện sức

mạnh, nhanh, bền cũng như các loại hình phù hợp với bài, tiết học môn thể dục.
Sau tiết học các em vẫn còn hứng thú.
Hỗ trợ tốt cho việc học tập văn hóa, sức khỏe và thành tích môn TDTT
được nâng cao, số học sinh tự ti, rụt rè nhút nhát giảm tối đa …
Đặc biệt, một số học sinh cá biệt do phát triển tâm sinh lý lứa tuổi được
chuyển biến tích cực. Ham thích các môn học xã hội. Tinh thần đồng đội, tập thể
được phát huy và tính tự giác, tính kỷ luật được nâng cao rõ rệt.
Bên cạnh đó, tạo tính thi đua giữa các tổ, nhóm và khối, lớp với nhau, số ít
học sinh hạn chế về sức khỏe, ít linh hoạt chưa được bạn bè đề xuất tham gia trò
chơi nhiều lần.
V- BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Qua kết quả nghiên cứu bản thân rút ra một số kinh nghiệm sau :
- Về giáo viên : Tạo sự năng động, sáng tạo và tiết dạy phong phú không bị
nhàm chán bỡi một số nội dung bài học được lặp lại kéo dài từ 6 đến 8 tiết.
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 17 Bùi Văn Dzụ
Qua họat động trò chơi, giáo viên đánh giá được tính tình của học sinh để
có phương pháp giáo dục, giúp đỡ từng cá nhân đúng hướng.
- Về học sinh : Ham thích môn học thể dục. Thể chất được nâng cao rõ rệt
(thể dục), hình thành tính tự giác, tự quản và thể hiện rõ tính tổ chức, tính kỷ
luật, sự khéo léo ( mỹ dục) và có tư duy tổ chức, tư duy chiến thuật (trí dục),
đòan kết, trung thực, không kêu căng khi chiến thắng và không nản lòng khi thua
(đức dục).
Phát hiện những nhân tố ( học sinh ) tích cực trong các lĩnh vực thành lập
các đội TDTT, đội trò chơi dân gia, trò chơi vận động tham gia hội thao, Hội
Khoẻ Phù Đổng các cấp, những học sinh có thể lực, có năng khiếu TDTT tham
gia các câu lạc bộ như bóng chuyền, bóng đá, bơi lội, bóng bàn, cầu lông … của
trường và địa phương. Được nhiều phụ huynh đồng thuận.
V
I- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 Qua kết quả nghiên cứu bản thân rút ra một số nhận xét sau :

- Có trên 90% học sinh phát huy tích cực tính tổ chức, tính kỷ luật và thực
hiện kỹ năng động tác thể dục thể thao nhanh nhạy, khéo léo độ chính xác cao.
Đa số các em ham thích tiết học thể dục, phát huy tính đòan kết gián tiếp
gây hứng thú trong việc học tập văn hóa, năng động trong phong trào. Đăït biệt,
các em thể hiện tốt tính tự quản, tính tổ chức, khắc phục về thể lực, nâng cao sức
nhanh, sức bền, phát huy ý thức tinh thần tập thể …
- Trong quá trình hình thành và phát triển sự hứng thú tham gia trò chơi ở
mỗi cá nhân đều trải qua các giai đoạn nhận thức. Sự nhận thức được lặp đi lặp
lại nhiều lần, khái quát trở thành mức độ ý thức được duy trì. Những học sinh
năng động, tích cực học tập, được bồi dưỡng và củng cố trong điều kiện thuận
lợi sẽ trở thành xu hướng cá nhân – hình thành nhân cách có định hướng.
- Giáo viên quan tâm đến vấn đề phát triển trò chơi sẽ tạo sự hứng thú cho
hoạt động phong trào giáo dục và rèn luyện thể chất, rèn luyện đạo đức, nâng
cao chất lượng học tập, tính năng động, rèn luyện phản xạ trực giác và nâng cao
kiến thức xã hội.
 Kiến nghị :
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 18 Bùi Văn Dzụ
- Cần tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ sở vật chất và kinh phí cho bộ môn
thể dục, học sinh tự tổ chức và tham gia trò chơi. Qua đó giúp các em hình thành
ý thức rèn luyện thể chất … là hành trang, bước đệm cho hoạt động xã hội, góp
phần cho đời sống, xây dựng con người mới.
- Tài liệu kiến thức, nội dung cung cấp cho học sinh phù hợp với từng giai
đoạn phát triển đất nước và đối tượng.
- Cần quan tâm đến việc tổ chức hoạt động ngoại khóa, hoạt động vui chơi
vận động của học sinh thêm vào các ngầy lễ lớn.
- Giáo viên chủ nhiệm, nhà trường thường xuyên kết hợp với các bậc cha
mẹ học sinh để tuyên truyền, thông tin và cần sự quan tâm tạo mọi điều kiện tốt
cho con em “ Chơi mà học, học mà chơi ”.
VII– TÀI LIỆU THAM KHẢO :
+ Giáo trình giảng dạy bộ môn : Trò chơi vận động của giáo viên Nguyễn

Văn Hường trường Đại học sư phạm Thể dục Thành phố Hồ Chí Minh (Trường
Cao đẳng sư phạm thể dục Trung ương 2 cũ ). Năm 2002.
+ Tâm lý Sư phạm THCS và Tâm lý lứa tuổi Trung học phổ thông của nhà
xuất bản Giáo dục năm 2001.
+ Cẩm nang công tác thanh thiếu niên dành cho cán bộ Đoàn-Hội-Đội của
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2006.
+ Giáo trình lý luận trò chơi với trẻ em – Trường Đội TP. Hồ Chí Minh
năm 2002.
+ 100 trò chơi sinh họat. Tác giả Ngô Tấùn Tạo giáo viên trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh năm 2003.
+ 126 trò vui chơi tập thể. Tác giả Tôn Thất Đông của Nhà xuất bản Trẻ
năm 2003.
+ Sách giáo khoa lớp 6,7,8,9 môn thể dục của Nhà xuất bản Giáo dục Xuất
bản : lớp 6 năm 2002 ; lớp 7 năm 2003 ; lớp 8 năm 2004 ; lớp 9 năm 2005.
+ Một số tư liệu truy cập mạng Internet.
Long Khánh, ngày 27 tháng 10 năm 2008
Người thực hiện
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 19 Bùi Văn Dzụ
Bùi Văn Dzụ
BM04-NXĐGSKKN
SỞ GIÁO DỤC -ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN
…………………………………………
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
……………………………………………………………………….
Long Khaùnh, ngaøy ………… thaùng ……… naêm 2008
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2008 – 2009
Tên sáng kiến kinh nghiệm : GIÁO DỤC TÍNH TỔ CHỨC, TÍNH KỶ LUẬT VÀ RÈN

LUYỆN THỂ CHẤT THÔNG QUA TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
Họ và tên tác giả : Bùi Văn Dzụ Tổ : Lý, Thể Dục, Nhạc-Họa
Lĩnh vực :
Quản lý giáo dục :  Phương pháp giảng dạy bộ môn : Thể dục 
Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác : ……………………………… 
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong
toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 20 Bùi Văn Dzụ
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hạch định đường lối, chính sách:
Tốt  Khá  Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ
đi vào cuộc sống : Tốt  Khá  Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng : Tốt  Khá  Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Sáng kiến kinh nghiệm Trang 21 Bùi Văn Dzụ

×