Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

ĐỀ CƯƠNG TÀI LIỆU TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CƠ SỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.7 KB, 107 trang )

TÀI LIỆU TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC
TUYÊN GIÁO CƠ SỞ
12/20/2013 6:14:30 AM
ĐỀ CƯƠNG TÀI LIỆU TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG
NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CƠ SỞ

Biên soạn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.


CHUYÊN ĐỀ 1:
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ.

Công tác tư tưởng ở cơ sở là một bộ phận hợp thành trong hoạt động lãnh đạo
của tổ chức Đảng, là một nội dung công tác trọng yếu của hệ thống chính trị cơ
sở. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở cơ sở là khâu cực kỳ quan trọng
để phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành rất
quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động truyền bá và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn, xây dựng niềm tin
và lối sống lành mạnh, tiến bộ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, sự đồng
thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tính
chủ động và sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phấn đấu“dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ TƯ TƯỞNG VÀ HỆ TƯ TƯỞNG
1. Tư tưởng.
- Tư tưởng, hệ tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội, là sản phẩm của quá trình hoạt
động thực tiễn của cá nhân, cộng đồng, xã hội, là mặt biểu hiện cơ bản nhất của


ý thức xã hội. Ý thức xã hội gồm các cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Mục đích của quá trình nhận thức của con người là nhằm phục vụ cho hoạt
động thực tiễn, nên trong ý thức của mỗi người thực tiễn không hoàn toàn chỉ
dừng lại ở các khái niệm, mà từ các khái niệm đó hình thành nên những chủ
kiến, dự định chỉ đạo hành động của họ.
- Như vậy, tư tưởng là phạm trù thuộc lĩnh vực ý thức, là kết quả của quá trình
nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết trong
tâm trí mỗi con người, trở thành những chủ kiến, dự định, chương trình, kế
hoạch, chi phối hành động của họ.
- Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng mang tính giai cấp. C.Mác, F.Ăngghen viết:"
Mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình đều nhất thiết phải
bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong xã hội, hay nói một cách trừu tượng: phải
gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu
hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất có giá trị phổ biến "
[1]
.
Trong hoạt động thực tiễn, con người có sự giao tiếp với nhau và do đó có tác
động qua lại lẫn nhau về nhận thức và mục đích hoạt động. Vì vậy, trong xã hội
tồn tại một cách khách quan quan hệ tư tưởng. Đó là sự tác động qua lại giữa
người và người về tư tưởng.
Vì mục đích của mình, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội đã chủ động tác
động vào tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp khác, để thuyết phục, lôi kéo họ đi
theo mình trong hoạt động thực tiễn, hoạt động đó gọi là quá trình tư tưởng.
Quá trình tư tưởng tồn tại một cách khách quan trong xã hội, bao gồm các hoạt
động "sản xuất" ra hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong xã hội và cổ vũ,
động viên, lôi cuốn quần chúng đi theo mình. Sự tồn tại khách quan của quá
trình tư tưởng trong xã hội là cơ sở để tiến hành công tác tư tưởng.
Tư tưởng có những đặc điểm chủ yếu là:
- Là phạm trù thuộc ý thức xã hội, do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nên
tư tưởng phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Thực tiễn xã hội thay đổi, tư tưởng cũng bị

thay đổi theo.
- Do con người có khả năng nắm bắt quy luật vận động của xã hội, định hướng
được tương lai, nên có tư tưởng tiên tiến, vượt trước so với tồn tại xã hội, có tác
dụng thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, do gắn liền với lợi ích và sự lạc hậu
tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, nên có tư tưởng bảo thủ, lạc
hậu, kìm hãm sự phát triển xã hội.
- Do con người luôn luôn hành động có mục đích, trước hết là vì lợi ích, nên tư
tưởng con người gắn liền với lợi ích và đấu tranh tư tưởng gắn liền với đấu tranh
giai cấp.F.Ăngghen viết:" Tất cả mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, không kể nó
diễn ra trên địa hạt tôn giáo, triết học hay trên bất kỳ một địa hạt nào khác, thực
ra chỉ là biểu hiện ít nhiều rõ rệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội".
[2]
2. Hệ tư tưởng.
- Hệ tư tưởng là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về quan hệ giữa
người với người và con người với tự nhiên, phản ánh những vấn đề và những
xung đột xã hội. Hệ tư tưởng là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng và xét
cho cùng, nó phản ánh những quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang tồn tại.
Theo định nghĩa trên có thể nhấn mạnh mấy điểm chínhh của hệ tư tưởng là:
+ Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng là của một giai cấp nhất định, không có
hệ tư tưởng chung của mọi giai cấp.
+ Hệ tư tưởng thể hiện thế giới quan, phương pháp luận và mục tiêu đấu tranh
của giai cấp để giành hoặc giữ chính quyền.
+ Hệ tư tưởng phản ánh vị trí, lợi ích của một giai cấp, chiến lược, sách lược
đấu tranh để giành lấy hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp đó trong xã hội.
+ Hệ tư tưởng mà chúng ta đang truyền bá, giáo dục và phát triển là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan,
phương pháp luận, là hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại ngày nay; là nền tảng tư
tưởng, lý luận của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối, chính sách của các
Đảng Cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là sự vận dụng và phát

triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện nước ta.
- Trong các xã hội có giai cấp, tất cả các giai cấp đều có tư tưởng riêng, nhưng
chỉ có giai cấp nào đại diện cho một phương thức sản xuất mới có hệ tư tưởng
riêng biệt, tư tưởng của họ mới có khả năng trở thành hệ tư tưởng.
Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại 4 hệ tư tưởng, đó là:
+ Hệ tư tưởng của giai cấp chủ nô, đại diện cho phương thức sản xuất chiếm
hữu nô lệ.
+ Hệ tư tưởng của giai cấp địa chủ, phong kiến đại diện cho phương thức sản
xuất phong kiến.
+ Hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
+ Hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, đại diện cho phương thức sản xuất Cộng sản
tương lai.
- Quá trình hình thành hệ tư tưởng của một giai cấp gắn liền với sự trưởng thành
của giai cấp đó, trước hết là sự ý thức được lợi ích của mình, qua đó mà tự giác,
đoàn kết tham gia đấu tranh vì lợi ích chung. Nhưng tư tưởng của một giai cấp
không tự động trở thành hệ tư tưởng, mà cần có những hoạt động về lý luận,
thực tiễn của các vĩ nhân, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để xây dựng
nên. Hệ tư tưởng của giai cấp chủ nô hình thành qua hoạt động của những nhà
triết học cổ đại. Hệ tư tưởng phong kiến ở Trung Quốc hình thành qua các "nhà
Nho". Ở Ấn Độ, qua các nhà hoạt động tôn giáo Hệ tư tưởng tư sản hình thành
qua các nhà " triết học ánh sáng" thế kỷ XVIII. Hệ tư tưởng vô sản hình thành
qua các nhà cách mạng vĩ đại, như C.Mac, F.Ăngghen, V.I.Lênin. Hồ Chí Minh
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị tìm mọi cách để làm cho hệ tư
tưởng của họ chiếm địa vị thống trị trong tư tưởng xã hội. Các giai cấp bị trị có tư
tưởng riêng biệt, nhưng chỉ với những giai cấp nhất định trong điều kiện nhất
định mới có hệ tư tưởng. Giai cấp nô lệ, giai cấp nông dân có tư tưởng riêng của
mình, nhưng không có hệ tư tưởng, do họ không đại diện cho một phương thức
sản xuất. Chỉ có giai cấp vô sản, sinh ra từ quá trình công nghiệp hóa trong xã
hội tư bản, đại diện cho một phương thức sản xuất mới đang xuất hiện những

tiền đề cần thiết trong xã hội đó, nên họ là giai cấp bị trị duy nhất có hệ tư tưởng
riêng biệt. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân là cơ sở vật chất để hình
thành nên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Hoạt động lý luận và thực tiễn
của những nhà tư tưởng của giai cấp vô sản, dù xuất thân từ thành phần giai
cấp nào, tự nguyện đấu tranh vì lợi ích của giai cấp vô sản đã xây dựng nên hệ
tư tưởng của giai cấp vô sản.
Công tác tuyên giáo là cụm từ chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra
của tổ chức đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hoá và khoa giáo. Công tác tuyên
giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn
vị, trường học, lực lượng vũ trang…, trong đó công tác tuyên giáo ở cơ sở có vai
trò đặc biệt quan trọng bởi vai trò nền tảng của cơ sở trong hệ thống chính trị
nước ta.

II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1. Khái niệm.
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng
nhằm xây dựng, xác lập, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, phổ biến, truyền bá
hệ tư tưởng của giai cấp, chính đảng trong quần chúng, định hướng giá trị, tạo
niềm tin và thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của mình.
Trong xã hội luôn luôn tồn tại quan hệ tư tưởng. Đó là sự tác động tự phát hay
tự giác của người này, giai cấp này vào tư tưởng của người khác, giai cấp khác
và ngược lại. Trong xã hội có phân chia giai cấp, các giai cấp đối kháng nhau về
những lợi ích căn bản có yêu cầu "sản xuất " ra hệ tư tưởng để luận chứng cho
sự tồn tại và lợi ích của giai cấp họ, truyền bá hệ tư tưởng đó trong xã hội để
gây ảnh hưởng, lôi cuốn, thúc đẩy quần chúng hành động theo mình. Vì vậy,
trong xã hội xuất hiện các quá trình tư tưởng: xây dựng, hoàn thiện, phát triển,
phổ biến hệ tư tưởng.
Các giai cấp thống trị, thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng và hệ thống các
thiết chế tư tưởng luôn luôn tìm mọi cách tác động, chi phối các quan hệ tư
tưởng và quá trình tư tưởng, nhằm biến hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ

tư tưởng thống trị trong đời sống xã hội. Ngược lại, các giai cấp bị trị cũng có thể
thông qua các nhà tư tưởng của giai cấp mình hình thành nên hệ tư tưởng và
truyền bá hệ tư tưởng đó qua nhiều con đường khác nhau ( hợp pháp và không
hợp pháp, công khai và bí mật) đến quần chúng.
* Các hình thái (bộ phận cấu thành) của công tác tư tưởng:
Khi xem xét công tác tư tưởng như là một quá trình liên tục, V.I.Lênin xác định
có ba hình thái chủ yếu là:
- Hình thái lý luận.
Đây là khâu đầu tiên của quá trình tư tưởng, nhằm "sản xuất" ra hệ tư tưởng,
không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ tư tưởng để đáp ứng với yêu cầu của
thực tiễn. Hình thái lý luận bao gồm công tác nghiên cứu lý luận nhằm giải quyết
những yêu cầu của thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận đã có, chỉ
đạo vận dụng vào trong thực tiễn phong phú và đa dạng, trở thành đường lối,
quan điểm phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong mỗi thời kỳ. Nghiên cứu lý luận
luôn luôn gắn liền với tổng kết thực tiễn, vì "thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý".
Hình thái lý luận còn bao gồm giáo dục lý luận trong xã hội.
- Hình thái tuyên truyền.
Đây là hoạt động chủ yếu để phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng lý luận, đường lối,
quan điểm của Đảng trong Đảng và trong xã hội. Mục đích của tuyên truyền là
để hệ tư tưởng chiếm đị vị thống trị trong xã hội.
- Hình thái cổ động.
Đó là hoạt động cổ vũ, động viên quần chúng, lôi kéo quần chúng tham gia các
phong trào hành động, biến tư tưởng, nhận thức của quần chúng thành hoạt
động thực tiễn. Đây là khâu "chuyển hóa" nhận thức thành hành động của công
tác tư tưởng.
* Các yếu tố trong công tác tư tưởng:
- Chủ thể công tác tư tưởng
Chủ thể công tác tư tưởng là những giai cấp, những tổ chức, những cộng đồng
xã hội mà lợi ích của họ gắn liền với các hoạt động tư tưởng. Nó bao gồm chủ
thể của hệ tư tưởng (một giai cấp, một chính đảng); các cơ quan và thiết chế tư

