Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nhân tố con người và việc phát huy nhân tố đó trong thể thao thành tích cao ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 84 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM





VIỆN TRIẾT HỌC




LÊ HỒNG CƠ






NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ ĐÓ
TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY









LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




HÀ NỘI - 2003



2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM



VIỆN TRIẾT HỌC




LÊ HỒNG CƠ




NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ ĐÓ
TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY





Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử


Mã số: 5.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ


Hà Nội - 2003


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM






VIỆN TRIẾT HỌC




LÊ HỒNG CƠ






NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ ĐÓ
TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




HÀ NỘI - 2003




2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM



VIỆN TRIẾT HỌC




LÊ HỒNG CƠ




NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ ĐÓ
TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY





Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử



Mã số: 5.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ


Hà Nội - 2003


4

QUY ƢỚC VIẾT TẮT



CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CHDC
Cộng hoà dân chủ
CNH
Công nghiệp hoá
HĐH
Hiện đại hoá
IOC
Uỷ ban Olympic quốc tế

TDTT
Thể dục thể thao
TNCS
Thanh niên cộng sản
TT
Thể thao
TTTTC
Thể thao thành tích cao
TW
Trung ương
VĐV
Vận động viên
XDCNXH
Xây dựng chủ nghĩa xã hội
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
















5


MỤC LỤC





Trang

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1:
NHÂN TỐ CON NGƢỜI VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO

7
1.1
Khái niệm nhân tố con người
7
1.2
Sự biểu hiện của nhân tố con người trong thể thao thành tích cao
22

Chƣơng 2:
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƢỜI TRONG THỂ THAO THÀNH
TÍCH CAO Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP


41
2.1
Thực trạng thể lực, trí lực, tâm lực của VĐV đỉnh cao Việt Nam
41
2.2
Một số giải pháp nhằm tăng cường yếu tố thể lực, trí lực, tâm lực
cho VĐV đỉnh cao Việt Nam
54

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77






6
A. MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Phát huy nhân tố con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Xét về mặt lý luận và thực tiễn,
con người luôn là nhân tố đóng vai trò quyết định. Muốn thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là
phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chuẩn bị nhân tố con người thật tốt

cho thế kỷ XXI. Từ trước đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến chiến lược phát triển
con người, coi con người là vốn quý giá nhất, nhân tố con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ:
“Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” [41, tr.85], “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” [41, tr.21]. Để đạt được mục tiêu trên, Đảng và Chính phủ đã xây dựng
và thực hiện hàng loạt chính sách nhằm phát huy tối đa nhân tố con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những năm đầu dựng nước và giữ nước đã hiểu
được tầm quan trọng của sức khoẻ đối với mỗi người dân trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ Quốc. Trong lời kêu gọi tập thể dục, Người đã viết: “Mỗi một người
dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một người dân mạnh khoẻ,
tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ
là bổn phận của mỗi người dân yêu nước” [42, tr.159] . Góp phần tăng cường sức
khoẻ, nâng cao dân trí, củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, công tác TDTT
là một phương pháp rất có hiệu quả. Trong Chỉ thị về công tác TDTT của Ban chấp
hành TW Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Dưới chế độ của chúng ta, việc
săn sóc sức khoẻ của nhân dân, tăng cường thể chất của nhân dân được coi là một
nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ”. “Nhiệm vụ xây dựng nước nhà và

