Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 109 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========


LÊ THỊ VINH


ĐA DẠNG HÓA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC






HÀ NỘI – 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========




LÊ THỊ VINH


ĐA DẠNG HÓA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan


HÀ NỘI - 2012

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu sau hơn
70 năm tồn tại với nhiều kỳ tích là bài học khiến chúng ta phải suy ngẫm.
Trong các nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ, ngoài sự chống phá của các thế lực thù
địch, những nguyên nhân chủ quan từ phía nội bộ các đảng cầm quyền, không
thể không kể đến nguyên nhân từ chính bản thân cơ chế quản lý kinh tế. Chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và

sở hữu tập thể ra đời trong điều kiện lực lượng sản xuất ở trình độ thấp đã
không phát huy đúng những ưu thế vốn có của nó. Chế độ công hữu thuần
nhất, gắn với cơ chế kế hoạch hóa quan liêu và phương thức phân phối theo
kiểu bình quân chủ nghĩa kéo dài trong nhiều năm đã làm suy yếu nền kinh tế,
dẫn đến khủng hoảng. Qua thực tiễn tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa và những trì trệ yếu kém đã bộc lộ, chúng ta không khó nhận thấy sự
tồn tại thuần nhất của công hữu không đủ sức cạnh tranh trước xu thế quốc tế
hóa và hội nhập hiện nay. Phát triển nền kinh tế đa hình thức sở hữu, đa thành
phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
sự quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo là yêu cầu khách quan
và nhu cầu nội tại của bản thân nền kinh tế nước ta.
Tình hình thế giới hiện nay vẫn là cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh đó, quá trình đa dạng hóa
các hình thức sở hữu ở Việt Nam đang vận động giữa hai xu hướng: định
hướng lên chủ nghĩa xã hội và tự phát phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Do vậy, trước diễn biến ngày càng phức tạp của tình hình thế giới, việc xác
định đúng đắn những bước đi trên con đường xây dựng và phát triển đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội mà dân tộc ta đã lựa chọn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng.

4
Sở hữu là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố cấu thành của quan
hệ sản xuất. Giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề cơ bản trong việc
xác định mô hình cũng như phương hướng phát triển nền kinh tế của mỗi
quốc gia. Những tác động của thời cuộc đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự thay
đổi của sở hữu và những quan niệm của con người về sở hữu. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa, đứng trước những thời cơ và thách thức của thời đại, trước yêu
cầu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam nhất thiết
phải tiếp tục giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu.

Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm
1986. Từ đó đến nay, vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, xung quanh các vấn đề về bản chất của sở hữu, sự tồn
tại và vai trò của các hình thức sở hữu hiện nay vẫn còn rất nhiều ý kiến khác
nhau. Thành tựu gần 30 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta là
hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã có nhiều chính sách kịp thời nhằm đa dạng
hóa các hình thức sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế. Song, thực tiễn
xây dựng đất nước luôn đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta phải giải
quyết, trong đó, vấn đề sở hữu vẫn là vấn đề có ý nghĩa thời sự.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đa dạng hóa các hình thức
sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới, đã có một số tác giả đề cập đến vấn
đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, như: Bùi Công Trừng, Quyết Tiến, Trần
Phương, Hồ Viết Thắng, Đào Văn Tập Các tác giả này chủ yếu xuất phát từ
luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về xóa bỏ chế độ tư hữu
và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để khẳng định tính thiết yếu

5
của việc quốc hữu hóa và tập thể hóa, coi đó là điều kiện để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế có kế hoạch.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi
mới của nước ta được bắt đầu, đặc biệt từ Đại hội VII, Đảng ta khẳng định
xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở
hữu, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề sở hữu và các chế độ sở hữu luôn luôn thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây là một vấn đề
phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau.

Các công trình nghiên cứu về sở hữu rất đa dạng, phong phú, vì vậy,
chúng tôi phân loại thành các nhóm sau đây:
* Các đề tài nghiên cứu khoa học và công trình chuyên khảo về vấn
đề sở hữu
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, mã số: KX.01.01 (1992 –
1996) do GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn làm chủ nhiệm: Quan điểm của C.
Mác, Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đã
đề cập đến quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở
hữu, đặc biệt là quan niệm về sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu
của việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Nhóm nghiên cứu đã phân tích, luận giải và đi
đến khẳng định: những tư tưởng đó vẫn là cơ sở lý luận quan trọng cho việc
xây dựng một mô hình kinh tế mà trong đó cùng tồn tại nhiều loại hình sở hữu
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, công hữu – tư hữu, là một phương án tối ưu
có khả năng phát triển nền kinh tế năng động.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia: Quan điểm của C.
Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin về sở hữu và vận dụng các quan điểm đó vào
thực tiễn Việt Nam hiện nay do PGS. TS. Đặng Thị Lan chủ trì, nghiệm thu
tháng 5 năm 2011. Trong công trình này, tác giả đã phân tích một cách hệ