tưởng được chủ thể hệ tư tưởng tổ chức ra, có chức năng sáng tạo, bảo quản,
lưu giữ, truyền bá hệ tư tưởng (thường đồng nhất với hệ thống chính trị của giai
cấp cầm quyền) và các nhà tư tưởng.
Trong xã hội ta, chủ thể công tác tư tưởng là toàn Đảng (bao gồm toàn thể đảng
viên trên các vị trí công tác của mình), toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó, ban
tuyên giáo các cấp là một trong những lực lượng chuyên trách làm công tác tư
tưởng.
- Khách thể của công tác tư tưởng.
Khách thể của công tác tư tưởng là đối tượng chịu sự tác động về mặt tư tưởng
của chủ thể. Khách thể của công tác tư tưởng theo ý nghĩa đó trước hết là nhận
thức, thái độ, niềm tin và hành động của các cá nhân, tập thể, giai cấp, tầng
lớp trong toàn xã hội. Khách thể của công tác tư tưởng còn là ý thức xã hội,
các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người đang tồn tại trong xã hội.
Xét theo mối quan hệ của công tác tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, cán bộ,
đảng viên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của công tác tư tưởng.
- Nội dung công tác tư tưởng.
Nội dung công tác tư tưởng là các mặt hoạt động mà chủ thể công tác tư tưởng
phải tiến hành nhằm thực hiện mục đích đặt ra.
Tổng hợp các hình thái và xuất phát từ mục đích của công tác tư tưởng, nội
dung của công tác tư tưởng bao gồm:
+ Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, hình thành và phát triển hệ tư tưởng,
lý luận, vận dụng các quan điểm lý luận để xác định đường lối, quan điểm, chủ
trương, giải pháp trong mỗi thời kỳ. (Ở cấp cơ sở chủ yếu là tổng kết thực tiễn).
+ Giáo dục lý luận chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học, nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
+ Tuyên truyền và cổ động chính trị trong xã hội, vận động, thuyết phục, tổ chức,
cổ vũ, động viên quần chúng, làm cho hệ tư tưởng vô sản chiếm địa vị thống trị
trong tư tưởng xã hội.
+ Lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động của các thiết chế công tác tư tưởng (các cơ
quan nghiên cứu lý luận, các nhà trường, phương tiện thông tin đại chúng, hoạt

động văn hóa, văn nghệ ), thực hiện công tác tư tưởng.
+ Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Phương pháp công tác tư tưởng của Đảng.
Phương pháp công tác tư tưởng của Đảng là con đường, cách thức mà chủ thể
sử dụng để truyền đạt và đối tượng sử dụng để lĩnh hội, tiếp nhận nội dung.
Phương pháp công tác tư tưởng có nhiều loại, nhưng có thể khái quát thành 3
nhóm:
+ Nhóm phương pháp dùng lời nói.
+ Nhóm các phương pháp trực quan.
+ Nhóm các phương pháp thực tiễn
- Phương tiện công tác tư tưởng.
Phương tiện công tác tư tưởng là những công cụ công tác của chủ thể và công
cụ mà nhờ nó đối tượng tiếp nhận, lĩnh hội nội dung. Ở nước ta, khi tiến hành
công tác tư tưởng thường sử dụng 5 nhóm phương tiện ( kênh) sau đây:
+ Hệ thống trường, lớp của Đảng, các đoàn thể chính trị, giáo dục quốc dân và
công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống đó.
+ Các phương tiện thông tin, tuyên truyền đại chúng.
+ Hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên do Đảng tổ chức, lãnh đạo, quản lý
từ Trung ương đến cơ sở.
+ Các thiết chế văn hóa và hoạt động của các thiết chế đó, như nhà văn hoá
+ Sinh hoạt, hội họp của các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể
- Hiệu quả công tác tư tưởng.
Hiệu quả công tác tư tưởng được đánh giá thông qua những chuyển biến nhận
thức tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện trong những
kết quả kinh tế, chính trị, xã hội, phong trào theo các mức độ sau: Hiệu quả lâu
dài, hiệu quả trước mắt, hiệu quả trực tiếp
Đánh giá hiệu quả của công tác tư tưởng được thực hiện bằng nhiều hình thức.
Về nhận thức, có thể đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng qua điều tra dư luận
xã hội. Về thực tiễn, hiệu quả công tác tư tưởng được đánhh giá qua các hành
động cách mạng của quần chúng, các phong trào, sự chuyển biến trong các lĩnh

vực kinh tế, xã hội ,văn hóa
2. Vị trí, vai trò của công tác tư tưởng ở cơ sở.
a. Vị trí: công tác tư tưởng ở cơ sở là một bộ phận hợp thành trong hoạt động
lãnh đạo của tổ chức đảng, là một mặt công tác trọng yếu của chính quyền và
các tổ chức, đoàn thể chính trị ở cơ sở. Công tác tư tưởng ở cơ sở có vị trí và ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở cơ sở; xây dựng
cơ sở vững mạnh toàn diện.
b. Vai trò:
- Công tác tư tưởng ở cơ sở góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh, có sức chiến đấu cao và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
- Có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với những người dân, khơi dậy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
quần chúng nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành
hiện thực, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Trong thời kỳ mới của cách mạng, công tác tư tưởng ở cơ sở có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng cơ sở vững mạnh, tạo nên sự nhất trí, tin tưởng cao
trong toàn Đảng và nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, văn hóa ở cơ sở (nhất là việc xây dựng nông thôn mới) .
* Vai trò của công tác tư tưởng trong đời sống xã hội:
- Công tác tư tưởng thuộc lĩnh vực ý thức xã hội, sản xuất và hưởng thụ sản
phẩm tinh thần. Theo chủ nghĩa Mac-Lênin, ý thức xã hội có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại đối với sản xuất và đời sống vật chất của xã hội. Vì vậy,
nhận thức tư tưởng góp phần làm thay đổi hiện thực khách quan thông qua hoạt
động vật chất của con người. C.Mác đã chỉ rõ: Vũ khí phê phán không thể thay
thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất. Nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất khi đã xâm nhập
vào quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Công tác tư tưởng