7
bảo vệ Tổ Quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức khoẻ dồi dào, thể chất cường tráng
Công tác TDTT là một phương pháp rất có hiệu quả để tăng cường lực lượng lao
động sản xuất và lực lượng quốc phòng của cán bộ và nhân dân ta, tăng cường dũng
khí và nghị lực của mỗi người dân, tăng cường sức đề kháng của nhân dân ta chống
bệnh tật, chống vi trùng. Hơn nữa, hoạt động TDTT còn là một trong những phương
pháp tốt để giáo dục nhân dân về tính tổ chức, tính kỷ luật và đoàn kết quần chúng
đông đảo chung quanh Đảng và Chính phủ” [42, tr.7] .
TDTD là một hiện tượng xã hội, hơn thế nữa nó còn là một trong những hiện
tượng xã hội rất đặc biệt. TDTT xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội; TDTT có ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ và bang giao giữa các dân tộc, các
nước trên toàn thế giới, tới đời sống, tới hiện trạng xã hội; TDTT góp phần hình
thành nên những thang giá trị đạo đức, lối sống của con người, thể thao là sứ giả của
hoà bình của hợp tác và hữu nghị. Đúng như Alêchxanđr Vonkov, một VĐV nổi
tiếng người Nga, đã nói: “ Thể thao hôm nay - là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó
có khả năng ngăn chặn sự xâm nhập của các nền văn hoá rẻ tiền cũng như những tiêu
cực khác của xã hội hiện đại. Thể thao thật sự là “sự điều chỉnh” tối ưu nhất giúp
chúng ta thoát khỏi những vấn đề của xã hội hiện đại đang vây bọc lấy chúng ta.
Theo tôi, thể thao là một thứ “kết dính” duy nhất có khả năng liên kết tất cả các dân
tộc lại với nhau thành một khối thống nhất, mà không có bất kỳ một thứ tôn giáo nào
có thể làm được và thậm chí ngay cả phép mầu của chính trị cũng đôi khi đành bất
lực” [54, tr53]. Thể thao đã hàm chứa trong mình một sức mạnh mang tính xã hội rất
cao. Các nhà chính trị học từ lâu đã đánh giá và nhận định rằng, thể thao biểu hiện
hào khí của mỗi dân tộc, hay nói chính xác hơn, thể thao là sự say mê chung của cả
một dân tộc, sự say mê đó có khả năng và sức mạnh đoàn kết toàn xã hội hướng về
một mục đích chung nhất định nào đó của mỗi dân tộc, tăng cường hơn nữa sức mạnh
của hệ tư tưởng, nhằm hướng con người tới một tương lai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.

8
Sự nghiệp TDTT của nước ta những năm qua đã có những bước phát triển vượt
bậc. Đặc biệt, thể thao đỉnh cao Việt Nam đã dần khẳng định được vị thế là một trong
những cường quốc thể thao trong khu vực. Thực tế chứng minh rằng, thể thao thành
tích cao là một bộ phận vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong sự nghiệp
phát triển TDTT ở mọi quốc gia trên thế giới. Trong lịch sử phát triển của mình, thể
thao thành tích cao luôn đóng vai trò và vị thế là hạt nhân tích cực, là tinh hoa, là cái
đích phải vươn tới của TDTT nói chunh. SEA Games XXII lần đầu tiên được tổ chức
tại Việt Nam là một thành công lớn của đất nước, thể hiện sự quyết tâm của Đảng,
Nhà nước và Chính phủ, là kết quả của sự phối hợp của tất cả các bộ, ngành và hơn
thế nữa, chúng ta đã phát huy triệt để sức mạnh dân tộc, biến SEA Games XXII thành
ngày hội lớn của toàn dân. Đất nước chúng ta còn nghèo, nhưng Đảng, Nhà nước,

Chính phủ và nhân dân đã đầu tư hơn 3.800 tỷ đồng cho 74 công trình phục vụ cho
các hoạt động thể thao đỉnh cao, trong đó riêng kinh phí để mua sắm trang thiết bị,
dụng cụ thi đấu là 118 tỷ đồng; xây dựng khu liên hiệp TT thành một trong những
khu liên hiệp TT vào loại tầm cỡ Châu lục.
Song bên cạnh đó, trình độ, năng lực của cán bộ quản lý, huấn luyện viên,
VĐV của chúng ta còn quá thấp, chúng ta chưa có đủ khả năng sử dụng và khai thác
thật sự hiệu quả những trang thiết bị mà chúng ta đã có. Hơn thế nữa, cho đến nay
không phải không có có ý kiến cho rằng, tài năng thể thao là những năng lực, những
khả năng bẩm sinh; ý kiến này là cơ sở lý luận cho sự tuyệt đối hoá vai trò nhân tố
con người. Một ý kiến khác, lại cho rằng, trong thời đại của nền kinh tế trí thức, thì
khoa học công nghệ, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại mới là yếu tố quyết định
tới thành tích thể thao; ý kiến này là cơ sở lý luận của sự coi thường, không đáng giá
hết vai trò và ý nghĩa của nhân tố con người trong hoạt động TT đỉnh cao. Cả hai
quan điểm trên đều hết sức sai lầm. Như vậy, việc nhận thức vai trò nhân tố con
người trong TTTTC, cũng như việc thực hiện công tác bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa
năng lực, trình độ cho cán bộ quản lý, huấn luyện viên, VĐV phải là một trong những

