Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

TÀI LIỆU TẬP HUẤN NGHIỆP VỤ BÁO CÁO VIÊN NĂM 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.2 KB, 40 trang )

TÀI LIỆU TẬP HUẤN NGHIỆP VỤ BÁO CÁO VIÊN NĂM 2009
Cập nhật ngày: 21/10/11
Để phục vụ việc học tập cũng như trang bị cẩm nang hoạt động cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền miệng của tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
tổ chức biên soạn và giới thiệu tài liệu “Tập huấn nghiệp vụ báo cáo
viên, tuyên truyền miệng”.
Thực hiện chương trình công tác giáo dục lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Căn cứ Chỉ thị số 33 - CT/TU, ngày 28 tháng 02 năm
2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ “về việc tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới”. Nhằm nâng cao nhận thức, hiểu
biết cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở về vai trò, tầm quan trọng của
công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng. Trang bị những kiến thức, kỹ năng, nghiệp
vụ cơ bản về công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên.
Để phục vụ việc học tập cũng như trang bị cẩm nang hoạt động cho đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền miệng của tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tổ chức biên soạn và giới
thiệu tài liệu “Tập huấn nghiệp vụ báo cáo viên, tuyên truyền miệng”. Với các nội dung
sau:
- Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Ban Bí thư Trung ương
“về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong
tình hình mới”.
- Chỉ thị số 33-CT/TU, ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
“về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong
tình hình mới” .
- Bài 1: Tuyên truyền và công tác tuyên truyền miệng trong công tác tư tưởng.
- Bài 2: Nội dung và phương pháp chuẩn bị đề cương buổi tuyên truyền miệng.
- Bài 3: Phương pháp trình bày bài tuyên truyền miệng.
- Bài 4: Công tác nghiên cứu, nắm bắt tư tưởng và dư luận xã hội.
Mong rằng những nội dung của tài liệu sẽ giúp các đồng chí thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng; góp phần nâng cao hiệu quả chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của Đảng bộ tỉnh.


Xin trân trọng giới thiệu tài liệu tới các đồng chí!

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ



STT
NỘI DUNG TRANG
1
- Chỉ thị số 33-CT/TU, ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ “về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
3
quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới” .
2
- Chỉ thị số 33-CT/TU, ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ “về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới” .
7
3
- Bài 1: Tuyên truyền và công tác tuyên truyền miệng trong
công tác tư tưởng.
11
4
- Bài 2: Nội dung và phương pháp chuẩn bị đề cương buổi
tuyên truyền miệng.
22
5 - Bài 3: Phương pháp trình bày bài tuyên truyền miệng. 34
6
- Bài 4: Công tác nghiên cứu, nắm bắt tư tưởng và dư luận xã
hội.

46





BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
*
Số: 17- CT/TW
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2007

CHỈ THỊ
CỦA BAN BÍ THƯ
về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới

Công tác tuyên truyền miệng đã đi vào nền nếp, bám sát cơ sở, có cố gắng đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động để phù hợp với tình hình thực tiễn và trình độ
nhận thức, yêu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân ở mỗi đơn vị, thực sự là một
trong những kênh quan trọng, có hiệu quả cao của công tác tư tưởng - văn hoá. Đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được phát triển cả về số lượng và chất lượng, có
nhiều hoạt động phong phú, tích cực, làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực
thực hiện công tác tuyên truyền miệng của Đảng.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn những hạn chế và
khuyết điểm. Một số cấp uỷ và ban tuyên giáo các cấp chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa,
tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng; chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tuyên truyền miệng và việc xây dựng lực lượng, đổi mới nội dung,

phương thức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Không ít cán bộ
lãnh đạo các cấp chưa tích cực tham gia công tác tuyên truyền miệng với vai trò báo
cáo viên, tuyên truyền viên. Nhiều đảng viên chưa chủ động tham gia tuyên truyền các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng.
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng còn hạn chế, chưa đáp ứng tốt nhu cầu
của cán bộ, đảng viên, nhân dân có trình độ ngày càng cao và có nhiều nguồn thông
tin; tính thuyết phục, tính hấp dẫn chưa cao, gần đây có biểu hiện né tránh những vấn
đề bức xúc mà dư luận quan tâm. Phương thức hoạt động còn nặng về tuyên truyền
một chiều từ trên xuống, ít chú trọng trao đổi, đối thoại trực tiếp với cán bộ, đảng viên
và nhân dân.
Lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên đông nhưng chưa mạnh, nhiều vùng,
lĩnh vực còn thiếu và yếu; chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức giải đáp có sức
thuyết phục những vướng mắc do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Các chế độ, chính sách,
điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính cho công tác tuyên truyền miệng và
hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên đã lạc hậu nhưng chậm được khắc
phục.
Để đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời
kỳ mới, thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) “Về công
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ
đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền miệng, phát huy cao độ các ưu thế của tuyên truyền miệng của
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên để cùng với các kênh thông tin, tuyên truyền
khác tạo ra sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng; cụ thể,
cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1- Tiếp tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền
miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, xác định đây là một
trong những kênh thông tin quan trọng nhất, trực tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, giáo dục, quán triệt các quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; định hướng tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và

quốc tế; góp phần tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội,
củng cố niềm tin, cổ vũ phong trào cách mạng. Đồng thời, đây là một trong những vũ
khí sắc bén, kịp tthời đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch, phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động. Tuyên truyền
miệng và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một mắt khâu quan trọng, trực tiếp
nối liền Đảng, Nhà nước với nhân dân, Trung ương với địa phương và cơ sở để vừa
đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với
nhân dân, vừa nắm bắt, phản ánh trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư, nhu cầu, lợi
ích, nguyện vọng của nhân dân đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước; gắn truyền đạt với
đối thoại, trao đổi, truyền tải trực tiếp những thông tin nội bộ cần thiết phục vụ công
tác tư tưởng đối với tất cả các đối tượng ở mọi hoàn cảnh, điều kiện một cách linh
hoạt.
2- Công tác tuyên truyền miệng là nhiệm vụ của toàn Đảng, vì vậy tất cả cấp uỷ
các cấp từ Trung ương đến cơ sở, các đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh vực đều phải
có trách nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng, trực tiếp tham gia tuyên truyền
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kịp thời thông
tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân ở nơi công tác và cư trú
về các vấn đề quan trọng trong nước và trên thế giới, coi đó là một tiêu chuẩn để đánh
giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng công tác của các cấp uỷ, tính tiên
phong, gương mẫu và phẩm chất chính trị của mỗi đảng viên.
3- Các cấp uỷ đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lãnh
đạo xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên của ngành, cấp và đơn vị mình, phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên của ngành, ưu thế của công tác tuyên truyền miệng trên mặt trận tư tưởng
- văn hoá. Tất cả các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đều phải có lực lượng
báo cáo viên, tuyên truyền viên.
4- Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động
của đội ngũ báo cáo viên từ Trung ương đến các tổ chức cơ sở đảng, việc đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ báo
cáo viên, kết hợp hài hoà giữa đội ngũ báo cáo viên lâu năm, có kinh nghiệm với đội

ngũ cán bộ trẻ, kế cận, từng bước nâng cao trình độ chuyên nghiệp của báo cáo viên
ở tỉnh, thành phố và Trung ương; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động tuyên
truyền miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên theo hướng đáp
ứng kịp thời, nhanh nhạy nhu cầu và phù hợp với trình độ của cán bộ, đảng viên và
nhân dân, nâng cao tính định hướng và sức thuyết phục của hoạt động tuyên truyền
miệng.
5- Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ban Tuyên
giáo Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng, bổ sung chế độ,
chính sách và bảo đảm các phương tiện hoạt động cho báo cáo viên các cấp phù hợp
với tình hình mới và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện.
6- Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương
chỉ đạo, hướng dẫn việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ
chế hoạt động của Trung tâm Thông tin công tác Tuyên giáo các cấp để nâng cao tính
tích cực, năng động, hướng về cơ sở, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm
này.
7- Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực
hiện Chỉ thị này và định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ./.


T/M BAN BÍ THƯ

(Đã ký)



Trương Tấn Sang
CHỈ THỊ

CỦA BAN THƯỜNG VỤ

Về việc tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới

Trong những năm qua, nhất là trong 4 năm thành lập tỉnh, thực hiện
Chỉ thị số 14 - CT/TW, ngày 03/8/1977 của Ban Bí thư (khoá IV) "Về việc tổ
chức đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên của Đảng"; Thông báo số 71
- TB/TW, ngày 07 tháng 6 năm 1997 của Thường vụ Bộ Chính trị (khoá VIII)
"Về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền miệng"; Tỉnh
uỷ, cấp uỷ các cấp trong Đảng bộ tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công
tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên, nên công tác tuyên truyền miệng trong tỉnh cơ bản đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ công tác tư tưởng trong từng thời kỳ. Qua đó đã góp phần tăng
cường sự gắn bó, thống nhất, đồng thuận trong toàn Đảng bộ; cán bộ, chiến
sỹ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Công tác tuyên truyền miệng đã bám sát cơ sở, nội dung và phương thức hoạt
động đã có những cố gắng đổi mới để phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn, yêu
cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Đã trở thành kênh
thông tin quan trọng, mang lại hiệu quả cho công tác tư tưởng - văn hoá của Đảng bộ
tỉnh. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của tỉnh luôn được củng cố và phát triển
cả về số lượng và chất lượng; các hoạt động tuyên truyền miệng phong phú về nội
dung và hình thức, tích cực làm tốt vai trò công tác tuyên truyền miệng của Đảng từ
tỉnh đến cơ sở.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác tuyên truyền
miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp của Đảng bộ
còn những hạn chế, khuyết điểm. Một số cấp uỷ và ban tuyên giáo các huyện uỷ, thị
uỷ, đảng uỷ trực thuộc tỉnh, đặc biệt là cấp uỷ, ban tuyên giáo các xã, phường, thị trấn
chưa nhận thức đầy đủ, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng;
chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng và việc xây
dựng lực lượng, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên. Không ít cán bộ lãnh đạo các cấp chưa tích cực tham gia công tác