có vị trí quan trọng hàng đầu.
- Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đều chủ động tiến hành công tác tư
tưởng với mục đích tác động vào ý thức xã hội nhằm phổ biến tư tưởng của họ,
định hướng phát triển lĩnh vực tinh thần, đạo đức xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp
trong lĩnh vực tư tưởng lý luận là cuộc đấu tranh ai thắng ai rất quyết liệt, không
khoan nhượng, nhằm" giành trái tim, khối óc của quần chúng". Sự sụp đổ đau
xót của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có một trong những nguyên
nhân là do một số Đảng Cộng sản và công nhân cầm quyền đã coi nhẹ công tác
tư tưởng, buông lỏng công tác quản lý và chỉ đạo báo chí, văn hóa, văn nghệ
- Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản là hoạt động đa dạng và có chủ đích
nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, hình thành
niềm tin, định hướng giá trị, xây dựng thế giới quan khoa học để thực hiện
thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Khi Đảng lãnh đạo chính
quyền, công tác tư tưởng là một trong những phương thức lãnh đạo chủ yếu của
Đảng trong hệ thống chính trị.
- Vai trò nổi bật nhất của công tác tư tưởng trong xã hội là góp phần quan trọng
để hình thành thế giới quan, phương pháp luận, định hướng cho sự phát triển
của các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, văn hóa, văn nghệ Có thể
nói công tác tư tưởng có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực nhạy cảm và thời điểm bước ngoặt của cách mạng, công tác tư
tưởng có vai trò và tác dụng rất to lớn trong việc định hướng đối với tư tưởng xã
hội.
3. Nội dung của công tác tư tưởng ở cơ sở.
Từ khái niệm công tác tư tưởng nêu trên, theo quan điểm "toàn Đảng làm công
tác tư tưởng", công tác tư tưởng ở cơ sở cần được quán triệt trong toàn bộ các
hoạt động của mọi tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên,
đoàn viên các đoàn thể chính trị ở cơ sở. Xét theo những hoạt động chuyên môn
đặc thù, có thể nêu các nội dung chủ yếu của công tác tư tưởng ở cơ sở gồm:
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng: là
nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng và nâng cao nhận thức lý luận

chính trị, lòng yêu nước, tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ở cơ sở, thông qua việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, thông tin, tuyên
truyền các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ
chức học tập lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân
dân địa phương. Trên cơ sở đó, tạo ra sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm thực
hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
- Công tác tuyên truyền: nhằm phổ biến, truyền bá đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, kỹ thuật, công
nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông tin kịp thời tình hình thời sự, chính trị…
định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động đến tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng của quần chúng ở cơ sở.
- Công tác cổ động quần chúng: nêu gương tốt, điển hình tiên tiến, thúc đẩy
hành động của quần chúng qua các phong trào thi đua, nhằm biến nhận thức tư
tưởng, lý luận của quần chúng thành hành động cách mạng của quần chúng một
cách cụ thể, rộng rãi
- Công tác văn hóa, văn nghệ: giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy truyền
thống, xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương
- Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng: dư luận xã hội và định hướng tư
tưởng, dư luận xã hội ở cơ sở
- Đấu tranh tư tưởng: phê phán những quan điểm sai trái, phản động, tin đồn,
tài liệu xấu, độc hại lan truyền tại cơ sở.
4. Nguyên tắc, phương châm công tác tư tưởng ở cơ sở.
a. Nguyên tắc công tác tư tưởng:
- Nguyên tắc tính Đảng
Tính Đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, biểu hiện ở chỗ,
công tác tư tưởng luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,
quan điểm, đường lối của Đảng; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh không khoan nhượng với những trào lưu tư tưởng
thù địch, phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc. Công
tác tư tưởng là một bộ phận trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, đặt dưới sự

lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, liên tục, rộng khắp của Đảng. Sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác tư tưởng “càng triệt để càng tốt" và "không trừ một ngoại lệ
nào", vì như Lênin nói: Ở đâu không có tư tưởng vô sản thì ngay lập tức lấp vào
đó là tư tưởng tư sản, không có tư tưởng trung gian nào.
- Nguyên tắc tính khoa học
Tính khoa học của công tác tư tưởng biểu hiện ở chỗ, công tác tư tưởng được
tiến hành trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của lĩnh
vực tư tưởng. Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến
hành theo quan điểm lịch sử - cụ thể, phù hợp với trình độ đối tượng và đáp ứng
nhu cầu và định hướng thông tin của đối tượng. Công tác tư tưởng phải sử dụng
các phương tiện công tác ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc tính thống nhất lý luận với thực tiễn
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ
công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở về phục vụ thực tiễn.
Đồng thời, thực tiễn công tác tư tưởng phải được soi sáng, định hướng bằng lý
luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học, gắn lý luận với thực
tiễn cách mạng. Tổng kết thực triễn là phương pháp căn bản để thực hiện sự
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ
nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của
công tác tư tưởng và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng.
b. Phương châm công tác tư tưởng.
Phương châm công tác tư tưởng là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt
động công tác tư tưởng ở các cấp, các ngành.
Phương châm công tác tư tưởng bao gồm 6 nội dung chủ yếu là:
- công tác tư tưởng phải gắn chặt với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong
trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước; kiến thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, phẩm chất và đạo đức cách
mạng. Kết hợp giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản với giáo dục tình hình và
nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác kiểm tra.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách
mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức; kết
hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
- Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán triệt để những
biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm
khắc khuyết điểm.
5. Nhiệm vụ công tác tư tưởng ở cơ sở.
Công tác tư tưởng ở cơ sở có sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên định, vững vàng
trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm
sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn ở cơ sở góp phần phát triển, hoàn thiện
đường lối và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Tiến hành phổ
biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực
thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện của
chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện
có hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của địa phương, cơ sở, góp phần
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
con người mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt các lĩnh vực
khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua yêu
nước và các phong trào xã hội khác ở cơ sở, coi trọng việc bồi dưỡng, nhân
rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính
trị của địa phương trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động "Diễn biến hòa bình", cơ
hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết toàn dân ở cơ sở. Kịp thời giải quyết
các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện
tập thể, không có điểm nóng ở cơ sở.

