9
nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu và trước mắt của ngành TDTT. Chính vì vậy, cần phải
có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống, không chỉ về mặt lý luận mà còn
cả tổng kết thực tiễn để tìm ra những giải pháp phù hợp với những điều kiện của nước
ta. Thành tựu của thể thao đỉnh cao Việt Nam trong những năm qua là không thể phủ
nhận, nhưng công tác lý luận TT của chúng ta vẫn chưa phát huy hết sức mạnh của
mình, các nhà lý luận TT Việt Nam mới chỉ tập trung vào công tác soạn thảo các
chương trình huấn luyện, mà chưa hướng sự chú ý tới việc nghiên cứu ý nghĩa, vai
trò, vị trí của nhân tố con người trong hoạt động TDTT, đặc biệt trong TTTTC.
Xuất phát từ những nhận thức và thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài luận văn
thạc sỹ triết học của mình là: “Nhân tố con người và việc phát huy nhân tố đó trong
thể thao thành tích cao ở Việt Nam hiện nay”.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhân tố con người hoàn toàn không phải là vấn đề mới mẻ trong triết học Mác
- Lênin. Các nhà kinh điển của triết học mác - xít trong các tác phẩm của mình không
ít lần đề cập đến những nội dung liên quan tới nhân tố con người. Chẳng hạn, C.Mác
đã từng nói đến “những nhân tố vật, hay tư liệu sản xuất và nhân tố người, hay sức
lao động” [7, tr. 276]. Nhưng trong một thời gian khá dài chưa được giới nghiên cứu
triết học ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, quan tâm
đúng mức. Do vậy, tầm quan trọng, cũng như ý nghĩa to lớn của nhân tố con người và
việc phát huy nhân tố đó trong công cuộc xây dựng CNXH đã chưa được nhận thức
một cách đầy đủ. Từ giữa thập niên 80 (thế kỷ XX), vấn đề con người nói chung và
vấn đề nhân tố con người nói riêng mới thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các
nhà triết học mácxít. Trong quá trình nghiên cứu về nhân tố con người đã hình thành
khá nhiều quan điểm khác nhau. Một số tác giả quá đề cao, thậm chí tuyệt đối hoá
mặt xã hội, mặt tập thể, mặt cộng đồng so với mặt cá nhân của nhân tố con người.
Bên cạnh xu hướng tư duy cực đoan này còn có một xu hướng tư duy khác, theo đó,
cái riêng, cái cá nhân của con người lại bị tuyệt đối hoá, bị đề cao quá mức. Thực tế

10
trên đòi hỏi chúng ta phải có một cách nhìn toàn diện hơn, biện chứng hơn, khoa học
hơn về vai trò, ý nghĩa, tác dụng và tầm quan trọng của nhân tố con người trong công
cuộc xây dựng CNXH.
Những năm vừa qua, giới triết học nước ta thường nghiên cứu vấn đề con
người và nhân tố con người trong những lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Chẳng
hạn, những công trình nghiên cứu của Hồ Anh Dũng - Yếu tố con người trong lực
lượng sản xuất và việc phát huy yếu tố đó ở Việt Nam; Trương Giang Long - Nhân tố
con người trong lực lượng sản xuất và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam; Nguyễn Văn Nhớn - Ảnh hưởng của chính sách
xã hội đối với việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới
theo định hướng XHCN ở nước ta
Như vậy, có thể thấy rằng từ trước đến nay vấn đề “nhân tố con người trong
thể thao thành tích cao ở Việt Nam” chưa được giới nghiên cứu chú ý tới.

III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích : Nghiên cứu sự biểu hiện và ý nghĩa của nhân tố con người trong
TTTTC; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tối đa nhân tố con người
trong hoạt động TT đỉnh cao ở Việt Nam.
Nhiệm vụ :
- Phân tích khái niệm nhân tố con người và những biểu hiện của nhân tố ấy
trong TTTTC.
- Phân tích thực trạng về thể lực, trí lực, tâm lực của VĐV đỉnh cao Việt Nam.
- Kiến nghị một số giải pháp bước đầu nhằm phát huy hơn nữa nhân tố con
người trong TTTTC ở nước ta.
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm về con người và
nhân tố con người của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đồng thời luận văn sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công

11
trình khoa học đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề
tài.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nhận
thức của triết học Mác-Lênin, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích - tổng
hợp, lịch sử - lôgíc, cụ thể - trừu tượng, so sánh.
V. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn khái niệm “Nhân tố con người”; vai trò, ý nghĩa của
TDTT nói chung, TTTC nói riêng và việc phát huy nhân tố đó trong TTTTC.
- Đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm phát huy tối đa nhân tố con người trong
hoạt động thể thao đỉnh cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
VI. Ý nghĩa của luận văn : Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
nhà hoạch định và thực thi chiến lược phát triển TDTT ở Việt Nam.
VII. Cấu trúc của luận văn : Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo chính, luận văn gồm hai chương với 4 tiết.