tuyên truyền miệng với vai trò báo cáo viên, tuyên truyền viên, đặc biệt ở cấp xã,
phường. Nhiều bí thư chi bộ, đảng viên chưa thực sự quan tâm đến công tác tuyên
truyền miệng hoặc chưa chủ động tham gia tuyên truyền các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được
nhu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, tính thuyết phục, tính hấp
dẫn chưa cao; phương thức hoạt động còn nặng về tuyên truyền một chiều từ trên
xuống, ít chú trọng trao đổi, đối thoại trực tiếp với cán bộ, đảng viên và đồng bào các
dân tộc.
Lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở tuy số lượng đông
nhưng chưa mạnh, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; một số lĩnh vực còn
thiếu và yếu. Chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đủ năng lực để giải đáp một cách
thuyết phục những vướng mắc do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Các chế độ, chính sách,
điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính phục vụ công tác tuyên truyền miệng
và hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu hoặc đã lạc hậu nhưng
chậm được khắc phục.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong thời kỳ mới, thực hiện
Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá X) "Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới"; Chỉ thị
số 17 - CT/TW, ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Ban Bí thư "về tiếp tục đổi mới và
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới", Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp uỷ Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ
tỉnh cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1- Hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là
một mắt khâu quan trọng nối liền Đảng, Nhà nước với nhân dân; Trung ương với tỉnh
và cơ sở. Đây là hoạt động gắn truyền đạt với đối thoại, trao đổi, vừa đưa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân
dân, vừa nắm bắt, phản ánh trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, nhu
cầu, lợi ích của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với lãnh đạo Đảng, chính quyền
các cấp; truyền tải trực tiếp, linh hoạt những thông tin nội bộ cần thiết phục vụ công

tác tư tưởng tới tất cả các đối tượng ở mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện. Vì vậy cần tiếp
tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Xác định đây là một trong những
kênh thông tin quan trọng nhất của Đảng bộ tỉnh, trực tiếp truyền bá sâu rộng nhất chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, giáo dục, quán triệt các quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; định hướng tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trước các vấn đề thời sự quan trọng
trong tỉnh, trong nước và quốc tế; góp phần tích cực để tạo sự thống nhất tư tưởng
trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ phong trào
cách mạng. Đồng thời, hoạt động tuyên truyền miệng phải trở thành một trong những
vũ khí sắc bén, kịp thời đấu tranh chống mọi âm mưu "Diễn biến hoà bình" của các thế
lực thù địch; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động, đi ngược
với chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2- Công tác tuyên truyền miệng là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng bộ, vì vậy
tất cả cấp uỷ các cấp từ tỉnh đến cơ sở, các đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh vực đều
phải có trách nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng; tích cực trực tiếp tham gia
tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kịp
thời thông tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc ở
nơi công tác và cư trú về các vấn đề quan trọng trong tỉnh, trong nước và trên thế giới.
Coi đó là tiêu chuẩn để đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng công
tác của cấp uỷ, tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất chính trị của mỗi đảng viên.
3- Các cấp uỷ Đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lãnh
đạo xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên của ngành, cấp và đơn vị mình; phát huy vai trò, ưu thế của công tác tuyên truyền
miệng trên mặt trận tư tưởng - văn hoá. Tất cả các tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở đều
phải có lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên.
4- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên từ tỉnh đến các tổ chức cơ sở đảng; việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên; kết hợp hài hoà giữa đội ngũ lâu năm có kinh nghiệm với đội ngũ

cán bộ trẻ, kế cận, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của báo cáo
viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở. Đổi mới mạnh mẽ phương thức, phương
pháp hoạt động tuyên truyền miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên theo hướng nhanh, nhạy, đáp ứng kịp thời nhu cầu và phù hợp với trình độ nhận
thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; nâng cao tính định
hướng và sức thuyết phục của hoạt động tuyên truyền miệng.
5- Văn phòng Tỉnh uỷ chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
và các cơ quan liên quan nghiên cứu các quy định của Trung ương để bảo đảm chế
độ, chính sách và bảo đảm các phương tiện hoạt động cho báo cáo viên từ tỉnh đến cơ
sở phù hợp với điều kiện, tình hình mới và hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện.
6- Ban Tổ chức Tỉnh uỷ chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ chỉ đạo,
kiện toàn tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của Trung tâm Thông tin công
tác Tuyên giáo thuộc Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, cán bộ chuyên trách theo dõi hoạt động
tuyên truyền của Ban Tuyên giáo các huyện, thị, đảng uỷ trực thuộc tỉnh để nâng cao
tính tích cực, năng động, hướng về cơ sở, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung
tâm và đội ngũ cán bộ chuyên trách về lĩnh vực này.
7- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
Chỉ thị này và định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ./.

T/M BAN THƯỜNG VỤ
PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC


(Đã ký)


Nguyễn Khắc Chử
BÀI 1


TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VÀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
*****
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1- Khái niệm công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng
nhằm xây dựng, xác lập, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, định
hướng giá trị, tạo niềm tin và thúc đẩy quần chúng đi tới hành động vì lợi ích chung
của mình.
Công tác tư tưởng của Đảng cộng sản là hoạt động nhằm phát triển và hoàn
thiện chủ nghĩa Mác-Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong quần chúng nhân
dân, cổ vũ, động viên quảng đại quần chúng nhân dân tự giác tham gia vào cuộc đấu
tranh cải biến xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới vì lợi ích của đại đa số quần
chúng nhân dân.
2- Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng
* Công tác tư tưởng bao gồm 3 bộ phận hợp thành:
a. Công tác lý luận là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng hướng
vào việc nghiên cứu, phát triển sáng tạo hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo cách mạng
- giai cấp công nhân, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cách mạng nhằm xây dựng hệ
thống quan điểm lý luận và cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách,
các quyết định của Đảng và Nhà nước, đấu tranh, phê phán các trào lưu tư tưởng sai
trái, thù địch.
b. Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác
tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược trong quần
chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể tư
tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo
thế giới quan và niềm tin đó.
c. Công tác cổ động là sự tác động của chủ thể vào tư tưởng, tình cảm của đối
tượng thông qua việc giải thích một việc cụ thể, thiết thực nhằm tạo nên một ấn tượng
mạnh ở đối tượng, kích thích và thúc đẩy họ hăng hái hành động thực hiện công việc

đó.
* Quan hệ giữa 3 bộ phận của công tác tư tưởng:
Công tác lý luận được coi là khâu trọng yếu hành đầu của công tác tư tưởng. Nó
quyết định phương hướng, nội dung của công tác tuyên truyền và cổ động và là cơ sở,
nền tảng của công tác tư tưởng.
Công tác tuyên truyền nối tiếp công tác lý luận, làm cho lý luận có sức sống
mạnh mẽ, thể hịên sinh động trong thực tiễn.
Cổ động là khâu cuối cùng quyết định việc chuyển hóa lý luận đã được nhận thức,
niềm tin đã được xây dựng và củng cố thành hành động cách mạng.
II- TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VÀ NGHỆ THUẬT PHÁT BIỂU MIỆNG
1-Tuyên truyền miệng và các loại hình tuyên truyền miệng
1.1. Tuyên truyền miệng
a.Khái niệm tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền được tiến hành bằng lời nói
trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực
hành động của người nghe.
Khái niệm tuyên truyền miệng trong công tác tư tưởng được hiểu ở nhiều
phương diện khác nhau do cách tiếp cận khác nhau. Có lúc tuyên truyền miệng được
hiểu như một bộ phận của công tác tư tưởng. Có lúc tuyên truyền miệng lại được hiểu
như một hình thức tuyên truyền. Trong chương này, tuyên truyền miệng và cùng với
nó là hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được tiếp cận như là một
kênh, một phương tiện của công tác tư tưởng.
b. Vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng
- Vị trí: Tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truỳên
viên là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất của công tác tư tưởng; là công
cụ quan trọng hàng đầu nhằm tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách, truyền
bá những quan điểm của Đảng, đưa tiếng nói của Đảng đến quần chúng nhân dân.
- Vai trò:
+ Cùng với các công cụ, phương tiện công tác tư tưởng khác, tuyên truyền
miệng góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân

về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tinh hoa văn hóa dân tộc và
nhân loại.
+ Tuyên truyền miệng là kênh thông tin chủ yếu và chính thống nhằm giáo dục phổ
biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước;
thông báo kịp thời và có định hướng các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế,
vấn đề nóng bỏng mà dư luận quan tâm.
+ Thông qua kênh truyền miệng và hoạt động của đội ngũ bào cáo viên mà một
mặt, thông tin đến được với quần chúng nhân dân, mặt khác nhờ thông tin phản hồi có
thể nắm bắt được nhận thức và thái độ của nhân dân đối với chủ trương, đường lối,
chính sách, nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích… của quần chúng.
+ Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta.
+ Tuyên truyền miệng có khả năng đưa được những thông tin nội bộ, những
thông tin mà về lý do nào đó không thể đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng
được.
c. Những ưu thế của tuyên truyền miệng
- Ưu thế của ngôn ngữ nói
So với các phương tiện chuyển tải thông tin khác, ngôn ngữ nói có ưu thế là nó
mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội.
Lời nói có ưu thế là sử dụng linh hoạt, hiệu quả thông tin cao. Lời nói có thể sử
dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện.
Trong tuyên truyền miệng, cán bộ tuyên truyền có thể sử dụng các thuật ngữ,
thành ngữ quen thuộc với đối tượng để biểu đạt một cách ngắn gọn, chính xác, dễ
hiểu về vấn đề, nói cách khác là có thể trình bày tóm tắt, cô đọng được về sự vật, hiện
tượng mà không cần phải nói dài. Đồng thời có thể sử dụng châm ngôn, cách ngôn, từ
đồng nghĩa, nghịch nghĩa và các thủ thuật tu từ để làm cho lời nói sinh động, hấp dẫn,
thu hút người nghe.
Nhờ khai thác, vận dụng sức mạnh truyền cảm của lời nói - một ưu thế riêng mà
không một phương tiện thông tin tuyên truyền nào có được - tuyên truyền miệng có
thể tác động mạnh mẽ vào tình cảm của con người, khơi dậy tính tích cực nhận thức

