Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Vị trí của văn tự sự trong môn Ngữ văn:
Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ văn là môn học
trang bị cho học sinh những tri thức để đánh gia đúng các vấn đề văn học(bao gồm:
tác phẩm, tác giả, các quá trình văn học … )có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh
khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả
năng biết đánh giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng.
Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển
khả năng sản sinh văn bản mới ( nói và viết).
Làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp học sinh hình
thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn. Người học sinh từ tiểu học đến
trung học (kể cả vào đại học) đã và sẽ được làm văn theo ba dạng sau đây:
Dạng sáng tác văn học như: miêu tả, tường thuật, kể chuyện ( tự sự) … và một số
thể thơ quen thuộc như : thơ 5 chữ, thơ tứ tuyệt, thơ lục bát …
Dạng bài nghị luận với hai nội dung chủ yếu là nghị luận xã hội và nghị luận văn
học ( trong chương trình ở THCS là ở lớp 7, 8, 9).
Dạng văn hành chính công vụ như: đơn từ, biên bản, thông báo, báo cáo, hợp
đồng.
Đặc trưng cơ bản của nhóm thứ nhất là kích thích trí tưởng tượng phong phú, xây
dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh. Đặc trưng của nhóm thứ hai là nhằm hình
thành và phát triển tư duy lí luận với khả năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết
phục. Loại văn hành chính công vụ thì có đặc trưng là khuôn mẫu, công thức.
Trong nhà trường phổ thông, nhìn chung không đặt ra việc sáng tác văn học. Tuy
nhiên để phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS được làm quen với kiểu sáng tác, tạo
tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong quá trình học sau này.
Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách, chân thật, có
những khám phá hồn nhiên về thiên nhiên và đời sống gia đình, xã hội …
Trong chương trình Ngữ văn THCS, ở lớp 8 học sinh được học văn tự sự từ bài 1
đến bài 10 (chiếm gần 1/3 số bài trong chương trình). Tuy học sinh đã học văn tự sự
từ lớp 6 (ở THCS) nhưng vì nhiều lí do nên các em làm loại văn này vẫn chưa tốt.
Quan trọng là vậy nhưng là giáo viên dạy Ngữ văn, công tác tại trường THCS
Quỳnh Hoa, tôi thấy các em làm bài văn tự sự chưa tốt, còn mắc nhiều lỗi mà nếu
giáo viên có thể giúp học sinh khắc phục được thì các em sẽ làm tốt hơn. Những hạn
chế trong bài làm văn tự sự của các em một phần do các em, một phần do giáo viên
chưa có biện pháp phù hợp giúp các em.
Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
2. Lí do chọn đề tài:
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn
hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng
(đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu
của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách …
Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể hiện
đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của đề cũng
giúp học sinh lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được bệnh dài dòng, lan
man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống
nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến thức cơ bản
cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột nên hồ”.
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy.
Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy
rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải chú ý
đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ. Bài văn tự sự hay, hấp dẫn thì không thể
thiếu yếu tố miêu tả và yếu tố biểu cảm.
Yêu cầu là vậy nhưng trong thực tế dạy - học tôi thấy bài văn của học sinh chưa
đáp ứng được những yêu cầu đó là bao. Bài làm của các em vẫn còn hiện tượng lạc
đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong bài thường sai quy
cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết. Bài viết của các em
rất ít yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh
làm tốt bài văn tự sự. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã tìm được
cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề tích hợp có
vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện nay.
3. Thực trạng của vấn đề:
Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ giúp
các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá
trình dạy chỉ dạy văn tự sự ở những tiết học về văn tự sự, chưa tận dụng được thời
gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng
luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài.
Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, đa số các em phải lao động
giúp đỡ bố, mẹ nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham khảo, mở rộng hiểu biết.
Nhiều em gia đình nghèo không có điều kiện mua sách tham khảo cho con em. Vì
vậy chỉ có thể nắm bắt được những gì SGK cung cấp.
Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Học văn đòi hỏi viết nhiều (đọc nhiều) nhưng học sinh ở Quỳnh Hoa lại ít có điều
kiện cũng như thời gian để luyện tập nên vốn từ nghèo cũng thêm phần khó khăn cho
viết bài. Thêm vào đó, nhiều học sinh chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, về
nhà không làm bài nên khi làm bài thường vụng về, lúng túng. Khả năng kết hợp yếu
tố miêu tả và biểu cảm trong bài văn tự tự còn yếu. Nên bài văn khô khan, không sinh
động và hấp dẫn.
Trước thực trạng đó mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải tìm biện pháp giúp học sinh
nắm và làm tốt bài văn tự sự. Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn trở: “Làm sao giúp
học sinh làm tốt bài văn tự sự?”. Qua quá trình dạy học, quá trình tìm tòi tôi đã có
được những biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ
văn 8.
Sau đây tôi xin trình bày “ Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự
trong chương trình Ngữ văn 8 (tập 1) ở trường THCS Quỳnh Hoa
Những biện pháp này được áp dụng ở lớp do tôi dạy lớp 8A.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề):
Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện một bài
tập làm văn. Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi chưa kiên nhẫn, học sinh thường
không chú ý đến bước tìm hiểu đề. Vì vậy trong quá trình dạy tôi luôn hướng dẫn học
sinh thực hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước
các đề trong bài học.
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc
nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề), lấy bút chì gạch dưới những từ
cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật các yêu cầu
của đề. Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu
cầu của đề bài :
- Kiểu bài: tự sự hay miêu tả hay tường thuật hay giải thích, …
Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể … ) hay lời yêu
cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn … )
- Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định giới
hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài cũng có
thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề.
Ví dụ1 : cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu.
Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, không có kỉ niệm nào
được kể một cách đầy đủ.
Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Ví dụ 2: cho đề bài: Cô giáo của em.
Trước đề này một số học sinh kể về cô giáo của mình ở hiện tại chứ không phải là
kỉ niệm về một cô giáo mà mình tôn trọng nhất, yêu thương nhất hay một cô giáo mà
mình không bao giờ quên.
Những học sinh trung bình, yếu, kém thường hay xác định chưa đúng trọng tâm
đề bài. Nên phần này cần quan tâm và gọi các đối tượng đó trả lời . Giáo viên ra thêm
bài về nhà và kết hợp trong buổi phụ đạo.
Ví dụ 1 : Trong buổi học phụ đạo tôi ra đề bài cho học sinh làm:
Đề 1: Trong cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ, kỉ niệm
đáng nhớ nhất của em ở thời thơ ấu là gì?
Đề 2: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc của em trong thời thơ ấu.
Yêu cầu trả lời :
- Kiểu bài của mỗi đề là gì?
- Lời yêu cầu ở mỗi đề là trực tiếp hay giàn tiếp?
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (kể về một hay nhiều kỉ niệm)?
- Lưu ý: đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ ngữ quan trọng.
Làm xong gọi học sinh trình bày, học sinh khác nhận xét . Giáo viên tổng hợp nhận
xét bổ sung
* Kiểu bài:
- Đề 1 và 2 đều có kiểu bài tự sự.
- Đề 1 là đề có yêu cầu gián tiếp, đề 2 có yêu cầu trực tiếp.
* Giới hạn của đề bài: kể duy nhất một kỉ niệm, đó là kỉ niệm đáng nhớ nhất ở
thời thơ ấu.
Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một bài
văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực hiện các
yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung cơ bản(ta
gọi là Tìm hiểu đề):
- Xác dịnh kiểu bài.
- Xác định giới hạn của đề bài.
Ví dụ 2. khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3),
giáo viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước
bước tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự.
Tới tiết 11 -12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình bày
kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài.
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Học sinh trả lời :
Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học.
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp.
- Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học(chỉ trong ngày đầu
tiên mà thôi).
Đề 2.Người ấy (bạn, thầy, người thân, …)sống mãi trong lòng tôi.
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp.
- Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể là một kỉ niệm khó quên với
người đó).
Ví dụ 3: tương tự như ví dụ 2,trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu cầu
học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề.
Trong quá trình dạy - học ( nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một cách
nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập làm văn.
Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt được điểm
số cần thiết.