6
thống những quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu, đặc biệt là sở
hữu trong chủ nghĩa xã hội; nghiên cứu quá trình vận dụng lý luận sở hữu vào
hoàn cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đất nước đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả
luận chứng tính tất yếu của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chỉ ra vai
trò của các hình thức sở hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
- Sách: Những quan điểm cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin
về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ của Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn
Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. Các

tác giả đã khái quát những luận điểm cơ bản của các nhà kinh điển về vấn đề
sở hữu và chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở tổng kết những
đặc điểm đáng chú ý ở các quốc gia vừa thoát ra khỏi cơ chế hành chính bao
cấp, nhóm tác giả khẳng định: việc thực hiện một mô hình kinh tế mà trong
đó cùng tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, công
hữu – tư hữu, là một phương án tối ưu có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát
triển năng động; và điều này không có gì mâu thuẫn với lý thuyết của chủ
nghĩa Mác - Lênin về sở hữu.
- Sách: Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Đặng Hữu Toàn. Trong phần
III, tác giả đã trình bày một cách hệ thống quan niệm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin về sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan điểm
của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ. Từ đó, tác giả phân tích vấn đề đa dạng hóa
và tính chất đan xen của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó, phát triển kinh tế tư nhân
được khẳng đinh là vấn đề có tầm chiến lược.
- Sách: Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay do Nguyễn Văn Thạo
và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004,
đã trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, quan điểm về sở hữu trong

7
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở khái quát
bối cảnh quốc tế, tình hình đất nước và xu hướng vận động của quan hệ sở
hữu trong nền kinh tế, các tác giả đưa ra một số quan điểm và phương hướng
cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề sở hữu ở Việt Nam.
- Sách: Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, 2004 của Nguyễn Văn Thức đã nghiên cứu một cách tổng quát những vấn
đề lý luận về sở hữu, từ thực tiễn Việt Nam tác giả đi đến khẳng định tính tất
yếu của sự đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ, nêu vai trò
của các loại hình sở hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Từ

đó, tác giả đưa ra một số nội dung cơ bản của việc cải tạo và xây dựng các
hình thức sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
- Sách: Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam do Vũ Hồng Tiến chủ biên, Nxb. Đại học Sư phạm,
Hà Nội, 2005, đã khái quát một số vấn đề lý luận về sở hữu và vai trò của sở
hữu trong hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội; từ đó, trình bày một số vấn đề cơ
bản về thành phần kinh tế và các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
- Sách: Bản chất của sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tác giả Trương Giang
Long đã tiếp cận sở hữu dưới góc độ tác động của các yếu tố thời đại, từ đó
khẳng định việc thừa nhận đa sở hữu và phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta vừa là nhu cầu tự thân, vừa là áp lực của thời cuộc. Trên cơ sở khảo
cứu quá trình đổi mới nhận thức và quan niệm về sở hữu của Đảng ta, tác giả
đi đến khẳng định bản chất chế độ sở hữu của Việt Nam hiện nay và cả về lâu
dài vẫn là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
- Ngoài ra, vấn đề sở hữu còn được đề cập đến trong các công trình
nghiên cứu về các thành phần kinh tế, như:

8
Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam: Lý luận và thực tiễn do GS. TS. Lê Hữu Nghĩa và TS. Đinh Văn Ân
đồng chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004.
Sách: Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuyền, Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2006.
Sách: Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do Chử Văn Lâm chủ biên, Nxb. Chính
trị Quốc gia, 2006.
Sách: Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Nguyễn Cúc, Kim Văn Chính chủ
biên, Nxb. Lý luận Chính trị, 2006…
Trong các công trình này, các nhà khoa học đã làm rõ khái niệm, bản
chất, lịch sử hình thành và vai trò mỗi hình thức sở hữu, thực trạng, xu hướng
biến đổi và giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả thế mạnh và khắc phục
những hạn chế của mỗi hình thức sở hữu cũng như thành phần kinh tế gắn với
hình thức sở hữu đó.
* Các luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ về đề tài sở hữu
- Luận án Tiến sĩ Triết học: Những quan niệm của C. Mác, Ph.
Ăngghen, V. I. Lênin về sở hữu trong chủ nghĩa xã hội của Lương Minh Cừ,
Viện Triết học, 1996, đã tổng kết những quan điểm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác – Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về vấn
đề xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Luận
án đã phân tích những nét đặc thù của các quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và vai trò của chúng trong việc xây dựng một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu vận động theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

9
- Luận án Tiến sĩ Triết học: Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở
hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, của Nguyễn
Văn Ngọc, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000, đã hệ thống hóa
lịch sử vấn đề sở hữu, tìm ra lôgíc phát triển của các loại hình sở hữu, xác
định động lực phát triển mối quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
- Luận án Tiến sĩ Triết học: Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa
dạng hóa các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Vũ Hồng Sơn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000, trên cơ sở

quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, thông qua phân
tích sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu trên thế giới và trong công cuộc đổi
mới ở nước ta, đã nêu lên xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa
các hình thức sở hữu theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều
kiện hiện nay. Từ đó, tác giả kiến nghị những giải pháp nhằm đảm bảo cho sự
đa dạng hóa sở hữu phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nguyễn Thị Huyền,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2004, trên cơ sở những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
sở hữu, luận văn trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, sở hữu tư liệu sản
xuất và những nhân tố tác động đến quá trình hình thành, biến đổi của chế độ
sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế. Từ đó, tác giả phân tích quá trình
biến đổi của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới và những
biểu hiện đặc trưng của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

10
- Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Vận dụng lý luận Mác – Lênin về
sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta, Đặng Thị Thu Hiền, Học viện Hành chính -
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007, đã hệ thống những luận điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất. Tác giả trình bày thực
trạng vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong
thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra các giải pháp củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
* Các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành về đề tài sở hữu
- Bài viết: Về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (tạp chí Triết học, số 6 – 2002) của Đoàn