của đối tượng, thúc đẩy quá trình hình thành niềm tin và cổ vũ hành động tự giác của
công chúng.
- Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ
Trong tuyên truyền miệng, ngoài việc sử dụng phương tiện lời nói để chuyển tải
thông tin, cán bộ tuyên truyền có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ như tư thế, cử
chỉ, điệu bộ, diện mạo… làm phương tiện biểu đạt thông tin và sắc thái tình cảm.
Cử chỉ, điệu bộ là một trong số các yếu tố bổ sung cho lời nói, làm cho đối tượng
hiểu rõ hơn ý nghĩa, sắc thái của lời nói.
Có thể nói, tư thế, cử chỉ điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, nụ cười… nghĩa là tất cả các
yếu tố phi lời nói có ảnh hưởng lớn đến quá trình tuyên truyền miệng.
- Ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp
Khác với giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, sự giao tiếp trực tiếp
và sinh động của kênh tuyên truyền miệng dễ tạo cho người nghe cảm giác gần gũi,
thân mật.
Một ưu thế không kém phần quan trọng của giao tiếp trực tiếp là nói đúng đối
tượng.
Giao tiếp trực tiếp tạo điều kiện cho cán bộ tuyên truyền linh hoạt vận dụng cách
nói, trong những tình huống khác nhau, sử dụng cử chỉ, điệu bộ, điều chỉnh âm thanh
phù hợp với đối tượng, với hoàn cảnh.
Giao tiếp trực tiếp còn cho phép chuyển từ độc thoại sang đối thoại.
Tóm lại, giao tiếp trực tiếp tạo cho cán bộ tuyên truyền cũng như người nghe
nhiều ưu thế mà người phát biểu trên vô tuyến truyền hình, phát thanh, truyền thanh
và khán thính giả của họ không thể có được.
2- Nghệ thuật phát biểu miệng
Theo E.A Nôgin, nghệ thuật phát biểu miệng là khả năng vận dụng thành thạo,
sáng tạo một tập hợp những thao tác chuẩn bị và tiến hành phát biểu trước công
chúng nhằm tạo mục đích thông tin kiến thức, thuyết phục, cảm hóa, tạo ra niềm tin và
thôi thúc hành động của người nghe
1.
Ngoài khái niệm phát biểu miệng trên các sách báo và trong thực tế chúng ta còn

bắt gặp một số khái niệm gần nghĩa có liên quan như: hùng biện, tuyên truyền miệng,
truyền thông bằng lời nói trực tiếp.
a. Các thể loại phát biểu miệng
- Độc thoại là loại hình phát biểu miệng mà người nói tác động liên tục đến
người nghe bằng lời.
Độc thoại bao gồm các loại hình sau:
+ Bài giảng
+ Báo cáo chuyên đề
+ Thông tin chính trị
+ Tổng thuật các sự kiện
+ Kể chuyện
+ Báo cáo tổng kết
+ Bài nói chuyện chính trị
+ Phát biểu tại các cuộc mít tinh (diễn văn)
+ Giới thiệu nghị quyết
- Đối thoại là nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người khác nhau.
Đối thoại có các loại hình cơ bản sau:
+ Tọa đàm
+ Tranh luận
+ Hỏi - đáp
Từ những quan niệm trên về độc thoại và đối thoại và về các hình thức khác
nhau của đối thoại, có thể rút ra ý nghĩa thực tiễn là:
- Đối thoại có thể chuyển hóa thành một trong các hình thức độc thoại nếu
“người đối thoại im lặng” trong cuộc thoại tham gia đối thoại.
- Trong đối thoại, các vai thoại (người nói - người nghe, chủ thể - đối tượng)
chuyển hóa lẫn nhau. Chủ thể đối thoại không chỉ là một ngừơi. Có thể là một nhóm
người này đối thoại với nhóm người kia một cách có tổ chức dưới sự điều khiển của
người có trách nhiệm.
Thể loại phát biểu miệng rất đa dạng, phong phú. Trong thực tế cần căn cứ vào
đặc điểm đối tượng, nội dung để lựa chọn thể loại phát biểu miệng phù hợp. Đồng thời

có thể kết hợp nhiều thể loại với nhau trong một buổi phát biểu để đạt được hiệu quả
cao nhất.
III- CHUẨN BỊ BÀI PHÁT BIỂU MIỆNG
Nghệ thuật phát biểu miệng là sự vận dụng tổng hợp các thao tác chuẩn bị và
tiến hành phát biểu trước công chúng nhằm mục đích thông tin kiến thức, thuyết phục,
cảm hóa, tạo ra niềm tin thôi thúc hành động của người nghe.
Để chuẩn bị bài phát biểu và tiến hành phát biểu trước công chúng, cán bộ tuyên
truyền phải thực hiện những thao tác nào? Có thể hình dung các thao tác đó qua sơ
đồ sau:
Chuẩn bị phát biểu miệng Tiến hành phát biểu miệng
(Giai đoạn trước khi giao tiếp) (Giai đoạn giao tiếp)
Nghiên cứu đặc thù đối tượng
Tập phát biểu
Phát biểu
Xác định mục đích, nội dung
Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu Trả lời câu hỏi
Lập đề cương phát biểu
Thảo luận, tranh luận
Lập chọn ngôn ngữ, văn phong

1- Nghiên cứu về đối tượng
a. Sự cần thiết phải nghiên cứu đối tượng
Trong tuyên truyền, đối tượng quy định việc xác định nội dung, lựa chọn phương
pháp, phương tiện tác đến họ. Đối với những đối tượng khác nhau, nội dung, phương
pháp tuyên truyền phải khác nhau. Vì vậy nghiên cứu về đối tượng là công việc đầu tiên
mà cán bộ tuyên truyền phải tiến hành.
b- Nội dung nghiên cứu đối tượng
- Nghiên cứu đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu: các đặc điểm về thành phần
xã hội - giai cấp, nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác,… của đối tượng.
- Nghiên cứu các đặc điểm về tư tưởng và tâm lý - xã hội: hệ thống các quan

điểm, chính kiến, động cơ, khuôn mẫu tư duy, tâm trạng và trạng thái thể chất… của
họ.
- Nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu thông tin; thái độ của người nghe đối với
nguồn thông tin và nội dung thông tin; con đường, cách thức thỏa mãn nhu cầu thông
tin của đối tượng.
Trên cơ sở nghiên cứu về các đặc điểm này mà xác định mục đích, nội dung,
phương pháp phát biểu phù hợp.
2- Xác định mục đích, nội dung bài phát biểu
a. Mục đích bài phát biểu
Hoạt động tuyên truyền có mục đích:
- Thông tin, cung cấp kiến thức.
- Hình thành, củng cố niềm tin.
- Cổ vũ tính tích cực xã hội của người nghe.
Xác định mục đích có ý nghĩa định hướng đối với nội dung của bài phát biểu.
b- Xác định nội dung phát biểu miệng
Khi lựa chọn nội dung bài phát biểu miệng, cần chọn những vấn đề mang các
đặc trưng sau:
Một là, phải mang đến cho người nghe những thông tin mới.
Hai là, phải thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông tin của một loại công chúng cụ
thể.
Ba là, phải mang tính thời sự, tính cấp thiết, phản ánh những vấn đề nóng bỏng
của cuộc sống.
Bốn là, phải đảm bảo tính tư tưởng và tính chiến đấu.
Cán bộ tuyên truyền có thể căn cứ vào kế hoạch đề tài tuyên truyền của cấp ủy
xây dựng hoặc cơ quan tuyên truyền, giáo dục đặt ra hoặc bốn đặc trưng để xây dựng,
lựa chọn nội dung bài phát biểu tuyên truyền miệng.
3- Lựa chọn, nghiên cứu và xử lý tài liệu
a. Chọn nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu quan trọng nhất mà cán bộ tuyên truyền thường xuyên sử dụng
là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện

của Đảng và Nhà nước.
- Các loại từ điển, số liệu thống kê chính thức là nguồn tài liệu chủ yếu để tra
cứu các khái niệm, khai thác số liệu cho bài nói.
- Các sách báo chuyên khảo phù hợp với nội dung tuyên truyền cũng là một
nguồn tài liệu.
- Các báo, tạp chí chính trị - xã hội, tạp chí chuyên ngành cũng là một nguồn tài
liệu.
- Sổ tay tuyên truyền, sổ tay báo cáo viên là những tài liệu hướng dẫn nội dung,
nghiệp vụ tuyên truyền rất thiết thực và bổ ích.
- Các bản tin nội bộ, đặc biệt là thông tin được cung cấp thông qua Hội nghị báo
cáo viên định kỳ là nguồn thông tin trực tiếp mà dựa vào đó báo cáo viên, tuyên truyền
viên xây dựng nội dung bài nói.
- Ngoài ra có thể sử dụng các băng ghi âm, ghi hình do các cơ quan có trách
nhiệm cung cấp, các thông tin có được nhờ nghiên cứu thực tế, tham quan các điển
hình tiên tiến và các di tích lịch sử - văn hóa….
Muốn có nguồn tài liệu phong phú, cần tuân theo chỉ dẫn sau đây của Bác Hồ:
“Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là:
1. Nghe: Lắng nghe các cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu
mà viết.
2. Hỏi: Hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những
tình hình khắp nơi.
3. Thấy: mình phải đi đến xem xét mà thấy.
4. Xem: Xem báo chí, sách vở. Xem báo chí trong nước, xem báo chí nước
ngòai.
5. Ghi: Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã học đựơc thì phải chép
lấy để dùng và viết. Có khi xem mấy tờ báo chỉ được một tài liệu thôi. Tìm tài liệu cũng
như công tác khác phải chịu khó.
Có khi xem tờ báo này có vấn đề này, xem tờ báo khác có vấn đề khác, rồi góp
hai ba vấn đề, hai ba con số làm thành một tài liệu mà viết.
Muốn có nhiều tài liệu thì phải xem cho rộng"