B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHÂN TỐ CON NGƢỜI
VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO
1.1. Khái niệm nhân tố con ngƣời
1.1.1. Về vấn đề con người
Trong ý nghĩa chung nhất, con người trước hết là đối tượng nghiên cứu của

12
triết học. Vì thế, ngay từ khi triết học ra đời, vấn đề con người đã được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Con người là gì? Từ thời cổ đại đến nay đã có nhiều
quan điểm khác nhau bàn về con người. Tùy thuộc vào thế giới quan và phương pháp
luận khác nhau mà có những quan điểm duy vật hay duy tâm, biện chứng hay siêu
hình về con người, về bản chất con người và vai trò của nó trong tiến trình lịch sử.
Vào thời cổ đại, do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, do trình độ
sản xuất thấp kém, khoa học chưa phát triển, nên quan niệm về con người của các nhà
triết học còn phiến diện, mang nặng tính thần bí, siêu hình. Chủ nghĩa duy tâm thì
nhấn mạnh mặt tinh thần, mặt tư tưởng của con người; còn chủ nghĩa duy vật (chất
phác, ngây thơ và tự phát) thì hướng tìm cái bản nguyên đầu tiên của con người,
thường tuyệt đối hóa một mặt, một yếu tố vật chất nào đó. Sang thời kỳ phong kiến,
khi triết học trở thành "tôi tớ" của thần học, các quan niệm về con người trở nên sai
lệch hơn, lúc này con người được hiểu như là sự sáng tạo của Thượng đế, của Đức
chúa trời tối cao, do đó không có khả năng làm chủ được cuộc sống của mình. Thời
kỳ Phục Hưng và Khai sáng được coi là một thời kỳ mới trong việc khám phá bản
chất con người. Lúc này phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần

dần thắng thế ở Châu Âu, vai trò của con người trong xã hội được đề cao, con người
cá nhân (cái tôi như một chủ thể) bắt đầu được khẳng định. Tuy nhiên, do ảnh hưởng
của chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con người còn hạn hẹp, thiếu tính
hệ thống.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và dựa vào những
thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học mác-xít khẳng định rằng, giới tự nhiên là
cái có trước, con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con
người bước vào lịch sử với những điều kiện tồn tại không có sẵn như động vật, con
người phải lao động để sáng tạo ra những điều kiện phục vụ cho nhu cầu sống của
bản thân mình, lao động là cơ sở tạo nên các mối quan hệ xã hội giữa con người với
con người, giữa con người với tự nhiên. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra vai trò

13
của các mối quan hệ xã hội trong việc tạo nên bản chất con người. Trong Luận cương
về Feuerbach, Mác viết: "Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng,
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội" [8, tr.11]. Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra rằng, bản
chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải bất biến mà có
tính lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Con người luôn
sống trong một thời đại với những mối quan hệ xã hội nhất định. Con người khác con
vật ở chỗ, trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con người là
bản năng đã được ý thức. Con người không thu mình, thụ động trước hoàn cảnh, mà
luôn luôn hoạt động có mục đích. Hoạt động bản chất nhất của con người là lao động.
Bằng lao động con người đã tạo ra các sản phẩm vật chất, tinh thần cho cuộc sống
của mình. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình, từ đó làm nên lịch sử của cả xã hội loài người. Điều đó cho thấy
bản chất con người chỉ có thể hình thành trong hoạt động thực tiễn sinh động với mục
đích cải tạo tự nhiên và xã hội. Đưa quan điểm thực tiễn vào nghiên cứu con người,
lần đầu tiên trong lịch sử, triết học mác-xít đã không xem xét vấn đề con người một

cách tư biện, mà dựa trên cơ sở của đời sống thực tiễn - xã hội.
Đứng trên lập trường của triết học mác-xít, các nhà lý luận Việt Nam coi con
người là một hệ thống bao gồm các yếu tố: sức khỏe, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo
đức và các phẩm chất khác Nói cách khác, đó là một chỉnh thể thống nhất giữa thể
lực, tâm lực, trí lực được thể hiện trong hoạt động thực tiễn. Các yếu tố này có mối
quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, bổ sung và ảnh hưởng lẫn nhau, quy định lẫn
nhau.
Nhận thức rõ con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội,
Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận con người trong sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Chẳng hạn, theo Hồ Chí Minh, ai cũng có chỗ hay và chỗ dở, ai cũng có tính tốt và