CHUYÊN ĐỀ 2:
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA
VÀ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO.

I. KHÁI NIỆM
Trong thực tiễn, hoạt động tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chúng
ta gặp cụm từ "Công tác tư tưởng - văn hóa”. Cụm từ này được sử dụng phổ
biến khi thành lập Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương trên cơ sở hợp nhất Ban
Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương năm 1989.
Lĩnh vực văn hóa ở đây được hiểu chủ yếu là khía cạnh tư tưởng, chính trị của
văn hóa; sự chỉ đạo, định hướng của cấp ủy đảng đối các hoạt động văn hóa -
văn nghệ. Hệ tư tưởng bao giờ cũng là cốt lõi của một nền văn hóa trong xã hội
có giai cấp. Đảng đã ta khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy của sự phát triển kinh tế - xã hội”
3
.
Đảng lãnh đạo và chỉ đạo lĩnh vực văn hóa. Nhà nước quản lý các hoạt động
văn hóa theo đường lối, quan điểm của Đảng, được thể chế hóa thành pháp
luật.
Tuyên giáo là một ngành, một lĩnh vực công tác của Đảng. Các ban tuyên giáo là
cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng, thực hiện chức năng do cấp ủy giao cho,
giúp cấp ủy trong việc thực hiện các nhiệm vụ của công tác tư tưởng - văn hóa,
khoa học, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác
Các cơ quan tuyên giáo là lực lượng chủ yếu giúp cấp ủy thực hiện công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và trực tiếp tác chiến trong lĩnh vực tư tưởng - văn
hóa, khoa học, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác.


II. LỰC LƯỢNG LÀM CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ.
Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, là trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên, đồng thời phải có lực lượng chuyên trách, có nghiệp vụ và kinh
nghiệm công tác. Ngay từ khi thành lập Đảng ta đã thành lập Ban Tuyên giáo -
cơ quan tham mưu và giúp việc cấp uỷ thực hiện công tác tư tưởng của Đảng.
1. Thành lập ban tuyên giáo đảng uỷ cơ sở.
Ban tuyên giáo cơ sở do cấp uỷ cử ra, nhằm giúp cấp uỷ thực hiện công tác
tuyên giáo trên địa bàn.
a. Chức năng của ban tuyên giáo cơ sở, gồm:
+ Tham mưu và giúp việc cho cấp uỷ về các mặt công tác tư tưởng, văn hoá,
khoa giáo, biên soạn, bổ sung lịch sử đảng bộ địa phương.
+ Trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động tuyên giáo trên địa bàn.
b. Nhiệm vụ các thành viên:
- Ban tuyên giáo cơ sở nên có số lượng từ 5 đến 7 người. Cơ cấu tổ chức bao
gồm: Trưởng ban, Phó trưởng ban và một số ủy viên.
Có thể cơ cấu và nhiệm vụ như sau:
+ Trưởng ban là đồng chí bí thư, hoặc phó bí thư thường trực cấp ủy. Nhiệm vụ
của trưởng ban: Phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước cấp ủy về mọi hoạt
động của ban tuyên giáo và có nhiệm vụ cụ thể: xây dựng kế hoạch hoạt động
của ban tuyên giáo sau mỗi nhiệm kỳ đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở. Chủ trì các
cuộc họp của ban, nắm tình hình hoạt động của ban về công tác tư tưởng - văn
hóa, khoa giáo, sưu tầm lịch sử địa phương. Báo cáo thường xuyên và định kỳ
với cấp ủy và ban tuyên giáo cấp huyện. Chịu trách nhiệm chính trong việc tham
mưu cho cấp ủy triển khai, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chínhh
sách, pháp luật của Nhà nước trong tổ chức cơ sở đảng. Phụ trách các bộ phận,
các ngành trong khối tư tưởng - văn hóa và một số chi bộ hoặc tổ đảng.
+ Phó trưởng ban là đồng chí phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
(phó chủ tịch phụ trách văn hóa - xã hội). Nhiệm vụ của Phó trưởng ban: Giúp
việc cho Trưởng ban, điều hành công việc khi trưởng ban đi vắng hoặc được ủy
quyền. Phụ trách các bộ phận, các ngành thuộc khối Khoa giáo. Phụ trách một

số chi bộ hoặc tổ đảng.
+ Các thành viên là đồng chí chủ tịch, hoặc phó chủ tịch Uỷ ban mặt trân Tổ
quốc cùng cấp; Bí thư đoàn thanh niên, cán bộ phụ trách văn hóa, Chủ tịch hội
Cựu chiến binh, hiệu trưởng trường trung học, tiểu học tại xã Các thành viên có
nhiệm vụ: Căn cứ vào công tác của mỗi người mà phân công công việc cụ thể.
Mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm trước Trưởng ban về công việc được giao.
Nhiệm vụ cụ thể: 4 nhiệm vụ đã nêu trong tài liệu
2. Phối hợp lực lượng làm công tác tư tưởng ở cơ sở.
a. các lực lượng chủ yếu làm công tác tư tưởng ở cơ sở.
b. Các hình thức phối hợp lực lượng.

III. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI.
Thực trạng tư tưởng và công tác tư tưởng ở cơ sở trong giai đoạn hiện
nay.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay" với 3 nội dung trọng yếu : (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền trong mối quan hệ với tập
thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị. Ba nội dung này có quan hệ mật thiết
với nhau, trong đó nội dung thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cũng là vấn đề
cấp bách nhất.
1. Cơ sở và vai trò của cơ sở.
Hệ thống hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm 4
cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành
phố, thị xã trực thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn. Vị trí, vai trò quan trọng của cơ
sở đã được quy định trong nhiều nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Liên quan đến công tác tư tưởng, cơ sở có vị trí và vai trò đặc biệt quan

trọng bởi các yếu tố sau :
- Cơ sở là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt vật chất và
tinh thần, thực hiện các quan hệ xã hội của toàn thể nhân dân. Mọi sự biến động
ở cơ sở, một khi đã trở thành phong trào trên phạm vi rộng lớn đều có tác động
to lớn đến toàn xã hội, kể cả những tác động tích cực và tiêu cực.
- Cơ sở là nền tảng của tổ chức, bộ máy hành chính nhà nước, là nơi thể hiện
trực tiếp quyền lực của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là nơi các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện
thông qua những hoạt động cụ thể của chính quyền và nhân dân.
- Cơ sở là nơi các cơ quan đảng và nhà nước, đoàn thể có quan hệ trực tiếp với
dân, hàng ngày nhận được những phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,
trực tiếp giải quyết những khúc mắc về tư tưởng của nhân dân.
- Tổ chức đảng ở cơ sở, như Điều lệ Đảng quy định, là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân chính trị ở cơ sở. Xây dựng đảng về chínhh trị, tư tưởng và tổ chức
trước hết phải quan tâm đến xây dựng Đảng về tư tưởng ngay từ cơ sở.
Từ vị trí, vai trò và đặc điểm của cơ sở trên đây, công tác tư tưởng ở cơ sở, một
trong 3 lĩnh vực chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công tác tư tưởng của
Đảng nói riêng. Hướng về cơ sở, tăng cường công tác tư tưởng ở cơ sở luôn
luôn là một trọng tâm trong chương trình công tác của ngành tuyên giáo và các
ngành, các cấp khác trong hệ thống chính trị.
* Hướng về cơ sở, tăng cường công tác tuyên giáo ở cơ sở là yêu cầu của
công tác tuyên giáo của Đảng hiện nay.
- Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác tư tưởng trong Đảng và toàn xã hội.
Những năm gần đây, cùng với những thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới.
Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đại đa số cán bộ, đảng viên và
nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào công cuộc đổi mới. Đó là kết quả quan trọng
của sự nghiệp đổi mới, có sự đống góp của ngành tuyên giáo.
Với những tác động tự phát của cơ chế kinh tế thị trường, cùng với những yếu
kém của công tác tư tưởng đã được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI, Nghị quyết

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa X, tình hình tư tưởng
ở cơ sở có những biến động phức tạp. Tăng cường công tác tư tưởng, đặc biệt
là ở cơ sở, là một yêu cầu cấp bách nhằm tăng cường sự thống nhất về chínhh
trị trong toàn Đảng, toàn dân, giữ vững ổn định chính trị. Đại hội XI với tiêu đề
là "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
- Trong những năm tới, đất nước ta sẽ có những chuyển biến rất cơ bản và quan
trọng, có tác động sâu sắc đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó
là quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó có các quá trình xã hội hóa nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tác
động mạnh mẽ đến đời sống và tư tưởng mỗi người. Do đó, đòi hỏi phải tăng
cường công tác tư tưởng ở cơ sở.
- Coi trọng cơ sở, coi cơ sở là điểm xuất phát, là nội dung chính của mọi hoạt
động và là mục đích của các hoạt động tư tưởng của Đảng theo định hướng
sau:
+ Hướng mạnh về cơ sở phải tăng cường tiềm lực vật chất, cán bộ cho cơ sở.
+ Nội dung tuyên truyền của hệ thống thông tin đại chúng, văn hóa, văn nghệ
phải hướng về cơ sở, phục vụ cho yêu cầu của cơ sở.
+ Các tổ chức đảng và chính quyền cấp trên có quy định và có kế hoạch giúp đỡ
cơ sở gải quyết kịp thời các vấn đề tư tưởng nảy sinh tại cơ sở.
+ Tăng cường cung cấp thông tin, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ
tuyên giáo cơ sở.
2. Một số kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động công tác tư tưởng ở cơ
sở.
a. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ và ban tuyên giáo các cấp đối
với công tác tư tưởng ở cơ sở.

b. Phát huy vai trò của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong hệ
thống chính trị ở cơ sở để tiến hành công tác tư tưởng


c. Bám sát thực tiễn cuộc sống ở cơ sở, kịp thời giải đáp những đòi hỏi củ thực
tiễn làm cho công tác tư tưởng có sức sống và hiệu quả cao.

d. Phát huy nhân tố tích cực trong nhân dân, dựa vào nhân dân để tuyên truyền
giáo dục, vận động nhân dân
3. Đổi mới công tác tư tưởng ở cơ sở.
a. Đổi mới nhận thức của cấp uỷ và nhận thức của cán bộ, đảng viên đói với
công tác tư tưởng ở cơ sở.
b. Đổi mới nội dung công tác tư tưởng ở cơ sở
c. Đổi mới phương thức tiến hành công tác tư tưởng ở cơ ở.
d. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với công tác tư tưởng