2
b- Đọc và nghiên cứu tài liệu
- Đọc tài liệu: Thoạt đầu đọc lướt qua mục lục, lời chú (nếu có) của từng tài liệu
để trên cơ sở đó hình thành quan niệm về nội dung, kết cấu bài nói. Sau đó đọc kỹ, có
phân tích, phê phán, có suy nghĩ.
- Ghi chép: Cách ghi chép tốt nhất, thiết thực nhất là ghi tóm tắt những điều đã
đọc được.
Khi cần giữ lại ý kiến của tác giả một cách hoàn chỉnh có thể trích nguyên văn
từng câu, từng đoạn và chú giải xuất xứ của đoạn trích (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm,
nơi xuất bản, năm xuất bản, lần xuất bản, số trang). Có thể ghi vào sổ tay hoặc trên
phích. Mỗi phích ghi một vấn đề, ghi trên một mặt giấy, mặt kia có thể ghi những vấn
đề mới.
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu tài liệu. Lựa chọn phương pháp nào phụ
thuộc vào thói quen, kinh nghiệm cá nhân.
c- Một vài chú ý khi sử dụng tài liệu
- Sau khi đọc, ghi chép, tiến hành lựa chọn những tài liệu mới nhất, có gía trị nhất, dự
kiến có khả năng thu hút người nghe nhất đưa vào bài phát biểu.
- Chọn và sắp xếp tư liệu theo trình tự lôgic để hình thành đề cương.
- Chỉ sử dụng những tài liệu rõ ràng, chính xác. Không dùng những tài liệu thấy
còn chưa tường minh về tư tưởng, thiếu chính xác về mặt khoa học.
- Trước khi sử dụng bất kỳ tư liệu nào đều phải xem xét nó bằng "lăng kính" của
người cán bộ tư tưởng. "Lăng kính" ở đây chính là sự nhạy cảm về tư tưởng, là bản
lĩnh chính trị, là trách nhiệm người cán bộ trước Đảng, trách nhiệm công dân.
Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, cần thiết phải định hướng thông tin
theo quan điểm của Đảng.
Sử dụng tài liệu là một nghệ thuật. Nghệ thuật đó phụ thuộc vào năng lực, bản lĩnh
nghề nghiệp của cán bộ tuyên truyền. Cùng một lượng tài liệu như nhau, ai dày công và
sáng tạo hơn sẽ có bài nói chuyện chất lượng cao hơn.
4. Xây dựng đề cương bài phát biểu
Đề cương bài phát biểu là văn bản mà dựa vào đó người tuyên truyền tiến hành

buổi nói chuyện trước công chúng. Đề cương bài phát biểu cần đạt tới các yêu cầu
sau:
- Phải thể hiện mục đích tuyên truyền.
- Phải chứa đựng, bao hàm nội dung tuyên truyền một cách lôgic.
Cần xây dựng nhiều phương án của đề cương, từ đó chọn phương án tối ưu.
Quá trình xây dựng đề cương có thể thay đổi, bổ sung, hoàn thiện dần từ thấp
lên cao, từ đề cương sơ bộ đến đề cương chi tiết.
Phát biểu miệng có nhiều thể loại: nói chuyện thời sự, giảng bài, báo cáo chuyên
đề, báo cáo nhanh hoặc giới thiệu nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kể chuyện người
tốt việc tốt, gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, bài diễn văn đọc trong cuộc mít tinh…
Mỗi thể loại trên đều có kết cấu đề cương riêng. Nhưng khái quát lại đề cương được
kết cấu bởi ba phần: Phần mở đầu, Phần chính và phần kết luận. Mỗi phần có chức
năng riêng, yêu cầu riêng, phương pháp riêng.
a. Phần mở đầu
- Phần mở đầu có chức năng sau:
+ Là phần nhập đề cho chủ đề bài nói.
+ Là phương tiện giao tiếp với người nghe, kích thích sự hứng thú của người
nghe với nội dung bài phát biểu.
- Yêu cầu đối với phần mở đầu
+ Phải tự nhiên và gắn với các phần khác trong bố cục tòan bài cả về nội dung
và phong cách ngôn ngữ.
+ Ngắn gọn, độc đáo và tạo hấp dẫn với người nghe.
- Cách mở đầu và cấu trúc phần mở đầu
+ Mở đầu trực tiếp: Là cách mở đầu bằng việc giới thiệu thẳng với người nghe
vấn đề sẽ trình bày để người nghe tiếp cận ngay.
+ Mở đầu gián tiếp: Là cách mở đầu không đi thẳng vào vấn đề mà chỉ nêu vấn
đề sau khi đã dẫn ra một ý kiến có liên quan, gần gũi với vấn đề ấy nhằm chuẩn bị bối
cảnh, dọn đường cho vấn đề xuất hiện.
Ngoài các cách mở đầu có tính "kinh điển" này, trong bài phát biểu miệng người
ta còn sử dụng hàng loạt phương pháp mở đầu khác, tự do hơn, miễn là chúng đáp

ứng được các yêu cầu như đã nêu trên.
b. Phần chính của bài nói
Đây là phần quan trọng nhất, dài nhất, quy định chất lượng của bài nói, là phần bao
hàm, phát triển nội dung tuyên truyền một cách toàn diện, sâu sắc.
Việc chuẩn bị phần chính của bài nói này cần đạt tới các yêu cầu sau:
- Bố cục chặt chẽ, được trình bày lập luận theo những quy tắc, phương pháp
nhất định.
Phần chính được bố cục thành các luận điểm hay các mục (mục lớn tương ứng
với luận điểm cấp một, mục nhỏ tương ứng với luận điểm cấp hai). Các luận điểm phải
được làm sáng tỏ bởi các luận cứ. Giữa các luận điểm hay các phần, các mục phải có
đoạn chuyển tiếp.
Tư liệu, tài liệu dùng để chứng minh, làm sáng tỏ luận điểm cần được sắp xếp
một cách lôgic theo phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp loại
suy hoặc phương pháp nêu vấn đề.
- Tính xác định, tính nhất quán và tính có luận chứng.
Lôgic là một thuộc tính đặc biệt của ý thức con người. Trong quá trình hình
thành ý thức con người thì trong ý thức mỗi cá nhân cũng hình thành những mối quan
hệ lôgic nhất định. Nếu lôgic bài nói phù hợp với lôgic trong tư duy, ý thức con người
thì bài nói sẽ trở nên dễ hiểu, dễ thuyết phục người nghe.
- Tính tâm lý, tính sư phạm
Khi xây dựng phần chính của bài nói và thể hiện nội dung, ngoài việc vận dụng
các quy luật của lôgic hình thức cần vận dụng các quy luật của tâm lý học tuyên truyền
như: quy luật hình thành và biến đổi của tâm thế, quy luật của đồng hóa và tương
phản của ý thức, quy luật đứng đầu trong niềm tin, quy luật về sự tác động của cái
mới…
Đề cương phần bài nói còn được sắp xếp theo yêu cầu của phương pháp sư
phạm: trình bày từ cái đơn giản, đã biết đến cái phức tạp, cái chưa biết và nêu bật
được những luận điểm quan trọng nhất của bài.
c. Phần kết luận
Kết luận là phần không thể thiếu trong cấu trúc một bài nói. Nó làm cho bố cục

bài nói trở nên cân đối, lôgic, có tác dụng khái quát và nhấn mạnh điều đã nói.
Phần kết luận có các chức năng đặc trưng sau:
+ Tổng kết những vấn đề đã nói.
+ Củng cố và làm tăng trọng lượng về nội dung bài nói.
+ Đặt ra trước người nghe những nhiệm vụ nhất định và kêu gọi họ đi đến hành
động.
Kết luận phải ngắn gọn, giàu cảm xúc nhưng tự nhiên, không giả tạo và được sử
dụng để kết thúc bài nói.
- Những cách kết luận chủ yếu và cấu trúc của nó:
+ Phần đầu gọi là phần tóm tắt hay toát yếu (tóm lược các vấn đề đã trình bày
trong phần chính).
+ Phần hai là phần mở rộng và mang đặc trưng của phương pháp.
Có thể còn nhiều loại kết luận khác nhau. Tuy nhiên, nếu buổi nói chuyện đã đầy
đủ và thấy rằng không cần phải tổng kết, thời gian nói chuyện đã hết thì tốt nhất nên
nói: " Đến đây cho phép tôi được kết thúc bài phát biểu, xin cảm ơn các đồng chí"./.
_____________________________________________________
1
Xem F.A.Nôgin: Nghệ thuật phát biểu miệng, NXB SGK Mác-Lênin, Hà Nội,
1984, tr 31
2
Hồ Chí Minh: Về công tác tư tưởng. NXB Sự thật, Hà Nội 1985, tr 198.
BÀI 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUẨN BỊ
ĐỀ CƯƠNG BUỔI TUYÊN TRUYỀN MIỆNG


Chuẩn bị tốt cho một buổi tuyên truyền miệng là yếu tố có tính quyết định đến kết
quả của hoạt động tuyên truyền. Chuẩn bị cho một buổi tuyên truyền là phải trả lời cho
các câu hỏi: Nói để làm gì? Nói về vấn đề gì? Nói ở đâu, vào thời gian nào? Nói cho ai

nghe? Lấy tài liệu nào, ở đâu để nói? Chuẩn bị bài nói như thế nào?
Như vậy, chuẩn bị một buổi tuyên truyền miệng không chỉ là chuẩn bị nội dung (đề
cương chi tiết) mà còn chuẩn bị những công việc cần thiết khác đối với hoạt động của
người báo cáo viên.
I- TÌM HIỂU ĐỐI TƯỢNG, XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA BUỔI NÓI
CHUYỆN
1- Tìm hiểu yêu cầu và đặc điểm của người nghe (đối tượng)
- Muốn cho bài nói thành công, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải đặt câu hỏi:
Nói cho ai nghe? “Ai” ở đây chính là đối tượng mà cán bộ tuyên truyền tác động tới. Tìm
hiểu yêu cầu và đặc điểm đối tượng tuyên truyền là nhiệm vụ đầu tiên cần thực hiện khi
chuẩn bị một buổi nói chuyện.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ tuyên truyền, nhà văn, nhà báo
phải tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không như vậy thì cùng như cố
ý không muốn người ta nghe, không muốn cho người ta xem… Người viết: “Công tác tuyên
truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để
làm gì? Tuyên truyền cách thế nào? Đó là những vấn đề các chú phải tự hỏi và tự trả lời
chứ không phải ngồi chờ trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm”.
1
- Nội dung tìm hiểu đối tượng gồm:
+ Nghiên cứu đặc điểm về mặt xã hội: giai cấp, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn,
giới tính, tuổi tác… của người nghe;
+ Nghiên cứu các đặc điểm về tư tưởng và tâm lý - xã hội: các quan điểm, chính
kiến, động cơ, khuân mẫu tư duy, tâm trạng, trạng thái thể chất… của họ;
+ Nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu thông tin; thái độ của người nghe đối với nguồn
thông tin và nội dung thông tin; con đường, cách thoả mãn thông tin của đối tượng.
Đối với mối đối tượng cụ thể khi nghiên cứu cần chú ý đến tâm thế chung của họ.
Có: tâm thế chủ động và tâm thế bị động, tâm thế khẳng định và tâm thế phủ định.
Tâm thế chủ động thể hiện sự nhiệt tình, mong muốn của người nghe. Tâm thế bị
động là sự chưa sẵn sàng của người nghe, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, họ
đi nghe vì nghĩa vụ chứ không do có nhu cầu.