14
tính xấu, có thiện, có ác, có ưu điểm, có khuyết điểm; quá trình cải tạo bản thân mỗi
con người nhằm làm cho phần xấu mất đi và phần tốt nảy nở như hoa cỏ giữa mùa
xuân. Đây là một quan điểm khoa học, sáng tạo, có tính biện chứng rất sâu sắc; quan
điểm ấy là cơ sở để Người có những chỉ đạo hết sức sáng suốt trong quá trình lãnh
đạo cách mạng nước ta. Trong thực tế, Hồ Chí Minh đã quy tụ được xung quanh
mình những con người có đức, có tài, luôn đem hết sức mình cống hiến cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Tóm lại, trong triết học mác xít, con người được hiểu như là một chỉnh thể
thống nhất về thể chất, trí tuệ, tâm hồn và hoạt động có tính lịch sử - xã hội, là chủ
thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất, tinh thần trong xã hội. Con người
trong triết học mác-xít là những con người với những mối quan hệ gia đình, cộng
đồng, giai cấp, xã hội, nhân loại; vừa là con người cá thể, vừa là con người nói chung.
Con người, trước hết là những người lao động, là nhân dân cần lao luôn gắn liền với
hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội, là những công dân với những
nhu cầu, khát vọng, những truyền thống lịch sử - văn hóa có khả năng làm chủ xã hội
và làm chủ chính bản thân mình.
Con người là một chỉnh thể sinh học - xã hội, điều khẳng định đó cho đến nay
có lẽ không gây nên sự tranh luận một cách mạnh mẽ trong giới khoa học, hay nói

một cách khác, không còn trở thành tâm điểm của sự tranh luận quyết liệt giữa các
học giả khi nghiên cứu về con người. Song, các vấn đề sau đây vẫn đang được đặt ra:
Thế nào là yếu tố sinh học ? Những yếu tố nào nào được coi là yếu tố xã hội trong
con người ? Sự tác động lẫn nhau giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội được thực
hiện theo cơ chế nào ? Những vấn đề này cho đến nay vẫn là tâm điểm chú ý của
các nhà khoa học trong và ngoài nước.
1.1.2. Khái niệm “Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người”
Khi bàn đến vai trò, ý nghĩa của nhân tố con người trong TTTTC, cũng như khi
đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy một cách triệt để nhân tố con người trong

15
công tác tuyển chọn, huấn luyện, thi đấu của thể thao đỉnh cao, chúng ta không thể
không xem xét một cách nghiêm túc khái niệm “Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người”. Có thể nói, cho đến nay không phải không có ý kiến cho rằng, tài
năng thể thao là những năng lực, những khả năng bẩm sinh; ý kiến này là cơ sở lý
luận cho sự tuyệt đối hoá yếu tố sinh học trong công tác phát hiện, tuyển chọn, bồi
dưỡng, đào tạo các tài năng thể thao. Bên cạnh đó, lại có ý kiến cho rằng, trong thời
đại của nền kinh tế trí thức thì khoa học công nghệ quyết định thành tích thể thao; ý
kiến này là cơ sở lý luận của sự coi thường và không đánh giá đúng về vai trò, ý
nghĩa của yếu tố sinh học trong công tác tuyển chọn và đào tạo các VĐV đỉnh cao.
Cả hai ý kiến trên đều hết sức sai lầm. Vì vậy, theo chúng tôi, cần phải xác định một
cách có hệ thống và chính xác khái niệm yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con
người nói chung.
Con người là một chỉnh thể sinh học - xã hội. Song, để có thể hiểu một cách
thấu đáo mối quan hệ, sự tác động lẫn nhau giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người thì việc đưa ra một khái niệm tương đối rõ ràng về yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội trong con người là vô cùng cần thiết. Nói một cách khác, để có thể hiểu
con người như một chỉnh thể sinh học - xã hội thống nhất, trước hết phải trả lời câu
hỏi: Thế nào là yếu tố sinh học? Và thế nào là yếu tố xã hội?
Các nhà triết học Phương Đông cổ đại đã nhận thức khá sâu sắc về những yếu

tố tự nhiên ngự trị trong mỗi con người. Họ đã đề cập đến mặt sinh học chi phối hành
vi của con người. Theo họ, đó là những hành vi bản năng (lục dục, thất tình) có ở tất
cả những con người trần thế. Trong sự chế ước lẫn nhau giữa một bên là hành vi
mang tính bản năng, một bên là hành vi mang tính tự ý thức của con người (yếu tố xã
hội), thì đạo làm người đã hiện diện hai yếu tố trong chỉnh thể người : yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Các nhà triết học cổ đại Phương Tây và Phương Đông nói chung đều không
đưa ra định nghĩa về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, mà chỉ đề cập