CHUYÊN ĐỀ 3:
CÔNG TÁC GIÁO DỤC LUẬN CHÍNH TRỊ
Ở CƠ SỞ


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ.
1. Khái niệm.
a. Một số khái niệm liên quan:
- Lý luận: là các khái niệm, phạm trù, quy luật được khái quát từ hoạt động thực
tiễn của con người.
- Lý luận chính trị: những vấn đề lý luận gắn liền với đời sống chính trị của xã
hội (cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp xung quanh vấn đề
giành và giữ chính quyền).
- Công tác lý luận chính trị: là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, xây dựng, hoàn
thiện cương lĩnh, đường lối chính trị, chủ trương, chính sách của đảng trong mỗi
giai đoạn cách mạng. Công tác lý luận gồm:
+ Nghiên cứu lý luận chính trị: là quá trình sản xuất tri thức chính trị, gồm
nghiên cứu lý thuyết, tổng kết thực tiễn để hình thành các khái niệm, phạm trù,
quy luật phản ánh sự vận động của thực tiễn phục vụ đấu tranh chính trị.
+ Giáo dục lý luận chính trị: là hoạt động phổ biến, truyền bá lý luận chính trị
đến các đối tượng xác định.
b. Công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng:
Là một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân, nhằm xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức
tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của
đất nước.
- Nội dung: Thực hiện truyền bá: Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
- Đối tượng: Cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo từng loại chương trình có
đối tượng học tương ứng.

- Mục đích:
Hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học; tư tưởng, bản lĩnh chính
trị, niềm tin; năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
2. Vai trò công tác giáo dục lý luận chính trị.
Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng, xuất phát từ những yếu tố sau:
- Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá
lý luận cách mạng vào phong trào công nhân và quần chúng.
- Công tác giáo dục lý luận chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
- Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng,
xây dựng con người mới.
3. Yêu cầu, nhiệm vụ công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới.
a. Bối cảnh mới của công tác giáo dục lý luận chính trị:
- Thuận lợi.
+ Công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, thế và
lực của nước ta mạnh lên rất nhiều, chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển,
quốc phòng - an ninh được bảo đảm, vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao.
+ Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hình thành trên những nét cơ
bản.
- Khó khăn.
+ Tình hình trong nước và thế giới có những biến động rất phức tạp.
+ Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới chưa được
tổng kết kịp thời hoặc chưa được làm sáng tỏ, còn những ý kiến khác nhau cả
trên những vấn đề cụ thể và một số vấn đề cơ bản.
+ Các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng trên cả lĩnh vực lý luận
và thực tiễn.
b. Yêu cầu của công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới:

- Tạo ra sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng, có ý chí nắm bắt cơ hội,
vượt qua thách thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
- Xây dựng con người Việt Nam đủ khí phách, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và
kiến thức trong thời kỳ mới.
- Phát huy tinh thần cách mạng tiến công, giữ vững và tăng cường trận địa tư
tưởng, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn và hành động "Diễn biến hoà bình" của
các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá.
c. Nhiệm vụ công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới:
- Tiếp tục giáo dục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới
của Đảng.
- Giáo dục sâu rộng trong Đảng và trong nhân dân đường lối, chủ trương của
Đảng (thể hiện trong Cương lĩnh, Chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, chương trình,
kết luận … của Đảng), chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng
lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Giáo dục nâng cao cảnh giác, chống âm mưu, thủ đoạn và hành động "Diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

II. CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ.
1. Đối tượng, nội dung công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở.
- Đối tượng:
+ Đảng viên, cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cơ sở (ngoài diện đào
tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh).
+ Đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
+ Mọi đối tượng ở cơ sở.

- Nội dung:
Những vấn đề thiết thực nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, giáo dục truyền thống, bồi dưỡng nghiệp vụ … (theo hướng dẫn của Ban
Tuyên giáo Trung ương).
2. Tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở.
- Ban Tuyên giáo, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện có nhiệm vụ mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng.
- Cấp uỷ, Ban Thường vụ cấp uỷ cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác giáo
dục lý luận chính trị ở cơ sở.
- Ban Tuyên giáo cơ sở tham mưu cấp uỷ tổ chức học tập các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng.
- Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân tổ chức học tập chính trị cho đoàn viên, hội
viên của mình.
- Giáo viên các trường học ở cơ sở tuyên truyền, giáo dục chính trị cho học sinh
theo các chương trình thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Một số vấn đề về nghiệp vụ công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở.
a. Về giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sâu rộng trong
nhân dân; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác cho cán bộ, đảng viên:
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm cho các đối tượng.
+ Căn cứ yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở, cấp uỷ, chính quyền, mặt trận
và các đoàn thể cơ sở dự kiến số lượng người học theo từng loại chương trình
để đưa vào kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở.
+ Khi có thông báo mở lớp, cấp uỷ cơ sở có trách nhiệm cử cán bộ, đảng viên đi
học; tạo điều kiện thuận lợi cho người được cử đi học.
+ Phối hợp với đơn vị mở lớp theo dõi, nắm tình hình học tập của cán bộ, đảng
viên được cử đi học.
+ Sau khi học xong chương trình, cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể tạo điều
kiện, khuyến khích cán bộ, đảng viên vận dụng những kiến thức đã học vào thực
tế công tác của mình.