Tâm thế khẳng định thể hiện niềm tin sẵn có của người nghe. Tâm thế phủ
định thể hiện những định kiến có sẵn, thái độ phản ứng, phủ nhận của người nghe với
những điều mình sẽ nói.
Trên cơ sở đó mà báo cáo viên lựa chọn nội dung, cách thức tuyên truyền cho phù
hợp. Có như vậy mới đem lại hiệu quả cáo cho bài nói.
- Về nhóm đối tượng có nhu cầu khác nhau:
Trong thực tế, rất ít buổi nói chuyện được dành cho một loại đối tượng thuần nhất
(trừ các lớp học, đơn vị quân đội, công an). Thông thường, cán bộ tuyên truyền phải tiếp
xúc cùng một lúc với nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một cơ sở, cùng một môi
trường công tác. Trong một Đảng bộ doanh nghiệp, tuy người nghe đều là cán bộ, đảng
viên nhưng trình độ học vấn, công việc của mỗi người khác nhau, phần đông là công nhân
trực tiếp sản xuất, số còn lại là cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật… Trong một cơ
quan nghiên cứu vừa có các nhà khoa học, cán bộ quản lý nhưng cũng có những đảng
viên làm tạp vụ, lao công… Báo cáo viên phải tìm cho được những điểm chung trong
những người nghe để lựa chọn nội dung và phương pháp thích hợp, chuẩn bị để chỗ nào
cần nói sâu, nói kỹ, chỗ nào cần nói lướt. Đương nhiên một bài nói không thể dễ dàng
thoả mãn mọi đối tượng nhưng cần đáp ứng yêu cầu của số đông và ở mức nhận thức
“trung bình tiên tiến”.
- Phương pháp cơ bản để tìm hiểu đối tượng:
Để tìm hiểu được yêu cầu và đặc điểm đối tượng như trên, có thể dựa trên 3 cách:
+ Tìm hiểu qua tổ chức, cá nhân người đến “dặt hàng”, yêu cầu mới;
+ Tìm hiểu qua những báo cáo viên đã trình bày một lần với đối tượng đó;
+ Dựa trên kinh nghiệm của mình và qua quan sát nhanh tại chỗ khi tiếp xúc với
đối tượng để xác định.
2- Xác định mục đích và chủ đề của bài nói
Từ yêu cầu của người nghe và mục đích, yêu cầu của hoạt động tuyên truyền, báo
cáo viên cần xác định rõ mục đích, yêu cầu và chủ đề của bài nói.
- Mục đích chung của công tác tuyên truyền là nâng cáo nhận thức, hình thành
niềm tin và cổ vũ hành động người nghe. Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một
việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích

đó là tuyên truyền thất bại”
2
. Vì vậy, mục đích bài nói của người báo cáo viên bao giờ
cũng cần đạt được 3 yêu cầu là:
+ Cung cấp thông tin, qua đó nâng cao nhận thức;
+ Xây dựng, củng cố niềm tin;
+ Cổ vũ đi tới hành động.
Tuỳ theo nội dung trình bày và yêu cầu của đối tượng để xử lý mối quan hệ
của 3 yêu cầu đó trong bài nói. Mỗi bài nói cụ thể cần đặt ra mục đích rõ ràng và
phù hợp. Bài nói chuyện ngắn, chủ đề hẹp không nên đặt ra mục đích quá cao. Đối
với các đối tượng quen thuộc đã nghe nhiều lần cần chú ý đến các mục đích cung
cấp thông tin, nâng cao nhận thức, tránh liên hệ gò bó, công thức…
- Xác định chủ đề bài nói
Chủ đề bài nói có thể do báo cáo viên, tuyên truyền viên đặt ra theo yêu cầu của
công tác tuyên truyền nói chung trong tháng, trong quý nhưng cũng phải đáp ứng yêu
cầu ở cơ sở, ở người nghe. Mặt khác, chủ đề rộng hay hẹp còn do thời lượng quy định.
Trong một thời gian dài không nên nói một chủ đề hẹp, ngược lại trong thời gian ngắn
không nên nói một chủ đề rộng.
Chủ đề bài nói cần đáp ứng yêu cầu, thoả mãn nhu cầu người nghe (tính thời sự,
tính thiết thực, có thông tin mới) trong thời gian cho phép, qua đó để chuyển tải mục
đích tuyên truyền. Không nên bắt đầu từ mục đích tuyên truyền hoặc những điều mình
biết, có ưu thế để áp đặt cho người nghe những điều mình muốn nói.
- Để xá định chủ đề bài nói, cần căn cứ vào 3 yếu tố sau:
+ Yêu cầu tư tưởng của cấp uỷ theo chương trình kế hoạch;
+ Yêu cầu của đối tượng tuyên truyền thông qua cơ quan, tổ chức “đặt hàng”;
+ Dựa vào kinh nghiệm và hiểu biết của báo cáo viên về đặc điểm đối tượng
3- Tìm hiểu không gian, thời gian diễn ra buổi nói.
a- Tìm hiểu không gian buổi nói chuyện
- Không gian diễn ra buổi nói chuyện có vai trò nhất định đến kết quả của buổi nói
chuyện. Do hoạt động tuyên truyền miệng là hoạt động tập thể với các giao tiếp trực tiếp

nên các yếu tố ngoại cảnh có tác động không nhỏ đến người nói và người nghe.
- Khi tìm hiểu không gian của buổi nói chuyện, báo cáo viên cần chú ý để biết
trước những trường hợp sau đây:
+ Địa điểm nói chuyện: trong phòng hay ngoài trời, phòng họp lớn hay nhỏ, số
lượng người nghe;
+ Điều kiện của buổi nói chuyện với người nghe: có ghế ngồi, có quạt, có điều hoà
nhiệt độ;
+ Điều kiện với người nói: có bàn. bục, micrô (có dây hoặc không dây), máy tính,
đén chiếu…
- Báo cáo viên tìm hiểu các điều trên đây qua người “đặt hàng” để có thể chủ động
nắm được những thông tin cơ bản về không gian buổi nói chuyện. Cũng có thể biết
được những điều trên qua các kênh thông tin khác như hỏi các báo cáo viên đã có lần
đến nói chuyện với các cơ quan, đơn vị trên…
b- Thời gian diễn ra buổi nói chuyện
- Thời gian buổi nói chuyện cũng có tác động đến kết quả buổi nói chuyện nên báo
cáo viên cần chủ động chuẩn bị trước. Thông thường vào buổi sáng, người nghe tỉnh
táo, tiếp thu thông tin tốt hơn; đầu giờ chiều, người nghe thường mệt mỏi, buổi tối hay bị
phân tán… Trong mỗi hoàn cảnh đòi hỏi người tuyên truyền phải quan tâm đến việc sắp
xếp nội dung bài nói và phương pháp diễn đạt sinh động để phát huy hoặc khắc phục
trạng thái tinh thần, tâm lý trên của đối tượng.
- Thời gian nói chuyện dài hay ngắn cũng tác động đến người nghe. Nói chung,
trong một buổi nói chuyện không nên kéo dài quá trưa, quá tối, dù người tổ chức có yêu
cầu. Trong buổi nói chuyện nếu kéo dài đến trên 2 giờ, nhất thiết phải cho nghỉ giải lao.
Trong trường hợp điều kiện để nghỉ giải lao không thuận tiện, có thể để nghỉ “giải lao tại
chỗ” bằng tổ chức hoạt động của người nghe (hát tập thể hoặc đơn ca, song ca…),
hoặc của người nói (dành nhiều thời gian hơn cho kể chuyện minh hoạ hoặc kể các
chuyện có chủ đề xa hơn với vấn đề đang nói).
- Ngoài ra, báo cáo viên cũng chuẩn bị sẵn sàng cách xử lý khi thời gian nói
chuyện bị điều chỉnh theo yêu cầu của người tổ chức. Ví dụ: khi đến nơi, thời gian bắt
đầu bị chậm (rất hay xảy ra); người tổ chức đề nghị cho nghỉ sớm, xin thời gian để triển