16
một cách chung dưới góc độ bản thể luận và nhận thức luận.
C. Mác và Ph. Ănghen khi bàn đến con người đã đề cập đến yếu tố sinh học
như sau: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ
thể của những cá nhân và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần
còn lại của tự nhiên” [3, tr.268]. Theo các ông, thứ nhất, con người thoát thai từ tự
nhiên, là thực thể tự nhiên; thứ hai, con người có tổ tiên từ động vật và khi mới tách
khỏi giới động vật thì về cơ bản cũng giống với súc vật. Đồng thời, C.Mác và Ph.
Ănghen đặt yếu tố sinh học trong mối quan hệ với yếu tố xã hội trong quá trình hình
thành và phát triển con người. Luận điểm sau đây cho thấy rõ điều đó: “Con người,
theo nghĩa đen của nó, là một động vật xã hội, không những là một động vật vốn có
tính hợp quần, mà còn là động vật chỉ có thể tách riêng ra trong xã hội mà thôi” [6, tr.
591]. Con người là động vật duy nhất nhờ quá trình lao động có mục đích nên đã
thoát ra khỏi tình trạng của loài vật. Thoát ra khỏi giới tự nhiên không có nghĩa là độc
lập một cách tuyệt đối với giới tự nhiên. Ngay cả khi con người tưởng như mình đã
tách khỏi, đã độc lập một cách tuyệt đối với giới tự nhiên, thì ngay lúc đó chúng ta
cũng vẫn có mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên, vì xương, thịt, máu và bộ não của
chúng ta là thuộc về tự nhiên, nằm trong giới tự nhiên như Ph. Ănghen đã từng khẳng
định.
Cho đến nay, quan điểm cho rằng con người phát triển từ giới động vật, nghĩa

là từ tự nhiên, vẫn còn nguyên giá trị. Như vậy, xét về mặt thời gian, yếu tố sinh học
là cái có trước; yếu tố đó là tiền đề, là điều kiện cần thiết cho sự hình thành và hoạt
động của con người xã hội. Cũng như vậy, trong hoạt động thể thao thành tích cao,
yếu tố sinh học là tiền đề, là điều kiện tiên quyết, tối cần thiết; nếu thiếu yếu tố đó thì
không thể có thể thao đỉnh cao.
Ngày nay, yếu tố sinh học trong con người được nhiều lĩnh vực khoa học khác
nhau nghiên cứu. Đồng thời, chính sự nghiên cứu nhiều mặt về con người cũng đã

17
giúp các nhà khoa học định nghĩa rõ hơn về yếu tố sinh học, yếu tố xã hội trong con
người.
Viện sỹ Kaliuza (người Nga) trong bài viết của mình đã trích dẫn định nghĩa
khá nổi tiếng của viện sỹ Đubinhin về yếu tố sinh học như sau: “Theo những đặc
điểm sinh học thì con người là một bộ phận của tự nhiên. Những đặc điểm này được
củng cố trong tính di truyền của nó. Chúng được ghi lại trong các cấu trúc của phân
tử ADN có vai trò di truyền. Điều này liên quan đến cả những đặc tính đảm bảo cho
mỗi con người thuộc loài người có lý trí “Homo sapiens” cũng như đến các đặc điểm
sinh học: cá nhân, cá thể của từng con người” [53, tr. 81- 82]. Như vậy, theo
Đubinhin, yếu tố sinh học của con người trước tiên thuộc về tự nhiên, là một phần
của tự nhiên; mặt khác, yếu tố sinh học của con người gắn với đặc tính di truyền, với
cấu trúc gen, vừa bao gồm cả những đặc tính chung của loài, lẫn những đặc tính riêng
quy định sự khác nhau giữa cá thể này với cá thể khác.
Khi xem xét yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người dưới góc độ là
những yếu tố quyết định trong thể thao thành tích cao, tác giả B.M. Kêđrôp cho rằng:
“Yếu tố sinh học là các tư chất thiên nhiên tiềm ẩn trong mỗi cá thể như một tiền đề,
còn yếu tố xã hội như là các điều kiện cần thiết để cho tiền đề này được bộc lộ, được
phát triển và chuyển hoá vào hành động của cá thể” [55, tr. 57]. Luận điểm này của
ông đã được thực tiễn hoạt động thể thao đỉnh cao chứng minh. Một nhà vô địch
không thể không có những tư chất thiên nhiên đặc biệt; song cái quan trọng hơn cả là,
những tố chất thiên bẩm đó phải được phát hiện, bồi dưỡng và được xã hội tạo những