Quang Thọ đã khẳng định: để có một quan niệm nhất quán về sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải có phương
pháp tiếp cận đúng, không thể lấy ý muốn chủ quan thay thế các quy luật
khách quan. Tác giả nhấn mạnh: chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa không hề
gạt bỏ tính đa dạng các hình thức sở hữu mà ngược lại, chúng thống nhất với
nhau.
- Bài viết: Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược
của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay (tạp chí Triết
học, số 12 – 2004) của GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn đã chỉ rõ: khi chủ
trương coi kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo thì cũng
cần khách quan và tỉnh táo để nhận ra rằng, trong điều kiện của nước ta hiện
nay và cả trong thời gian còn rất dài, vai trò động lực của sở hữu nói chung và
sở hữu tư nhân nói riêng là vô cùng lớn.
- Bài viết: Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận của Phạm
Văn Đức (tạp chí Triết học, số 2 – 2005) chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc
đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội,

11
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; sự thay đổi quan niệm về sở hữu, coi
sở hữu vừa là mục đích vừa là phương tiện. Theo đó, xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần với các loại hình sở hữu khác nhau là chiến lược lâu dài và
tối ưu, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, năng động hóa nền kinh tế và nâng
cao đời sống của nhân dân lao động. Tác giả khẳng định: sự thành công tiếp
theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ thuộc vào những chủ trương và
giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các loại hình sở hữu.
- Bài viết: Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tạp chí Lý luận Chính trị, số 3 – 2006)
của tác giả Nguyễn Nhâm đã làm rõ tính khách quan của các hình thức sở
hữu, xác định rõ các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

- Bài viết: Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin đến sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong công
cuộc đổi mới đất nước (tạp chí Triết học, số 8 – 2007), trên cơ sở làm rõ quan
niệm của C. Mác về “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, sự kế thừa và
phát triển quan niệm này ở V. I. Lênin, tác giả Vũ Quang Tạo đã khẳng định
tính đúng đắn và sự sáng tạo của Đảng ta khi vận dụng quan niệm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta trong
công cuộc đổi mới đất nước. Tác giả cũng đã khẳng định: trong công cuộc đổi
mới đất nước ở nước ta hiện nay, “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”
không có nghĩa là xác lập, củng cố chế độ tư hữu bằng mọi giá, mà là thực
hiện một cách đúng đắn, sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất để chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng
đắn hơn, xây dựng có hiệu quả hơn.
- Bài viết Vấn đề sở hữu tiếp cận từ tư duy biện chứng của một nhà
quản lý doanh nghiệp (tạp chí Khoa học chính trị số 1 năm 2011), tiếp cận
vấn đề sở hữu từ tư duy biện chứng của một nhà quản lý doanh nghiệp, PGS.

12
TS. Lê Thanh Sinh đã khẳng định sự tồn tại của sở hữu nhà nước và vai trò
của nó trong nền kinh tế là rất cần thiết. Tác giả coi đây là một thực tiễn sống
góp phần làm sáng tỏ lý luận về vấn đề sở hữu ở Việt Nam.
Tóm lại, có thể nói, các công trình nghiên cứu về sở hữu ở Việt Nam
(chủ yếu từ khi đổi mới đến nay) đã có những thành công nhất định trong việc
khái quát và làm rõ cơ sở lý luận của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu;
khẳng định đổi mới nhận thức về sở hữu chính là vấn đề cốt lõi trong đổi mới
tư duy kinh tế ở Việt Nam; đồng thời chỉ ra tính tất yếu của việc tồn tại nhiều
hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay; vai trò của các loại hình sở hữu đối
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa đây là vấn đề đã được giải quyết thấu đáo. Sở hữu là một vấn đề hết sức
phức tạp và cho đến nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Hơn nữa, thực

tiễn xây dựng đất nước luôn luôn vận động, biến đổi và sở hữu với tư cách là
“vấn đề sống còn của giai cấp” cũng luôn có những vấn đề mới nảy sinh cần
được tiếp tục nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài
liệu tham khảo quý báu để tác giả luận văn triển khai đề tài nghiên cứu của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đa dạng hóa
những hình thức sở hữu ở Việt Nam, phân tích vai trò của các hình thức sở
hữu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo cho sự đa dạng hóa các
hình thức sở hữu phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đa dạng hóa các hình thức
sở hữu ở Việt Nam.
- Xác định vị trí, vai trò và khả năng phát triển của các hình thức sở
hữu trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.

13
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo cho sự đa dạng hóa các hình
thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đề cập đến các quan điểm lý luận của
C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin và của Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu,
coi đây là nền tảng lý luận để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình
đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận văn
tập trung nghiên cứu các hình thức sở hữu đang tồn tại thực tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên các quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I.
Lênin về sở hữu, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề sở hữu
từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
- Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp lôgic, lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về sở
hữu, chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình vận dụng sáng tạo lý luận
này vào Việt Nam và nêu ra một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề
sở hữu đang nảy sinh trong thực tiễn.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục
vụ các nghiên cứu liên quan đến vấn đề sở hữu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương 6 tiết.