khai công việc cơ quan… Người báo cáo viên chủ động chuẩn bị để có cách xử lý phù
hợp.
II- CHUẨN BỊ TƯ LIỆU, TÀI LIỆU CHO BUỔI NÓI CHUYỆN
Trong điều kiện bùng nổ thông tin toàn cầu và sự phát triển của hệ thống truyền
thông, bất cứ một lĩnh vực nào cũng có rất nhiều tài liệu và người báo cáo viên luôn
luôn giả định rằng tài liệu mình có nhiều người cũng có, trong đó có người sẽ nghe
mình. Vấn đề đặt ra với người tuyên truyền là thu thập, nghiên cứu, xử lý tài liệu thế nào
cho hợp lý và tài liệu phải phục vụ chủ đề bài nói một cách sát hợp nhất. Quá trình thu
thập, nghiên cứu, xử lý tài liệu là quá trình biến tri thức trong tài liệu thành nhận thức
của người báo cáo viên để truyền đạt lại cho người nghe.
1- Chọn tài liệu
Nguồn tài liệu của báo cáo viên, tuyên truyền viên rất phong phú, nhưng để xây dựng
đề cương bài nói, báo cáo viên cần chú ý đến các loại tài liệu sau:
- Các tài liệu lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
của Đảng và Nhà nước. Đây là cơ sở lý luận để người báo cáo viên lý giải các vấn đề
thực tiễn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến các chủ trương, chính sách mới.
Người làm công tác tuyên truyền miệng phải có kiến thức, lý luận vững chắc và hệ thống
về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, để
trên cơ sở đó đánh giá, phân tích các sự kiện, hiện tượng được đề cập trong bài nói.
- Các loại từ điển, số liệu thống kê chính thức của các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền giúp tra cứu các khái niệm, khai thác số liệu liên quan đến các vấn đề
trong bài nói.
- Các tạp chí nghiên cứu, báo chí, sách báo chuyên khảo phù hợp với nội dung
tuyên truyền. Qua các tài liệu này có thể thu thập khối lượng lớn kiến thức có hệ thống
cho nội dung bài nói.
- Sổ tay tuyên truyền, sổ tay báo cáo viên. Đây là những tài liệu cung cấp nội dung
và nghiệp vụ tuyên truyền rất thiết thực, bổ ích.
- Các bản tin nội bộ, tài liệu tham khảo (dùng cho báo cáo viên), thông tin được
cung cấp qua hội nghị báo cáo viên định kỳ… là nguồn tài liệu quan trọng giúp báo cáo
viên các tư liệu, số liệu và nhiều câu chuyện, mẩu chuyện cụ thể làm dẫn chứng thú vị

cho các vấn đề định trình bày.
- Ngoài ra, có thể sử dụng các băng ghi âm, ghi hình do cơ quan có trách nhiệm
cung cấp, các thông tin thu được nhờ nghiên cứu, tham quan thực tế các điển hình tiên
tiến và các di tích lịch sử - văn hoá…
Tóm lại, cái gốc là các văn bản, tài liệu chính thống. Đương nhiên, người tuyên
truyền nếu cần thiết có thể sử dụng cả tài liệu của nước ngoài, của các thế lực xấu, thù
địch, tìm hiểu quan điểm và lập luận của họ để phê phán nhưng phải thận trọng để
không trở thành “kẻ tuyên truyền không công” cho địch. Người tuyên truyền còn phải
biết khai thác một nguồn tài liệu sẵn có, đó là vốn sống thực tế của bản thân. Khi sử
dụng những nguồn tài liệu nói trên phải theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Người cán bộ tuyên truyền phải chịu trách nhiệm về việc phát ngôn của mình.
Cán bộ tuyên truyền giỏi phải là người có vốn tri thức phong phú, vừa rộng, vừa
sâu. Muốn vậy phải có ý thức tự tích luỹ thường xuyên, liên tục, bằng nhiều cách khác
nhau.
2- Nghiên cứu và xử lý tài liệu
- Đọc tài liệu: đầu tiên đọc lướt qua mục lục, lời chú, trên cơ sở đó lựa chọn các
nội dung liên quan đến bài nói, sau đó đọc kỹ, có phân tích, đánh giá, suy nghĩ. Có thể
đọc cả tài liệu phản diện để hiểu, phê phán, nâng cao tính chiến đấu cho bài nói.
- Ghi chép: ghi tóm tắt những điều đã đọc được. Có thể ghi thêm lời bình luận ra lề
hoặc bổ sung những ý kiến của mình khi ngôn ngữ của tài liệu quá cô đọng hoặc quá
trừu tượng. Khi cần giữ lại ý kiến của tác giả một cách hoàn chỉnh có thể trích nguyên
văn (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm, nơi xuất bản, lần xuất bản, số trang).
- Phân loại: đối với người báo cáo viên nên có các túi hồ sơ phân loại theo vấn đề
(kinh tế, chính trị, đối ngoại…) theo đối tượng nghiên cứu (như về Trung Quốc, Nga,
Mỹ…). Mỗi khi có thông tin gì về các nội dung đó, cần cắt, dán để vào trong túi để khi có
yêu cầu thì lấy ra đọc lại và xử lý.
Trên cơ sở các tài liệu hiện có được lựa chọn, báo cáo viên hình thành nên đề
cương bài nói.
3- Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu
- Quá trình thu thập, nghiên cứu, xử lý tài liệu đối với người tuyên truyền là quá trình

nạp thông tin. Chọn và sắp xếp tư liệu theo trình tự lôgíc và thời gian để hình thành đề
cương. Chú ý chỉ sử dụng những tài liệu rõ ràng, chính xác. Trước khi sử dụng bất cứ tài
liệu nào, đều phải xem xét qua “lăng kính” của người cán bộ tư tưởng của Đảng. Đó chính
là bản lĩnh chính trị, là sự nhạy cảm về tư tưởng, là trách nhiệm công dân. Không được để
lộ bí mật của Đảng, của Nhà nước. Khi sử dụng thông tin nội bộ, tài liệu mật cần xác định
rõ vấn đề nào không được nói, hoặc chỉ được nói đến đối tượng nào.
- Đọc, ghi chép và xử lý thông tin, đưa thông tin vào “bộ nhớ” trong não của người
tuyên truyền là điều hết sức quan trọng, sử dụng những thông tin, tư liệu đã có là một
nghệ thuật. Nghệ thuật ấy có được là nhờ vào bản lĩnh, khả năng, vào quá trình tích luỹ,
rèn luyện của báo cáo viên. Nó góp phần rất quan trọng vào thành công của bài nói.
III- XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG BÀI NÓI
Đề cương bài nói chính là dàn bài chi tiết thể hiện mục đích, yêu cầu và những nội
dung cơ bản của bài nói, là quá trình sắp xếp trên văn bản để người báo cáo viên, căn
cứ vào đó trình bày những vấn đề định nói một cách đầy đủ, theo một trình tự hợp lý,
nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đề cương không được quá sơ sài, không làm rõ những nội
dung và lý lẽ cần trình bày nhưng cũng không biến đề cương thành một bài viết sẵn để
đọc. Tuỳ theo khả năng, phương pháp và thói quen cuảe báo cáo viên, đề cương có thể
dài, ngắn khác nhau nhưng bao giờ cũng cần phải rõ ràng, phân ra từng phần để dễ
nhìn, dễ thực hiện.
Mỗi đối tượng cụ thể nên có một đề cương bài nói phù hợp. Một đề cương, báo
cáo viên có thể dùng nhiều lần. Do vậy, cần cập nhật thông tin, thường xuyên bổ sung,
hoàn thiện đề cương, làm phong phú thêm bài nói.
1- Cấu trúc đề cương bài nói
Đề cương bài nói thường có 3 phần, mỗi phần có chức năng riêng.
- Phần mở đầu
Yêu cầu chung của phần mở đầu gồm 3 mục tiêu cụ thể là:
+ Giới thiệu và làm quen;
+ Thông báo nội dung trình bày;
+ Thông báo thời gian và phương thức tiến hành.
- Phần chính (nội dung bài nói)

Đây là phần quan trọng nhất của bài nói, giải quyết vấn đề mà người báo cáo viên
đặt ra theo một trình tự nhất định.
Về nguyên tắc bài nói có thể đề cập đến mọi vấn đề của đời sống xã hội như kinh
tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… Nhưng nói
chung một bài nói tổng hợp được trình bày trong một buổi (khoảng 3 giờ) không nên đề
cập đến quá nhiều vấn đề, chỉ nên 3-4 vấn đề và nên có đoạn gắn kết với nhau.
- Phần kết luận
Đây là phần tổng kết bài nói, củng cố nhận thức người nghe và cổ vũ hành động.
Yêu cầu chung của phần kết luận là: tóm tắt, nhấn mạnh nội dung, cổ vũ hành động và
tạo mối giao lưu tình cảm giữa người nói và người nghe. Phần này cũng cần ngắn gọn,
tránh dài dòng.
2- Yêu cầu và phương pháp chuẩn bị đề cương bài nói
a. Phần mở đầu
- Đây là phần nhập đề, là bước tiếp xúc đầu tiên với người nghe, do đó báo cáo
viên phải mở đầu sao cho hấp dẫn, kích thích hứng thú của người nghe và làm rõ chủ
đề của bài nói. Lời mở đầu cấn tự nhiên, ngắn gọn.
- Để thực hiện yêu cầu trên cần lựa chọn trước cách vào đề. Có 2 cách vào đề chủ
yếu là vào đề trực tiếp và vào đề gián tiếp.
+ Vào đề trực tiếp là giới thiệu trực tiếp chủ đề nội dung bài nói. Hình thức này
thường được thực hiện với đối tượng quen, thời gian ngắn.
+ Vào đề gián tiếp là đưa ra một luận đề nào đó (gần với chủ đề bài nói) rồi dẫn
dắt người nghe đến vấn đề báo cáo viên định nói. Thí dụ: với bài nói “Tình hình Trung
Quốc và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời gian gần đây”, có thể vào đề như sau:
Trong phỏng vấn Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sau chuyến đi thăm Mỹ tháng
6/2007, phóng viên hãng CNN hỏi: trong các mối quan hệ giữa Việt Nam - Mỹ và Việt
Nam - Trung Quốc, Việt Nam quan tâm đến mối quan hệ nào hơn và theo ngài quan hệ
nào quan trọng hơn. Qua câu hỏi trên, chúng ta thấy thế giới rất quan tâm đến mối quan
hệ giữa nước ta và Trung Quốc. Tôi tin chắc các đồng chí cũng như vậy. Hôm nay,
chúng tôi xin báo cáo với các đồng chí về “Tình hình Trung Quốc và quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc thời gian gần đây” Cách vào đề gián tiếp có tác dụng kích thích và