điều kiện tốt nhất cho toả sáng. Hay nói một cách chính xác hơn, quan hệ giữa tư chất
thiên bẩm và những điều kiện cần thiết để bộc lộ tư chất ấy đã được đáp ứng bởi tác
động qua lại giữa các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài trong quá trình phát
triển của cá nhân sáng tạo, có sẵn những tư chất thiên bẩm ấy.
Những kết luận từ các nghiên cứu nhân chủng học cũng cho chúng ta biết thêm
về nguồn gốc và quá trình tiến hoá của những yếu tố sinh học của con người. Nhờ

18
những nghiên cứu đó nên những kết luận về sự tác động của môi trường, hoàn cảnh
xã hội tới các yếu tố sinh học là hoàn toàn có cơ sở và thuyết phục. Yếu tố sinh học là
tiền đề, vì thế nó có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Con người không thể
trở thành cá thể hiện hữu như nó đang là nó nếu không có yếu tố tiền đề sinh học.
Nhưng nếu chỉ có yếu tố sinh học thôi thì con người chưa thể trở thành con người với
đúng nghĩa của nó. Tất nhiên, khi nói đến con người là nói đến các vấn đề cá nhân, cá
tính; nhưng cá nhân, cá tính luôn chứa đựng sắc thái và tính chất xã hội. Bản chất của
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội như Mác đã từng nhấn mạnh. Điều đó
cũng có nghĩa rằng, con người chính là sản phẩm của xã hội, là sản phẩm của môi
trường mà trong đó, con người sống và hoạt động. Bản thân con người luôn chứa
đựng sự năng động, sáng tạo, do vậy chúng ta phải xem xét các mối quan hệ xã hội
ấy trong quá trình vận động và phát triển không ngừng.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về yếu tố xã hội trong con người. Nhưng
trong khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi chỉ nêu một số quan điểm tiêu biểu.
Một trong những quan điểm đó mà chúng ta không thể không kể đến, đó là quan điểm
của Lêônôvích [58, tr. 130]. Theo ông, lao động, quan hệ giữa người với người trong
sản xuất, môi trường sống và làm việc, các hình thái ý thức xã hội là những yếu tố
quan trọng hình thành nên mặt xã hội của con người. Chúng ta có thể thấy rằng,
những yếu tố mà Lêônôvích đưa ra đã tập hợp được hầu hết những điều kiện, hoàn
cảnh có ảnh hưởng một cách tích cực đến sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của
cá thể, cũng như của loài. Nhưng nếu khẳng định đó là những yếu tố xã hội trong con
người thì theo chúng tôi chưa thật thoả đáng. Bởi vì, yếu tố xã hội trong con người

theo quan điểm mác-xít là cái cùng với yếu tố sinh học để tạo thành cái chỉnh thể sinh
học - xã hội trong con người, những yếu tố ấy kết tinh trong bản chất của con người.
Những yếu tố mà Lêônôvích đưa ra là những yếu tố mang tính tác động, còn yếu tố
xã hội trong con người lại là vấn đề khác. Yếu tố xã hội trong con người phải là yếu
tố đã được chủ thể hoá. Nó không đơn thuần chỉ là những sự quy định về mặt xã hội.