14
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐA DẠNG HÓA
CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sở hữu là một vấn đề rất phức tạp, đã được nhiều ngành khoa học,
nhiều lĩnh vực quan tâm nghiên cứu. Tùy từng góc độ xem xét và cách tiếp
cận mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về sở hữu, chỉ riêng trong
giới triết học, quan niệm về vấn đề sở hữu cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
Trong luận văn này, tác giả triển khai vấn đề dựa trên quan điểm của C. Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin về sở hữu, mà chủ yếu là về sở hữu tư liệu sản xuất.
1.1. Phạm trù sở hữu và các khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm sở hữu
Theo quan niệm mácxít, khái niệm gốc của sở hữu là chiếm hữu, tức là
chiếm đoạt bao hàm quan hệ mang tính tự nhiên như việc người ta chiếm lấy
không khí, ánh sáng và các sản vật của tự nhiên. Khái niệm chiếm hữu thể
hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là hành vi gắn với sự tồn tại và
phát triển của con người. Từ khi xuất hiện trên trái đất, con người đã thực
hiện sự chiếm hữu đối với tự nhiên để duy trì sự tồn tại của mình. Dần dần,
con người biết kết hợp sức lao động của mình với tự nhiên để sản xuất, làm ra
của cải vật chất phục vụ nhu cầu sinh sống. Khi xã hội loài người phát triển
lên hình thức cao hơn, con người biết sáng tạo và ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, bắt tự nhiên phục vụ mình thì con người vẫn phải tồn tại dựa
trên cơ sở chiếm hữu tự nhiên và của cải vật chất của xã hội. Với ý nghĩa đó,
chiếm hữu là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn lịch sử của xã hội
loài người.
Như vậy, ngay từ khi chưa có nhà nước, chưa có pháp luật thì con
người đã có thể thực hiện sự chiếm hữu hoàn toàn mang tính tự nhiên. Khi sự
chiếm hữu ấy được xã hội thừa nhận về mặt kinh tế và pháp lý thì nó trở

15
thành sở hữu. Nhìn bề ngoài, sở hữu là sự chiếm hữu của con người với các
sản phẩm, nhưng thực chất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người
trên cơ sở quan hệ giữa người với vật. Người ta sẽ không bàn đến vấn đề sở
hữu nếu chỉ có một người đơn độc chiếm hữu tự nhiên. Con người chỉ đặt ra
vấn đề sở hữu khi có sự hiện diện của người khác, tức là trước mối quan hệ
giữa con người với nhau, người ta cần khẳng định sự chiếm hữu của mình
nhằm thực hiện một lợi ích nào đó. Sự khẳng định này phải được thừa nhận cả
về mặt kinh tế và pháp lý.
Cần phân biệt nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu. Có thể
hiểu một cách đơn giản nội dung pháp lý của phạm trù sở hữu thừa nhận về
mặt pháp luật một vật phẩm nào đó (đối tượng sở hữu) là của ai, còn nội dung

kinh tế là những lợi ích mà người sở hữu được hưởng từ vật phẩm đó. Sự phát
triển của các quan hệ sở hữu về mặt kinh tế sẽ kéo theo những thay đổi của
quan hệ pháp lý. Trên thực tế, nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu rất phức
tạp, bao hàm nhiều khâu, nhiều mối quan hệ, nó không chỉ dừng lại ở câu hỏi
đối tượng sở hữu thuộc về ai, ai quản lý kinh doanh mà còn xem xét đến cơ
chế thực hiện lợi ích kinh tế như thế nào, dưới hình thức nào? Vì vậy, để xác
định được nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu trong một giai đoạn lịch sử
nhất định thì cần phải đặt nó trong tất cả những mối liên hệ vốn có của nó.
Sở hữu chính là biểu hiện về mặt xã hội của sự chiếm hữu, nó thay đổi
theo sự thay đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội của một giai đoạn lịch
sử nhất định. Nói cách khác, sở hữu là phạm trù lịch sử, biến đổi cùng với quá
trình phát triển của lịch sử loài người. Sở hữu được hình thành trong quá trình
phân công lao động để thực hiện sự chiếm hữu của con người. Chiếm hữu của
cải vật chất là hành vi tất yếu, mang tính tự nhiên, bản năng sinh tồn của con
người trong mọi thời đại. Sở hữu được coi là điều kiện của sản xuất, là quan
hệ kinh tế khách quan, bị chi phối bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất.

16
Vậy, sở hữu là gì? Trong di sản lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác, chúng ta không thấy các ông đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh nào về
sở hữu, quyền sở hữu hay chế độ sở hữu khi xem xét chúng như những khái
niệm có tính chất kinh tế, chính trị - xã hội hay pháp quyền. Vào thời của C.
Mác và Ph. Ăngghen, trong cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các xu hướng chính
trị khác nhau, tính cấp bách không phải là ở chỗ xây dựng khái niệm sở hữu
mà ở việc xác định vai trò của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và khuynh
hướng vận động của nó trong lịch sử. Do đó, trong các tác phẩm của mình, C.
Mác và Ph. Ăngghen không dành riêng một phần nào để nói về khái niệm sở
hữu mà xem xét nó trong mối quan hệ tất yếu với trình độ của lực lượng sản
xuất và quan hệ với pháp lý và chính trị. “Vì sở hữu dưới sự thống trị của giai
cấp tư sản cũng như ở các thời đại khác, là gắn liền với những điều kiện nhất