làm tăng dần sự chú ý của người nghe nhưng khi thực hiện cần tránh sa đà, lạc
nội dung.
Trong bài chuẩn bị, sau khi xác định rõ cách vào đề, cần chuẩn bị nội dung của
cách vào đề đó, chú ý phải ngắn gọn.
b- Chuẩn bị nội dung bài nói
Để đạt mục đích tuyên truyền đặt ra và tạo khả năng thu hút sự chú ý của người
nghe, đề cương bài nói phải được chuẩn bị đáp ứng các yêu cầu sau:
Một là, phải cung cấp cho người nghe những thông tin mới
- Trong lý thuyết giao tiếp, quá trình trao đổi thông tin được ví như hai bình thông
nhau chứa tin. Mỗi bình chứa tin là một vai giao tiếp. Quá trình giao tiếp, trao đổi thông
tin là mở van giữa hai bình để tin từ bình này (người nói) chảy sang bình kia (người
nghe). Nếu tin của hai bình ngang nhau, quá trình trao đổi thông tin trên thực tế không
diễn ra nữa. Để quá trình này diễn ra liên tục, giữa người nói và người nghe phải có “độ
chênh lệch” về thông tin, về sự hiểu biết xung quanh nội dung đang đề cập. Độ chênh
lệch về thông tin, về sự hiểu biết, đó chính là cái mới của nội dung bài nói.
- Cái mới của nội dung tạo khả năng thu hút sự chú ý của người nghe, gây được
lòng tin trong công chúng, thuyết phục những người có quan điểm khác hoặc trái với
quan điểm cần thuyết phục.
- Trong tuyên truyền miệng, cái mới không chỉ được hiểu là cái chưa hề được đối
tượng biết đến mà còn là một phương pháp tiếp cận mới, cách trình bày mới, độc dáo, một
nhận điịnh, đánh giá mớivề cái đã biết. Cái mới cũng có thể là một kinh nghiệm được tích
luỹ, một sự kiện, một hiện tượng mới phát sinh xung quanh những vấn đề đã được thông tin
trước đây cho người nghe.
- Để tạo ra cái mới cho nội dung bài nói, người báo cáo viên cần thường xuyên
tích luỹ tư liệu, tài liệu để làm giàu, phong phú sự hiểu biết; tìm tòi, sáng tạo cách trình
bày, tiếp cận mới đối với vấn đề; rèn luyện năng lực bình luận, đánh giá, truyền tải
thông tin; tích cực nghiên cứu thực tế, lăn lộn trong phong trào cách mạng của quần
chúng để phát hiện, nắm bắt cái mới; tổng kết những kinh nghiệm hay từ thực tiễn đời
sống của nhân dân.
Hai là, phải đáp ứng một cách cao nhất yêu cầu thông tin của một loại đối tượng

cụ thể
- Nội dung bài nói do mục đích của công tác giáo dục tư tưởng và nhu cầu thoả
mãn thông tin của đối tượng quy định. Nhu cầu của thông tin xuất hiện do nhu cầu của
hoạt động nhận thức (nghe để biết hoặc nghe để biết và để làm). Hoạt động thực tiễn
của công chúng rất đa dạng, nhu cầu thông tin cũng đa dạng. Không thể lựa chọn một
nội dung nói cho nhiều đối tượng khác nhau. Nội dung bao giờ cũng hướng tới một đối
tượng, một nhóm người nghe cụ thể.
- Trong trường hợp công chúng chưa xuất hiện nhu cầu thông tin về vấn đề quan
trọng nào đó, mà vấn đề đó lại được đặt ra do yêu cầu giáo dục tư tưởng thì cần chủ
động hướng dẫn, khêu gợi, kích thích sự quan tâm ở họ. Chỉ khi nào ở người nghe xuất
hiện nhu cầu thông tin, đòi hỏi được đáp ứng thì khi đó ở họ mới có tâm thế chủ động,
thái độ sẵn sàng tiếp nhận thông tin, có những hành động nhằm thoả mãn nhu cầu đó
(tìm tài liệu để đọc, đến hội trường để nghe nói chuyện và chú ý lắng nghe…).
Việc phân loại đối tượng người nghe, nắm vững nhu cầu thông tin, biết kích thích
và thường xuyên đáp ứng yêu cầu thông tin của đối tượng, vừa là yêu cầu, vừa là điều
kiện đảm bảo sự thành công của bài nói.
Ba là, bài nói phải mang tính thời sự, phản ánh những vấn đề đang diễn ra trong
thực tiễn cuộc sống.
- Giá trị và sức lôi cuốn người nghe, ý nghĩa chỉ đạo tư tưởng và hành động của
nội dung bài nói do thời điểm đưa tin, thời điểm tổ chức buổi nói chuyện quyết định. Nếu
buổi nói chuyện được tổ chức đúng thời điểm thì sức thu hút người nghe càng lớn.
Ngược lại nếu triển khai chậm, thông tin thiếu tính thời sự thì sức hấp dẫn bị hạn chế,
hiệu quả của công tác tuyên truyền kém tác dụng.
- Để đáp ứng yêu cầu này, một mặt người tuyên truyền phải nắm vững chương trình,
kế hoạch của cấp uỷ hoặc của cấp trên đề ra. Mặt khác, phải luôn luôn cập nhật thông tin,
trên cơ sở đó bằng bản lĩnh chính trị, sự nhạy cảm và tính năng động sáng tạo, cán bộ
tuyên truyền có thể chọn trong số những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách nhất, những
sự kiện lớn đang kích thích sự quan tâm của đông đảo quần chúng, tham mưu cho cấp uỷ
làm chủ đề cho các buổi nói chuyện. Những vấn đề và sự kiện như vậy thường có sức
mạnh thông tin cổ vũ cao, tác động sâu sắc đến ý thức và hành vi của con người.

Bốn là, bài nói phải đảm bảo tính tư tưởng và tính chiến đấu
- Từ bản chất của tuyên truyền chính trị, bài nói của báo cáo viên phải có mục
đích tư tưởng rất rõ rệt. Bằng lời nói, nghệ thuật sử dụng ngôn từ, nội dung tuyên truyền
miệng dù theo chủ đề nào cũng đặt ra không chỉ mục đích thông tin mà quan trọng hơn
là mục đích tác động về mặt tư tưởng (hình thành niềm tin, cổ vũ hành động). Cho nên,
nội dung bài nói không chỉ đạt yêu cầu cung cấp thông tin đa dạng, nhiều chiều, hấp dẫn
mà quan trọng hơn là đạt tới yêu cầu định hướng thông tin, định hướng tư tưởng về các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về các sự kiện
chính trị trọng đại trong nước và trên thế giới, từ đó công chúng có niềm tin và hành
động tích cực.
- Tính tư tưởng, tính chính đấu đòi hỏi người báo cáo viên khi thông tin về những
quan điểm khác nhau phải có tính định hướng, phân tích theo lập trường, quan điểm
của Đảng. Bằng lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng sát thực, sinh động, có tính
thuyết phục cao… để khẳng định và bảo vệ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi nêu các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu… phải tỏ
rõ thái độ phê phán, kiên quyết, đúng mức, tránh gây hoài nghi, hoang mang, làm giảm
lòng tin của công chúng bởi cái gọi là “thông tin nhiều chiều” thiếu cơ sở khoa học, có
khi thông tin còn bị bóp méo, làm sai lệch bản chất sự việc.
Năm là, chuẩn bị phương pháp trình bày phù hợp
- Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong bài nói là “quy nạp” và “diễn dịch”,
chú ý phối hợp hài hoà hai phương pháp này.
- Thực hiện quy nạp trong bài nói là chứng minh từng luận điểm để đi tới chứng
minh những vấn đề lớn được đặt ra trong bài nói. Chứng minh gồm ba bộ phận: luận đề,
luận cứ và phương thức chứng minh.
+ Luận đề là một luận điểm mà tính chân thực của nó cần được chứng minh. Trong đề
cương, khi nêu luận đề cần trả lời cho câu hỏi: chứng minh cái gì?
+ Luận cứ, luận chứng là một hay nhiều luận điểm mà sự đúng đắn của chúng đã
được thừa nhận, được dẫn ra làm cơ sở hay lý do xác thực để chứng minh luận đề.
Trong chứng minh, luận cứ trả lời cho câu hỏi: chứng minh bằng cái gì?
+ Phương thức chứng minh là các suy luận và các mối liên hệ giữa luận cứ và luận

đề được sử dụng khi suy ra luận đề từ luận cứ. Trong chứng minh, nó trả lời cho câu
hỏi: chứng minh như thế nào?
- Chứng minh một luận đề có hai phương thức: chứng minh trực tiếp và chứng
minh gián tiếp.
+ Chứng minh trực tiếp là chứng minh từ các luận cứ, dựa vào các quy tắc suy
luận để rút ra sự đúng đắn của luận đề.
+ Chứng minh gián tiếp là không luận chứng thẳng sự đúng đắn của luận đề mà
lại chứng minh phản luận đề là sai trái, phi lý, phản khoa học, giả dối… để rút ra kết
luận: luận đề là chân thực.
+ Chứng minh một điều gì đó là sai trái để phủ nhận nó gọi là bác bỏ. Bác bỏ là
chứng minh đặc biệt, vì trong chứng minh bình thường thì cần chứng minh tính chân thực
của luận đề. Còn bác bỏ lại chứng minh sự giả dối, không chân thực của một luận đề, một
nhận thức, quan niệm sai… Ví dụ: Có người nói “Việt Nam đổi mới nhưng chưa được
là bao” (!). Người báo cáo viên chuẩn bị lý lẽ, luận cứ, luận chứng để bác bỏ luận
điểm trên. Nội dung chứng minh là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử
qua 20 năm đổi mới được nêu trong Nghị quyết Đại hội X; những thực tiễn thay
đổi trên đất nước ta; so sánh với sự bất ổn của các nước trong khu vực và trên
thế giới…
- Thực hiện phương pháp diễn dịch là sự giải thích các luận điểm được nêu ra
bằng sự phân tích tính khoa học, hợp lý của nó. Trong quá trình phân tích các luận
điểm cần chú ý tính “tầng lớp” của nó để đi từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng
đến cụ thể và tránh lẫn lộn các bộ phận cấu thành của luận điểm. Hết luận điểm này mới
sang luận điểm khác.
- Trong chuẩn bị bài nói nên kết hợp cả phân tích và chứng minh thật nhuần
nhuyễn và phù hợp.
Sáu là, đề cương bài nói cần bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, lôgic, có trọng tâm,
trọng điểm phù hợp với quá trình nhận thức, thể hiện cả phương pháp trình bày với từng
vấn đề, quan điểm được nêu ra.
Bảy là, đề cương bài nói phải thể hiện được cả hai yêu cầu: nêu luận điểm và các
thông tin, tư liệu làm ví dụ chứng minh luận điểm đó. Trong mỗi phần cần nêu lên các