- Thực hiện các hình thức tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị sinh động ở cơ
sở: thi tìm hiểu lịch sử truyền thống dân tộc, về Đảng, Bác Hồ, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thi về nghiệp vụ công tác đảng,
chính quyền, đoàn thể…
- Tổ chức cho cán bộ chủ chốt học tập các chương trình chuyên đề nhân các
ngày lễ, kỷ niệm.
b. Về triển khai học tập nghị quyết của Đảng:
- Công tác chỉ đạo học tập, quán triệt và thực hiện nghị quyết:
+ Xây dựng kế hoạch học tập.
Trên cơ sở kế hoạch của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cơ sở phải chỉ đạo xây dựng
kế hoạch cụ thể triển khai học tập, quán triệt ở đơn vị mình, bảo đảm đúng thời
gian, tiến độ theo yêu cầu của cấp trên.
+ Xây dựng chương trình hành động.
Khi xây dựng chương trình hành động phải gắn với nhiệm vụ chính trị của địa
phương: xác định, lựa chọn những vấn đề bức xúc, trọng tâm để đưa vào
chương trình; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân phụ trách từng công việc,
thời gian hoàn thành từng phần việc.
+ Lựa chọn, bố trí báo cáo viên.
Báo cáo viên trước hết phải là những cán bộ chủ chốt của cấp uỷ; phải có trình
độ lý luận, kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng truyền thụ kiến thức, giải đáp vấn
đề, có tâm huyết, trách nhiệm với nhiệm vụ báo cáo viên. Cấp uỷ căn cứ nội
dung của từng nghị quyết để phân công báo cáo viên truyền đạt đúng với
chuyên môn, sở trường của báo cáo viên.
Báo cáo viên có thể do cấp uỷ cấp trên phân công về truyền đạt nghị quyết
nhưng cấp uỷ cơ sở phải là người chủ trì tổ chức thảo luận, tiếp thu ý kiến để
hoàn chỉnh chương trình hành động của đơn vị mình.
- Tổ chức quán triệt, học tập:
+ Hình thức tổ chức:
Đối với những cơ sở số lượng đảng viên ít, cấp uỷ có thể tổ chức quán triệt cho
toàn thể đảng viên, cán bộ, công chức xã (phường, thị trấn), cán bộ thôn (làng,

tổ dân phố). Sau lớp học ở xã, cấp uỷ lựa chọn, phân công cấp uỷ viên phụ trách
phối hợp với chi bộ thôn (làng, tổ dân phố) để phổ biến nghị quyết cho nhân dân.
Đối với những cơ sở đông đảng viên, cấp uỷ có thể mở 2-3 lớp nối tiếp nhau.
Hoặc có thể tổ chức học tập kỹ cho cán bộ, công chức xã, cấp uỷ viên, bí thư chi
bộ trực thuộc; sau đó giao chi bộ thôn tổ chức quán triệt cho số đảng viên không
giữ chức vụ và nhân dân.
+ Chương trình quán triệt, học tập: Mỗi lớp học nghị quyết ở cơ sở nhất thiết
phải bảo đảm 3 nội dung: Quán triệt những nội dung cơ bản của nghị quyết; báo
cáo chương trình hành động của cấp uỷ thực hiện nghị quyết; thảo luận, trao đổi,
giải đáp. Cần bố trí thời gian phù hợp cho mỗi nội dung.
- Một số yêu cầu đổi mới việc học tập nghị quyết ở cơ sở:
+ Việc học tập nghị quyết không phải một lần là xong; cấp uỷ phải chỉ đạo cán
bộ, đảng viên tiếp tục tự nghiên cứu, học tập nghị quyết để phục vụ nhiệm vụ
chính trị theo chức danh.
+ Cấp uỷ tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên tự nghiên cứu, học tập
nghị quyết.
+ Đổi mới phương thức quán triệt, học tập nghị quyết ở cơ sở: việc quán triệt
nghị quyết phải làm nổi bật được tinh thần nghị quyết, chuyển tải những nội
dung cơ bản của nghị quyết đến người học; phân tích sâu những khái niệm mới,
những chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp mới; gợi ý những vấn đề liên
hệ thực tiễn địa phương để người học suy nghĩ vận dụng và đề xuất ý kiến; đối
với với những nghị quyết chuyên đề, nội dung nghị quyết liên quan đến lĩnh vực
thuộc đối tượng nào thì đối tượng đó phải được nghiên cứu sâu để vận dụng
thực hiện.
- Một số vấn đề cần lưu ý khi truyền đạt nghị quyết ở cơ sở:
+ Bố cục, kết cấu bài truyền đạt phải rõ ràng, súc tích, có trọng tâm, trọng điểm,
không dàn trải.
+ Khi truyền đạt cần đi sâu phân tích, làm rõ từng nội dung của nghị quyết, nhất
là những khái niệm, nội dung mới. Truyền đạt tuần tự từng nội dung, khi nội
dung này được sang tỏ mới chuyển sang nội dung khác, tránh lối truyền đạt

luyên thuyên, quanh co, xa rời trọng tâm nghị quyết.
+ Phải có nghệ thuật truyền đạt phù hợp với đối tượng; có gắng sử dụng ngôn
ngữ dễ hiểu nhất đối với người học; có thể sử dụng tiếng nói địa phương để
truyền đạt nghị quyết.
+ Kết thúc buổi truyền đạt phải hệ thống lại những nội dung, chốt gọn vấn đề.
Dành thời gian để người học trao đổi, giải thích thêm những nội dung người học
chưa hiểu.
c. Về giáo dục chính sách, pháp luật của Nhà nước:
- Mọi đảng viên, cán bộ, công chức có trách nhiệm học tập, nghiên cứu đẻ nắm
vững, thực hiện nghiêm túc và phổ biến, vận động nhân dân chấp hành đúng
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Cấp uỷ, chính quyền cơ sở có kế hoạch cho cán bộ, đảng viên, nhân dân
nghiên cứu các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khơi dậy phong trào tìm
hiểu, học tập, nghiên cứu và chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Hình thức giáo dục pháp luật.
+ Thông qua sinh hoạt chi bộ đảng, sinh hoạt đoàn thể, các cuộc họp thôn, làng,
tổ dân phố.
+ Thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các phong trào xây dựng đời sống

×