định, trước hết là những điều kiện kinh tế, tức là những điều kiện tùy thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp, – những
điều kiện nhất thiết mang biểu hiện chính trị và pháp lý” [51, 515 – 516]. Trên
thực tế, xác lập củng cố quyền sở hữu về tư liệu sản xuất chính là nền tảng và
là cơ sở khách quan nhằm tăng cường vị trí vai trò thống trị của giai cấp thống
trị. Bất kỳ một giai cấp hay một lực lượng xã hội nào muốn duy trì quyền lực
thống trị của mình trước hết và cơ bản phải nắm lấy và xác lập quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều nhất quán coi sở hữu
là một quan hệ xã hội, là mối quan hệ giữa người với người trong đời sống
sản xuất xã hội. Do vậy, C. Mác khẳng định: “định nghĩa quyền sở hữu tư sản
không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất
tư sản” [53, 234]. Sở hữu là quan hệ xã hội mang tính khách quan. Các quan
hệ xã hội ấy được định hình tương đối ổn định trong những giai đoạn phát
triển của lịch sử. Nó vận động và phát triển cùng với sự phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất và quá trình phân công lao động xã hội. Những
giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là

17
những hình thức khác nhau của sở hữu. Tùy theo điều kiện lịch sử - xã hội
của mỗi giai đoạn mà sở hữu sẽ được biểu hiện ra theo những cách thức khác
nhau và được bảo đảm bằng những quy định pháp lý khác nhau. Do đó, “Nếu
muốn định nghĩa quyền sở hữu như là một quan hệ độc lập, một phạm trù
riêng biệt, một ý niệm và vĩnh cửu, thì như thế chỉ là sa vào một ảo tưởng siêu
hình hay mang tính chất luật học mà thôi” [53, 234 – 235].
Do tính chất phức tạp của vấn đề sở hữu nên cho đến nay còn nhiều ý
kiến khác nhau khi đưa ra định nghĩa về phạm trù sở hữu và các vấn đề liên
quan. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về sở hữu ở Việt Nam từ sau
đổi mới (năm 1986) đến nay, chúng tôi nhận thấy định nghĩa sau đây về sở
hữu được nhiều người chấp nhận: Sở hữu là phạm trù chỉ toàn bộ các mối

quan hệ giữa người với người đối với đối tượng sở hữu và những sản vật đã
được tạo ra từ sự tác động của người lao động vào đối tượng sở hữu ấy bằng
những công cụ lao động do lịch sử quy định. Trong bối cảnh còn chưa có một
định nghĩa thống nhất về phạm trù sở hữu, chúng tôi chọn định nghĩa này là
cơ sở để triển khai vấn đề.
1.1.2. Đối tượng sở hữu và chủ thể sở hữu
Như trên đã nói, về mặt lịch sử thì chiếm hữu có trước sở hữu. Khởi
thủy là chiếm hữu tự nhiên, đối tượng của nó là các vật chưa có lao động kết
tinh. Vì vậy, khi nói đến chiếm hữu chủ yếu là nói đến chiếm hữu giá trị sử
dụng. Khác với chiếm hữu, đối tượng sở hữu thường là những vật chứa đựng
lao động của con người. Nói cách khác, đối tượng sở hữu trước hết là những
yếu tố vật chất – vật hóa lao động xã hội. Do đó, khi nói đến sở hữu bao giờ
cũng bao hàm cả hai: giá trị và giá trị sử dụng. Về thực chất, đối tượng sở hữu
chủ yếu là kết quả của lao động sản xuất và tương ứng với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử mà cơ cấu của
đối tượng sở hữu, tương quan giữa các yếu tố cấu thành sở hữu cũng có sự
thay đổi.

18
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đối tượng sở hữu là các vật phẩm tự
nhiên quý hiếm, đàn gia súc, nô lệ… Dưới chế độ phong kiến, đối tượng sở
hữu chủ yếu là ruộng đất, còn trong xã hội tư bản, đối tượng sở hữu chủ yếu
là tiền, tư bản, những tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động được tách
khỏi người lao động và đối lập với họ. Trong nền kinh tế tự nhiên, đối tượng
sở hữu cơ bản biểu hiện dưới dạng hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng
hóa – thị trường thì hình thái giá trị trở thành đối tượng cơ bản của quan hệ sở
hữu. Mục đích của sở hữu trong nền sản xuất hàng hóa không phải là các vật
có giá trị như đất đai, tài sản, con người như trong nền sản xuất cổ đại trước
đó, mà là sự tìm kiếm và làm tăng thêm giá trị. Tìm kiếm và làm tăng thêm
giá trị trở thành động lực của chủ thể sở hữu, sở hữu mà không nhằm bảo tồn

và làm tăng thêm giá trị thì trở nên vô nghĩa.
Hiện nay, sở hữu vẫn là nhân tố quan trọng và luôn có ý nghĩa quyết
định đối với quy mô thu nhập, nhưng sự phân cực xã hội không còn hoàn toàn
lệ thuộc vào duy nhất sở hữu tư liệu sản xuất. Có tư liệu sản xuất trong tay
nhà tư bản không hẳn đã đủ sức cạnh tranh thắng lợi. Trong thời đại ngày nay,
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại, đối tượng sở hữu
có sự thay đổi. Ngoài những tư liệu sản xuất truyền thống như đất đai, máy
móc, hầm mỏ… còn có các đối tượng sở hữu mới như sở hữu về vốn, về thị
trường, sở hữu công nghệ, sở hữu thông tin, sở hữu những sản phẩm về trí tuệ
như những phát minh, sáng chế, các tác phẩm nghệ thuật, và các tư tưởng
khoa học. Vốn và trí tuệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, chính vì vậy, sở
hữu vốn và sở hữu trí tuệ trở thành những bộ phận không thể thiếu của nền
sản xuất hiện đại.
Thực tiễn cho thấy, đối tượng sở hữu bên cạnh xu hướng đa dạng hóa,
còn vận động theo xu hướng xã hội hóa: một bộ phận lớn tri thức khoa học
ngày càng được coi như tài sản chung của nhân loại. Khi khoa học – công
nghệ đã thực sự trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” thì vai trò của các
yếu tố phi vật chất, đặc biệt là trí tuệ ngày càng được khẳng định. Vấn đề