luận điểm (nhận định) chủ yếu. Sau mỗi luận điểm, nhận định phải đưa ra được một số
ví dụ, số liệu để chứng minh. Tuỳ theo khả năng, trí nhớ của người báo cáo viên cần thể
hiện rõ từng luận điểm và các ví dụ chứng minh trong đề cương.
Tám là, đề cương cần dự kiến tình huống có các câu hỏi người nghe đặt ra. Có
thể báo cáo viên chủ động gợi ý những nội dung quan trọng, những vấn đề “nóng” đang
được dư luận quan tâm để hướng người nghe vào chủ đề đó, góp phần định hướng dư
luận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người báo cáo viên phải chủ động để trả lời,
đối thoại tạo nên không khí dân chủ trong tuyên truyền miệng.
c- Phần kết luận
- Trong phần kết luận, báo cáo viên chuẩn bị các nội dung, cách thức kết luận
những vấn đề nêu lên trong bài nói theo yêu cầu chung.
- Cần chuẩn bị xử lý các tình huống có thể xảy ra, ví dụ: thời gian nói đã gần hết
hay còn nhiều (nhất là đối với nội dung mới và đối tượng mới, báo cáo viên chưa chủ
động được thời gian).
Đề cương bài nói nên viết trên giấy một mặt, nên để lề rộng để bổ sung. Chữ viết
rõ ràng để có thể đọc những đoạn khi cần thiết. Viết xong cần đọc, kiểm tra kỹ. Chuẩn bị
bài tốt là đảm bảo 50% thành công của bài nói. Phần còn lại phụ thuộc vào phương
pháp trình bày./.
___________________________
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội - 2001, tập 11, Tr 128
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội - 2001, tập 5, Tr 162
BÀI 3


PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY BÀI TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

Tuyên truyền miệng là sự giao tiếp trực tiếp giữa người nói và người nghe.
Do vậy, kỹ năng trình bày bài nói có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động tuyên

truyền miệng của người báo cáo viên.
I- CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1- Cơ sở tâm lý của hoạt động tuyên truyền miệng
Trong hoạt động tuyên truyền, báo cáo viên là chủ thể của hoạt động tuyên truyền,
người nghe là chủ thể của hoạt động lĩnh hội thông tin. Vì vậy, xét về khía cạnh tâm lý,
hoạt động tuyên truyền là sự tác động của chủ thể tâm lý này đối với chủ thể tâm lý khác.
Vì vậy, sự vận dụng khoa học về tâm lý đóng vai trò hết sức quan trọng. Người báo cáo
viên chẳng những phải chuẩn bị tốt tâm lý của mình để tác động vào nhận thức, tư tưởng,
tình cảm của đối tượng tuyên truyền mà còn phải chuẩn bị tốt tâm thế cho người nghe, để
họ sẵn sàng đón nhận, tiếp thu và hành động sau khi được tuyên truyền.
V.I. Lênin đòi hỏi người tuyên truyền phải nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các
tầng lớp nhân dân trong quá trình tuyên truyền. Người khuyên: “cần phải thâm nhập
vào quần chúng và học hỏi ở họ một cách kiên trì, bền bỉ thì mới hiểu được các thuộc
tính, đặc trưng tâm lý đa dạng ở mỗi tầng lớp, mỗi nghề của họ”
(1)
.
a. Tâm lý tuyên truyền
Tâm lý học tuyên truyền là một môn khoa học, nghiên cứu các hiện tượng, quy
luật, các cơ chế tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của đối tượng
tuyên truyền.
Vận dụng tâm lý học tuyên truyền đòi hỏi báo cáo viên vừa phải nắm chắc nội
dung, vừa phải có khả năng dự đoán được phản ứng của đối tượng, mục đích để nội
dung tuyên truyền được tiếp thu một cách nhanh nhất, thúc đẩy hành động của đối
tượng một cách tích cực nhất.
Vận dụng tâm lý học tuyên truyền ngoài việc nắm bắt nhu cầu thông tin của đối
tượng, báo cáo viên còn phải biết tác động đến đối tượng trong không gian, thời gian
thích hợp, biết phân tích sự xuất hiện các hiện các yếu tố, các quy luật tâm lý, khai
thác và vận dụng để táo ự hứng thú và quan tâm chú ý của đối tượng tiếp cận với chủ
đề tuyên truyền.
b. Tâm thế và tích cực trong hoạt động tuyên truyền

- Tâm thế trong tuyên truyền là một trạng thái tâm lý hoàn chỉnh, đó là sự chuẩn
bị về thể lực và trí lực để tham gia vào hoạt động tuyên truyền, nhằm đem lại hiệu quả
cao cho hoạt động đó.
- Tâm thế của người được tuyên truyền thường có các dạng: tâm thế chủ động
và tâm thế bị động (muốn nghe và phải nghe); tâm thế phủ định và tâm thế khẳng định
(không nhất trí và nhất trí). Các loại tâm thế trên ảnh hưởng lớn đến kết quả tiếp nhận
nội dung tuyên truyền. Người tuyên truyền khi nắm được các trạng thái tâm lý đó sẽ có
biện pháp để tác động có hiệu quả vào người được tuyên truyền.
- Tâm thế của người nghe thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Nhu cầu thông tin của người nghe. Tuỳ từng thời điểm khác nhau, đối tượng
khác nhau mà nhu cầu thông tin có cấp độ và ý nghĩa khác nhau, tạo nên tâm thế của
người nghe.
+ Trình độ nhận thức của người nghe, sự hiểu biết khác nhau sẽ tạo ra tâm thế khác
nhau khi tiếp thu cũng như khi thực hiện mục đích tuyên truyền.
+ Môi trường khách quan (môi trường vật lý, môi trường tâm lý) cũng là một yếu
tố tạo ra tâm thế của đối tượng tuyên truyền.
- Tâm thế của người ngheo có vai trò quan trọng đối với hoạt động của báo cáo
viên. Vì vậy, báo cáo viên phải tìm hiểu, nắm bắt tâm thế của họ, chủ động tác động
vào tâm thế đó để thúc đẩy sự hình thành tâm thế chủ động trong đa số người nghe,
bằng cách làm cho nhu cầu thông tin của người nghe và các điều kiện tác động đến
tâm thế của họ phù hợp với yêu cầu thông tin của người tuyên truyền.
c. Các quá trình tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền
- Trong tuyên truyền miệng, các quá trình tâm lý xảy ra với người nghe có tác
động trực tiếp đến hiệu quả tuyên truyền. Các trạng thái tâm lý của người nghe như:
sảng khoái, vui vẻ, hào hứng, tích cực hay buồn rầu, mệt mỏi, chán nản, phẫn nộ…
không chỉ tác động đến sự tiếp thu thông tin của họ, mà còn có thể tác động lây lan
trong tập thể và đến hoạt động tuyên truyền của báo cáo viên. Nắm bắt kịp thời các
trạng thái tâm lý của số đông trong tập thể là yêu cầu cần thiết của mỗi báo cáo viên
để chủ động tác động vào trạng thái tâm lý đó, khuyến khích các xu hướng tích cực và
hạn chế các tác động tiêu cực của chúng.

- Các yếu tố khác như dư luận xã hội, truyền thống địa phương dân tộc, mối quan
hệ vốn có giữa người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền… đều ảnh hướng đến quá
trình tâm lý của người nghe. Người báo cáo viên cần nắm được những đặc điểm đó để
chủ động trong hoạt động tuyên truyền.
d. Các tác động tâm lý của báo cáo viên với người nghe
Để nội dung tuyên truyền có tác dụng sâu sắc đến đối tượng tuyên truyền, báo
cáo viên cần giải quyết tốt những yêu cầu tâm lý sau:
- Tổng hợp các đặc điểm của từng đối tượng thông qua trao đổi với cấp ủy và
đơn vị, cơ quan nơi báo cáo viên thuyết trình để nắm bắt các mặt chủ yếu như: thành
phần, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo… từ đó nắm được đặc
điểm tâm lý của họ.
V.I. Lênin nhắc nhở người tuyên truyền: khi phát biểu trước công chúng, phải
luôn luôn hướng tới họ, cố gắng tìm hiểu xem họ đang lo lắng, băn khoăn điều gì?
- Thiết lập sự giao lưu, tạo ra mối truyền cảm giữa báo cáo viên với người nghe:
đó là sự tin cậy lẫn nhau, cùng quan tâm đến vấn đề sẽ đề cập.
- Xác định đúng hình thức và phương pháp kích thích nhu cầu nhận thức của
người nghe. Để làm được điều này, báo cáo viên phải nắm được nhu cầu người nghe
và đem đến cho họ những nội dung thông tin mới, cách tiếp cận và phân tích những
vấn đề mới.
- Khi thuyết trình, cần vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp mang tính
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, sử dụng vốn sống và kinh nghiệm
thực tiễn phong phú để trình bày các nội dung tuyên truyền một cách sinh động hấp
dẫn. Đặc biệt, khi nói báo cáo viên phải gần gũi và thực sự tôn trọng người nghe… Khi
tuyên truyền cần chủ động vận dụng các phương pháp tuyên truyền, như sử dụng
các phương tiện trực quan, nêu câu hỏi, đối thoại, dẫn các tư liệu, mẩy chuyện sinh
động, sử dụng những câu ngạn ngữ, thành ngữ; trình bày bằng sự đa dạng về nhịp
điệu, ngữ điệu… để tác động vào tâm lý của người nghe.
2- Giao tiếp và đối thoại trong tuyên truyền miệng
Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội, nên giao tiếp là nhu cầu tự
thân của mỗi người. Đối với tuyên truyền miệng, giao tiếp là một thành phần cơ bản, là

đòi hỏi không thể thiếu được trong thuyết trình, đối thoại của báo cáo viên.
Giao tiếp có ba loại: giao tiếp thông qua hành động với tập thể tức thông qua hoạt
động có đối tượng; giao tiếp bằng ngôn ngữ, bao gồm tiếng nói và chữ viết; giao tiếp bằng
cử chỉ, nét mặt, ánh mắt, điệu bộ (phi ngôn ngữ).

×