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản nhưng
với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào giáo viên
luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này.
2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự :
Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản. Vì vậy viết tốt đoạn văn là một trong
những điều kiện để có một bài văn hay.
Trong chương trình Ngữ văn 8, học sinh được học cách viết đoạn văn ở tiết 10 –
Xây dựng đoạn văn trong văn bản. Trên cơ sở bài này, các em đã có kiến thức về
cách xây dựng đoạn văn. Từ đó tôi thường xuyên cho học sinh luyện tập viết đoạn
văn ở trên lớp cũng như ở nhà, luyện tập nhận diện đoạn văn cũng như viết đoạn văn.
Trước hết giáo viên cho học sinh nhận diện các đoạn văn.
Ví dụ: sau khi dạy xong tiết 10 - Xây dựng đoạn văn trong văn bản, ở bước
củng cố tôi nêu yêu cầu: các em xem đoạn văn b trong bài tập 1, phần luyện tập ở
trang 26 và đoạn văn giới thiệu về Nam Cao trong phần chú thích ở trang 45 rồi xác
định các đoạn văn đó được viết theo cách nào?
Học sinh trả lời:
- Đoạn văn ở trang 26 là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở
đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì.
- Đoạn giới thiệu về Nam Cao ở trang 45 được viết theo lối song hành (từ ngữ
chủ đề là Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao.
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Học sinh trả lời được như vậy là đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên cơ sở
đó tôi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn.
Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều kiện
giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự.
Ví dụ 1: Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi
cho học sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về số phận và tính
cách của lão Hạc - người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho
HS một câu gợi ý: Lão Hạc là con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất
đáng quý.)
Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV
mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho cô cùng cả lớp nghe rồi GV nhận xét.
Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS.
Ví dụ 2: khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập cho
HS về nhà làm:
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong truyện
Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại cái chết
của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe.
Tới tiết học tiếp theo, giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận xét
trong bài viết cho các em.
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em rút
kinh nghiệm cho bài của mình.
Ví dụ 3: bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5)có nội dung
tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời gian
trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: em hãy viết một đoạn văn ngắn kể về
người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó có sử dụng từ ngữ địa phương.
Khi học sinh viết xong , giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học
sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức trình
bày. Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà chấm chữa cho học sinh.
Ví dụ 4: khi dạy xong tiết 25 – 26, Đánh nhau với cối xay gió, giáo viên yêu
cầu học sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn – ki – hô – tê
và Xan – chô Pan – xa.
Đến tiết 28, bài 7 – Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu
cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn.
Trên cơ sở đó, ở tiết 28 này học sinh viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và
biểu cảm được dễ dàng hơn. Khi học sinh luyện viết đoạn văn có thể có lỗi về câu và
chính tả do học sinh tự sắp xếp vì vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi
về câu và chính tả.
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn
văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn.Từ đó tạo cơ
sở vững chắc để viết tốt đoạn văn thuyết minh và đoạn văn nghị luận.
3. Liên kết đoạn văn trong văn bản :
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn là
một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với nhau. Liên kết
đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa liền mạch
với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Muốn vậy, phải tạo mối
quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn với nhau và sử dụng các
phương tiện liên kết phù hợp.
Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn
trong văn bản” ở tiết 16, bài 4.
Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết
đoạn văn do các em tạo ra.
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên kết
đoạn văn.
Ví dụ 1: khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản – tiết 16, bài 4,
giáo viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An – đéc – xen) ở
trang 64 sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong
văn bản đó.
Tới tiết 18, bài 5 – Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo viên
mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối như:
- Em quẹt que diêm thứ hai,…
- Em quẹt que diêm thứ ba.
- Em quẹt que diêm nữa vào tường, …
- Thế là …
- Sáng hôm sau,
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy …
Ví dụ 2: Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết
trong văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió”( Xéc – van – téc), ở văn bản này thì dễ
nhận biết hơn.
Học sinh có thể tìm dược các phương tiện liên kết:
Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, …
Đêm hôm ấy, …
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí
thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và yếu
là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu cho
các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích lệ tinh
thần cho các em.
* Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các em về
nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh).
Ví dụ 1: Văn bản Đánh nhau với cối xay gió (Xéc - van - téc) có hai nhân vật
Đôn - ki - hô - tê và Xan - chô Pan - xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài học
đó giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn có quan
hệ đối lập).Trong đó có các phương tiện liên kết.
Ví dụ 2: học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh biết
rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt
Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn nói về
số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão hạc và chị Dậu).
4. Yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự :
Việc sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm là rất cần thiết trong văn tự sự vì nhờ các
yếu tố đó bài văn hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, sâu sắc hơn.
Phần này tương đối khó nên học sinh tìm hiểu phát hiện các yếu tố miêu tả, biẻu cảm
từ các văn bản mẫu rồi mới hướng dẫn học sinh viết đoạn văn tự sự đưa các yếu tố đó
vào. Từ đó hướng dẫn viết cả bài. Đối với học sinh trung bình, yếu cho luyện viết
đoạn văn nhiếu hơn.
Giáo viên cần hướng dẫn cho HS thật cụ thể cách đưa yếu tố miêu tả và biểu cảm vào
văn tự sự:
- Yếu tố miêu tả thường được thể hiện thông qua các từ ngữ, hình ảnh có sức gợi
lớn cụ thể là từ láy tượng hình, từ láy tượng thanh; qua các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa …ví dụ viết bài về “người bạn sống mãi trong lòng em” có thể
miêu tả đặc điểm nổi bật về hình dáng hoặc miêu tả vài nét về cử chỉ , tính cách,
trạng thái tâm lý.v.v của bạn.
Qua các hình ảnh miêu tả đó để làm cho cốt truyện hay hơn, hấp dẫn hơn; nhân vật
hiện lên cụ thể hơn, sinh động và gây ấn tượng hơn.
- Yếu tố biểu cảm thường được thể hiện qua các từ ngữ có giá trị biểu cảm như
thán từ, những câu cảm thán, những câu hỏi tu từ. Vì thế khi đưa yếu tố biểu cảm vào
văn bản tự sự thì phải sử dụng các từ ngữ và các kiểu câu đó để thể hiện suy nghĩ,
tình cảm, cảm xúc.
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
Giáo viên ra thêm bài tập viết đoạn văn ( đối với học sinh yếu, trung bình), viết
bài văn ( đối với học sinh khá giỏi) có sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm. GV thu
bài về nhà chấm rồi kết hợp trong các buổi học bồi dưỡng và phụ đạo để trả bài, nhận
xét thật kĩ cho học sinh. Học sinh tự sửa chữa bài của mình. Từ đó các em rút được
kinh nghiệm để làm bài tốt hơn.
Rèn luyện các kĩ năng đó cho học sinh để làm tốt bài văn tự sự cũng cần nhiều
thời gian mà thời lượng trong chương trình ngữ văn 8 phần văn tự sự chỉ có 13 tiết
thời gian không nhiều. Để khắc phục được khó khăn đó tôi đã cố gắng tích hợp trong
phần đọc hiểu văn bản những gì có thể tích hợp được. Ngoài ra tôi còn ra thêm bài
tập để các em luyện ở nhà và kết hợp trong các buổi phụ đạo và bồi dưỡng ( môn Ngữ
văn) để hướng dẫn và cho các em luyện tập thực hành.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Một số lưu ý:
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng
phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn cũng
vậy, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của
giáo viên.
Trong quá trình dạy, giáo viên giúp học sinh nhớ lại những kiến thức cũ đã
học về văn tự sự đã học ở lớp 6 bắng các tình huống có vấn đề trong các tiết lí
thuyết.
Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên thực sự tâm
huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều. Do học sinh phải thực hiện
phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà đê chấm, sửa
cho các em.
Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh làm
bài, chấm chữa bài kịp thòi . Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến
khích, tuyên dương học sinh đúng lúc, kịp thời. Nếu giáo viên làm tốt điều đó thì
các em sẽ rất tự giác và có hứng thú làm bài tập ở nhà cũng như trên lớp.
Đối với những học sinh học yếu giáo viên phải tìm hiểu, gần gũi, động viên,
giúp đỡ để các em tự tin và cố gắng.