19
quan trọng là phải biết nắm những đối tượng sở hữu chủ yếu nào chi phối cả
hệ thống kinh tế để tác động, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của từng
giai đoạn. Do vậy, trong bối cảnh mới, quan niệm mácxít về tư liệu sản xuất
vẫn không mất đi ý nghĩa. Sở hữu tư liệu sản xuất vẫn là vấn đề chính khi bàn
về sở hữu.
Đối tượng sở hữu bao giờ cũng gắn với một chủ thể sở hữu nhất định.
Quan hệ giữa chủ sở hữu và đối tượng sở hữu là quan hệ về tài sản. Mối quan
hệ trên có tính vật chất, chi phối các quan hệ giữa các chủ sở hữu với nhau,
giữa chủ sở hữu và chủ kinh doanh. Chủ thể sở hữu là người sở hữu, là nhân
tố tích cực, chủ động trong các quan hệ sở hữu, có khả năng và quyền chiếm

hữu đối tượng sở hữu. Chủ thể sở hữu bao giờ cũng là những con người cụ
thể, đó có thể là cá nhân, tập thể hay tổ chức Còn đối tượng sở hữu là phía
thụ động của các quan hệ sở hữu, dưới dạng những vật tự nhiên, những đồ
vật, năng lượng, thông tin, của cải, trí tuệ… thuộc về chủ thể hoàn toàn hay
một phần.
Trong xã hội, con người (chủ thể) vừa có quan hệ với tự nhiên (đối
tượng), vừa có quan hệ với nhau, nghĩa là con người có mối quan hệ kép.
Chính quan hệ giữa người với người với đối tượng sở hữu mới mang tính chất
kinh tế - xã hội và quy định trước hết các hình thức sở hữu tài sản, tổ chức
quản lý và phân phối của cải, thu nhập giữa các chủ thể sở hữu và là cơ sở của
phương thức sản xuất. Vì vậy, sở hữu quyết định địa vị của các chủ thể trong
nền sản xuất xã hội.
1.1.3. Quyền sở hữu và chế độ sở hữu
- Quyền sở hữu
Trong tác phẩm Sự phê phán có tính dạy đạo đức và đạo đức có tính
phê phán, C. Mác đã chỉ rõ: “Sở hữu, bất kể thế nào, cũng là một loại quyền
lực” [54, 421]. Sở hữu là hình thức thực hiện quyền lực của chủ sở hữu về
mặt kinh tế, là việc khẳng định các tư liệu sản xuất và thành quả lao động

20
thuộc về ai. Nội dung chính yếu của quan hệ sở hữu là việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt. Trong đó, chiếm hữu là tiền đề cho việc khai thác những
khả năng của tài sản vật dụng bởi vì đó là trạng thái thuộc về ai đó của tài sản.
Sử dụng là việc khai thác những khả năng của tài sản (khả năng về sản xuất
và tiêu dùng), khai thác giá trị tiêu dùng, những tác dụng của vật. Định đoạt là
quá trình một sản phẩm có thể chuyển từ sự chiếm hữu của người này sang sự
chiếm hữu của người khác, hoặc thay đổi chức năng ban đầu của sản phẩm,
tiêu dùng sản phẩm. Ba phạm trù chiếm hữu, sử dụng và định đoạt thể hiện
nội dung kinh tế của sở hữu đối với tư liệu sản xuất và đối tượng tiêu dùng.
Quyền sở hữu là quyền chiếm đoạt, sử dụng và định đoạt của cải (vật

chất hoặc tinh thần) trong phạm vi pháp luật cho phép. Nói cách khác, quan
hệ sở hữu một khi được luật hóa, tức là được pháp luật quy định, giới hạn,
thừa nhận tính hợp pháp, chính đáng của nó, thì trở thành quyền sở hữu.
Quyền sở hữu được quy định một cách khác nhau và chính sự khác nhau đó là
yếu tố cơ bản của các chế độ kinh tế. Điều này Mác đã chỉ ra trong tác phẩm
Sự khốn cùng của triết học: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát
triển một cách khác nhau và trong một loạt những quan hệ xã hội hoàn toàn
khác nhau” [53, 234].
Trong khi luận giải về sở hữu, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã giải
thích (dù không đầy đủ) về các cấp độ khác nhau của sở hữu. Tuy nhiên, các
ông không chia sở hữu ra thành hai, ba mức độ của sự chiếm hữu. Vấn đề này
không được đặt ra đối với sự nghiên cứu của các ông. Vào thời C. Mác và Ph.
Ăngghen, tư hữu, sở hữu tư bản chủ nghĩa đã khá phát triển, thậm chí đã phát
triển đến mức điển hình, cho nên, vấn đề được các ông quan tâm nhiều hơn là
“hai cực” của sự sở hữu, là quan hệ giữa kẻ chiếm hữu và người sản xuất trực
tiếp, giữa các nhà tư bản và lao động làm thuê.
Căn cứ vào những phân tích của C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà lý
luận mácxít sau này thường phân chia khái niệm sở hữu ra thành các cấp độ

21
pháp lý: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền thực hiện nó về mặt kinh
tế; hoặc quyền sở hữu, quyền chiếm dụng và quyền sử dụng; hay quyền sở
hữu và quyền sử dụng… Nhìn chung, các khái niệm này không được sử dụng
một cách thống nhất. Gần đây, việc xem xét quyền sở hữu đã được đưa vào
một nội dung cụ thể hơn: quyền mua bán hoặc chuyển nhượng, quyền cho
thuê hay định đoạt cách thức sử dụng đối với đối tượng sở hữu. Tuy nhiên,
với cách xác định này thì một loạt vấn đề mới lại nảy sinh mà tác giả luận văn
sẽ không bàn đến ở đây.
Về mặt lịch sử, quan hệ sở hữu với tư cách những quan hệ kinh tế có
trước luật pháp, luật pháp chỉ là sự thể hiện và nâng lên thành những quy định

pháp luật những quan hệ khách quan vốn đã tồn tại trong đời sống; luật pháp
chỉ quy định giới hạn, thừa nhận tính hợp pháp, chính đáng của quyền sở hữu.
Quyền sở hữu là tập hợp các quyền sử dụng, quyền hưởng thụ, quyền chuyển
nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp, hiến tặng, phá hủy, thủ tiêu đối tượng sở
hữu theo luật định, Nói gọn lại, quyền sở hữu của chủ thể có thể gộp vào ba
nhóm quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với đối
tượng sở hữu. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, các quyền này cũng vận động, phát triển mở rộng, tập trung hoặc phân
tách.
Cần phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh (có khi
gọi là quyền sử dụng) trong phạm trù sở hữu. Quyền sở hữu chỉ là việc nắm
quyền chi phối giá trị nhằm mục đích tìm kiếm một giá trị lớn hơn; còn quyền
quản lý kinh doanh là việc thực hiện một hoạt động kinh tế cụ thể nhất định
để tạo ra giá trị - là phương tiện để bảo tồn và tăng thêm giá trị. Quan hệ giữa
hai nhóm quyền này là quan hệ giữa mục đích và phương tiện.
Trong thực tế, quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh có thể thống
nhất ở một chủ sở hữu nhưng cũng có thể tách ra, điều đó tùy thuộc vào yêu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong xã hội phong

22
kiến, nền kinh tế chủ yếu là kinh tế tự nhiên, người nông dân lĩnh canh ruộng
đất của địa chủ, đây là hình thức sớm nhất về sự tách quyền sở hữu và quản lý
kinh doanh. Đến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì sự tách rời hai
quyền này tiếp tục phát triển và đạt đến mức điển hình. Về mặt lôgic, sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh là do tất yếu về kinh tế.
Một mặt, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, bản thân người chủ sở hữu không còn đủ điều kiện, khả năng điều hành,
quản lý trực tiếp; mà khi giao quyền quản lý kinh doanh cho người khác (có
trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý tốt) thì lợi nhuận cũng không
giảm đi. Hơn nữa, cùng với trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, việc

quản lý kinh doanh của xí nghiệp ngày càng trở thành một hoạt động đặc thù
tách ra khỏi lao động sản xuất và ngày càng tách ra khỏi quyền sở hữu của tư
bản. Đặc biệt là cùng với sự phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền tệ, của tín
dụng và kinh tế cổ phần, việc tách quyền sở hữu và quản lý kinh doanh trở
thành hiện tượng kinh tế đa dạng rộng khắp.
Như vậy, nếu lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, mang tính cá nhân thì
quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể thống nhất làm một, tức người chủ sở
hữu đồng thời là người trực tiếp sản xuất. Khi lực lượng sản xuất ở trình độ
cao, mang tính xã hội hóa thì lại có xu hướng tách rời hai quyền nêu trên,
người chủ sở hữu không thể trực tiếp lao động trong toàn bộ dây chuyền sản
xuất. Thực tế cho thấy, một quốc gia có lực lượng sản xuất đa dạng thì quan
hệ giữa sở hữu và sử dụng cũng trở nên phong phú. Do đó, lý luận về việc
tách quyền sở hữu và quyền sử dụng là cơ sở để cải tiến cơ chế quản lý thành
phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Chế độ sở hữu
Khi các quan hệ sở hữu được thể chế thành luật pháp và cơ chế vận
hành nhất định, thì toàn bộ hệ thống luật pháp ấy cùng với toàn bộ cơ chế tổ
chức vận hành hợp thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là nền tảng của một

23
chế độ xã hội và thể hiện bản chất của chế độ xã hội. Nếu chế độ sở hữu được
thiết lập phù hợp với quy luật khách quan thì nó sẽ tạo môi trường tốt cho nền
kinh tế phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm nền kinh tế. Vì vậy, không thể
thiết lập chế độ sở hữu một cách chủ quan, nóng vội mà phải tùy thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Không hiểu rõ được điều này,
chúng ta đã phải trả giá trong thời kỳ vận hành nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, mang nặng tính quan liêu bao cấp. Do muốn nhanh chóng có chủ nghĩa
xã hội, chúng ta đã vội vàng công hữu hóa tư liệu sản xuất, chỉ thừa nhận hai
hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, bất chấp trình độ lạc
hậu của lực lượng sản xuất, đã khiến cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng