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
2. Kết quả:
Để đánh giá kết quả đã đạt được, tôi dựa vào bài viết số 1 và bài tập làm văn viết
số 2 – văn tự sự .
Kết quả khi chưa áp dụng( năm học 2008-2009) - Lớp 8A
Bài viết
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
1
2
0
1/32
0
3,1
4/32
5/32
12,5
15,6
19/32
19/32
59,4
59,4
9/32
7/32
28,1
21,9
Kết quả khi áp dụng(năm học 2009-2010)- Lớp 8A
Bài viết
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
1
2
1/33
2/33
3
6,1
7/33
10/33
21,2
30,3
19/33
18/33
57,6
54,5
6
3/33
18,2
9,1
Qua so sánh hai kết quả này cho thấy việc vận dụng các biện pháp trên sẽ giúp học
sinh học tập tốt hơn và có kết quả cao hơn.
3. Lời kết:
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương
trình Ngữ văn 8. Đó cũng là những gì tôi tích luỹ được trong quá trình dạy văn tự sự
trong thời gian qua.
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu,trao đổi với đồng nghiệp, thông qua tiết dự
giờ, tham khảo tài liệu … tôi đã tích luỹ được cho mình một số kinh nghiệm, nó được
tôi áp dụng vào bài dạy khi lên lớp tại trường THCS quỳnh Hoa.
Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian chật lượng
bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, giảm được số bài không đạt yêu cầu, và
số bài tốt cũng tăng lên.
Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao đổi với
đồng nghiệp, có thể vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong được tiếp thu ý kiến đóng góp
của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của Phòng giáo dục -
đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng
dạy ở bộ môn.
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, người giáo viên
phải luôn không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ nhận thức và trình độ
chuyện môn. Sự sáng tạo là yêu cầu cần phải có của người giáo viên khi làm công tác
dạy học. Trên cơ sở đó giúp học sinh của mình tiếp thu bài, hình thành kĩ năng, kĩ xảo
tốt hơn. Tuy nhiên khi áp dụng những biện pháp nào đó thì giáo viên phải tìm hiểu kĩ
những hạn chế của học sinh mình, phải quan tâm, gần gủi, giúp học sinh tự tin trong
học tập. động viên, khuyến khích kịp thời. Nhờ vậy mà học sinh lĩnh hội tri thức và
làm bài tốt hơn.
Để học sinh viết tốt bài văn tự sự, tôi đã rút ra một vài biện pháp sau:
-Trước hết,hướng dẫn học sinh tìm hiểu và xác định đề bằng cách đưa ra nhiều dạng
đề ( trực tiếp và gián tiếp)
- Chú ý rèn luyện cho học sinh biết trình bày đoạn văn,liên kết đoạn văn và phải biết
đưa yếu tố miêu tả và biểu cảm vào văn bản tự sự. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu,
rèn luyện các phần này tôi đều hướng dẫn HS tìm hiểu từ các đoạn văn, bài văn mẫu,
các văn bản tự sự trong chương trình đã học. Học sinh đã hiểu rồi mới cho các em
thực hành càng nhiều càng tốt. Ra bài tập phải phù hợp với từng đối tượng HS. Đặc
biệt khi ra bài tập cho HS thì phải chấm chữa . Chấm chữa bằng nhiều hình thức: lúc
thì thu bài về nhà chấm. Khi thì gọi HS đọc, cả lớp nghe rồi nhận xét bài của bạn. Để
từ đó các em làm tốt hơn.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương
trình ngữ văn 8 mà tôi đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy. Có thể những biện
pháp này chưa được tối ưu. tôi rất mong sự góp ý và bổ sung của hội đồng khoa học
nhà trường
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này.
HS, ngày 16 tháng 4 năm 2009
Người thực hiện
Đào Xuân Anh
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Anh Trường THCS
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Vị trí của văn tự sự trong môn Ngữ văn.
2. Lí do chọn đế tài.
3. Thực trạng vấn đề.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề).
2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự.
3. Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự.
4. Yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Một số lưu ý
2. Kết quả
3. Lời kết
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trang 12