trầm trọng.
Mỗi chế độ sở hữu thường có kết cấu sở hữu của nó. Kết cấu được tạo
thành bởi tỷ trọng của các loại hình sở hữu trong nền kinh tế quốc dân. Do lực
lượng sản xuất phát triển không đều nên trong một chế độ sở hữu bao giờ
cũng tồn tại nhiều loại hình sở hữu đan xen và loại hình sở hữu chủ đạo sẽ
quyết định bản chất của chế độ sở hữu.
Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội và tương ứng với
nó là năm chế độ sở hữu đã từng tồn tại là: chế độ sở hữu công xã nguyên
thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi chế độ sở hữu,
không chỉ tồn tại duy nhất có hình thức sở hữu thống trị mà trong thực tế các
hình thức sở hữu cả cũ và mới tồn tại một cách đan xen với nhau. Những yếu
tố, mầm mống của sở hữu mới trong tương lai sẽ là cái phủ định những hình
thức sở hữu thống trị. Thực tế đã chỉ ra rằng sự tuyệt đối hóa, độc tôn bất kỳ
một hình thức sở hữu nào đều gây ra những hậu quả xấu cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
1.1.4. Loại hình và hình thức sở hữu
Trong lịch sử, nền sản xuất xã hội đã trải qua nhiều loại hình và hình
thức khác nhau, nhưng khái quát lại chỉ có hai loại hình sở hữu cơ bản là: sở

24
hữu công cộng gọi tắt là công hữu và sở hữu tư nhân gọi tắt là tư hữu. Về
công hữu có hai loại: công hữu nguyên thủy, công hữu xã hội chủ nghĩa. Về
tư hữu có bốn loại: tư hữu nô lệ, tư hữu phong kiến, tư hữu tư bản chủ nghĩa
và của người sản xuất hàng hóa nhỏ.
Loại hình sở hữu là cơ sở của thành phần kinh tế, là nội dung bên trong
quy định thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong một phương thức sản xuất có
tồn tại nhiều loại hình sở hữu thì có sự đan xen các loại hình sở hữu, thành
phần kinh tế như là con đẻ của sự đan xen này. Mỗi thành phần kinh tế trong
nền kinh tế đa dạng hóa các loại hình sở hữu vừa tồn tại độc lập dưới một
hình thức kinh tế xác định, vừa đan xen lồng ghép vào nhau tạo nên nhiều

hình thức kinh tế phong phú thể hiện sự đa dạng của các hình thức biểu hiện
của quan hệ sở hữu.
Về hình thức sở hữu, trong mỗi loại hình sở hữu có nhiều hình thức sở
hữu và mức độ biểu hiện của chúng cũng khác nhau. Tuy cùng bản chất kinh
tế nhưng tùy theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ quản lý và sự
phân công lao động mà hình thành nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều
hình thức thực hiện lợi ích khác nhau và là cơ sở cho sự hình thành các quan
hệ xã hội đa dạng.
Hình thức sở hữu là cái thường xuyên biến đổi, còn loại hình sở hữu
tương đối ổn định hơn. Tùy điều kiện lịch sử cụ thể, người ta có thể thông qua
việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong cùng một loại hình sở hữu mà
làm phong phú, thay đổi dần dần bản chất của mọi loại hình sở hữu, hoặc đa
dạng hóa các hình thức sở hữu trong giới hạn mà bản chất của loại hình sở
hữu không thay đổi. Điều này phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng quy
luật khách quan về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Loại hình sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng trong xã hội cộng sản
nguyên thủy là sở hữu công cộng, nhưng kết cấu cụ thể của sở hữu trong từng

25
giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản nguyên thủy thì có nhiều hình thức:
từ sở hữu thị tộc đến sở hữu bộ lạc, đến sở hữu công xã, sở hữu cá thể, sở hữu
gia đình. Tất cả các hình thức này đều vận động, tạo tiền đề cho nhau, cùng
nhau phát triển và tồn tại. Tình trạng đó cũng xuất hiện trong các phương thức
sản xuất khác.
Trong chế độ nô lệ, sở hữu nô lệ chiếm vai trò thống trị, nhưng bên
cạnh vẫn tồn tại sở hữu tư nhân, cá thể của nông dân tự do, hơn nữa trong một
số dân tộc còn có sở hữu nhà nước. Trong chế độ phong kiến, ngoài sở hữu
phong kiến, có sở hữu tư nhân, sở hữu phường hội. Trong chủ nghĩa tư bản
hiện đại, tồn tại nhiều hình thức sở hữu đa dạng, phong phú như: sở hữu tư

nhân tư bản thuần túy (mọi nhà tư bản sở hữu), sở hữu nhóm nhà tư bản, các
nhóm tư bản độc quyền, ngoài ra còn có các công ty thuộc sở hữu nhà nước,
sở hữu tư nhân nhỏ, công ty cổ phần…
Trong chủ nghĩa xã hội, sự vận động của sở hữu cũng không nằm ngoài
ngoài quy luật trên, tức là tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu với kết cấu đa
dạng. Điều này bị quy định một cách khách quan bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều đáng lưu ý là, không chỉ cùng nhau tồn tại mà các hình
thức sở hữu còn đan xen lẫn nhau, tạo nên hệ thống quan hệ sở hữu phong
phú, trên cơ sở đó, hình thành các quan hệ xã hội, chính trị - kinh tế sinh
động.
Thừa nhận tính đa dạng, khách quan của các loại hình sở hữu và hình
thức sở hữu sẽ mở ra cho chúng ta sự nhận thức mới về sự phong phú trong
sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế. Đây là cơ sở lý luận cho
việc xây dựng con đường, bước đi thích hợp nhằm giải phóng và phát triển
lực lượng sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát
triển, củng cố vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước.

×