19
Nó không chỉ được tạo nên nhờ sự tác động của môi trường sống, mà còn được tạo
nên nhờ khả năng nhận thức, trí nhớ, tư duy logic, tình cảm khác nhau của mỗi con
người. Nếu chỉ có hoàn cảnh xã hội, môi trường giáo dục thì không thể tạo nên yếu
tố xã hội trong con người. Bởi vì, dù có cùng một hoàn cảnh sống, cùng một môi
trường giáo dục , chúng ta cũng không thể tạo ra được yếu tố xã hội trong bất kỳ
một loài vật nào khác. Chỉ có con người, với quá trình chủ thể hoá các yếu tố xã hội
mà làm thay đổi một số bản năng sinh học, trở thành con người với nghĩa đích thực
của nó.
Chúng ta cũng có thể tóm tắt quan điểm của Luyxiêng Sêvơ về yếu tố xã hội
như sau: “Sự quá độ từ tính vật sang tính người có ý nghĩa là sự tích luỹ bên trong
của một thể loại kinh nghiệm được bổ sung dưới hình thức truyền thụ những hành vi
có tính chất di truyền vô cùng hạn chế qua sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên, và dần
dần được thay thế bằng một sự tích luỹ bên ngoài rất mau chóng dưới hình thức một
sự di truyền có tính chất xã hội tiếp nhận từ các đối tượng và các mối quan hệ (một sự
tích luỹ tâm lý mà không có hình thức và giới hạn của tính chất cá nhân). Cái mà
nhân loại đã tích luỹ được - khác hẳn với thế giới loài vật - không có tính chất hành
vi trực tiếp; sự tích luỹ ấy phần lớn là từ những thực tế xã hội, trong đó đời sống tâm
lý hình như mất đi, bị phủ định về hình thức. Kết quả là mỗi cá nhân phải tái hiện nên
những hình thức tâm lý đó trước hiện thực bằng cách cá nhân tiếp nhận và đồng hoá
với những thực tế và để tự mình thoát ra khỏi tính vật để đạt tới hành vi của tính
người. Sự phủ định của phủ định đó, như phép biện chứng đã chỉ ra, là sự phản ánh
bước tiến to lớn về chất của quá trình con người thoát thai từ loài vật mà ra” [23,
tr.18, tr. 25].

Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu một cách khái quát về yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội trong con người như sau: Yếu tố sinh học trong con người là những
cái về mặt phát sinh gắn bó mật thiết với tổ tiên động vật của con người, là những cái
làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể, như một hệ thống phục

20
tùng một cách nghiêm ngặt các quy luật sinh học, là toàn bộ tiền đề sinh học của con
người. Còn yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ xuất hiện do ảnh hưởng của các điều
kiện xã hội khác nhau, là những quy định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người.
Những quy định này là sản phảm của sự kết hợp giữa sự hoàn thiện của đại não với
sự tác động của môi trường xã hội, chúng tạo nên phần ý thức của con người, làm cho
con người có khả năng nhận thức, có trí nhớ, có tư duy logic, biết quyết định hợp lý,
đúng đắn tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể một cách linh hoạt. Cơ sở sinh học để tạo
nên yếu tố xã hội trong con người là vỏ đại não, còn cơ sở xã hội để tạo nên yếu tố
đó là môi trường xã hội mà con người sống, học tập, lao động và giao tiếp.
Như vậy, con người là một chỉnh thể sinh học - xã hội, các yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội có quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau. Sự tác động đó là điều đã
rõ ràng. Nhưng các vấn đề mà chúng ta hiện nay đang quan tâm là: trong hoạt động
thể thao đỉnh cao, yếu tố sinh học đóng vai trò quan trọng và quyết định như thế nào?
Sự tác động trở lại của yếu tố xã hội tới sự hoàn thiện và phát triển của yếu tố sinh
học diễn ra như thế nào? Bằng những biện pháp cụ thể nào để có thể cải tạo nòi
giống, nâng tầm vóc, hình thể người Việt Nam ; hay nói một cách cụ thể hơn, cơ
chế tác động lẫn nhau giữa các yếu tố đó với nhau diễn ra như thế nào? Những vấn
đề này, đúng như GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn đã nhận xét, vẫn là sự thách đố lớn
đối với thời đại, đòi hỏi sự quan tâm chú ý một cách đặc biệt của tất cả các ngành
khoa học.
1.1.3. Tiếp cận khái niệm “Nhân tố con người”
Xác định (tiếp cận, định nghĩa) một khái niệm khoa học là một trong những
công việc hết sức khó khăn, song lại vô cùng cần thiết. Nếu hiểu không đúng về một
khái niệm khoa học nào đó thì chúng ta sẽ không xác định được đúng đối tượng

nghiên cứu. Nhiệm vụ mà chúng tôi đặt ra là xác định một cách có hệ thống, cụ thể
và làm rõ khái niệm “Nhân tố con người” để từ đó: chỉ ra sự biểu hiện thực trạng, ý
nghĩa và xu thế phát triển của nhân tố đó trong hoạt động TTTTC ở Việt Nam; tìm ra

21
nguyên nhân và các giải pháp nhằm nâng cao và phát huy một cách triệt để nhân tố
con người trong hoạt động thể thao đỉnh cao ở Việt Nam. Hơn thế nữa, việc xác định
một cách có hệ thống, cụ thể và rõ ràng khái niệm “Nhân tố con người” cũng đánh
dấu một bậc thang của quá trình nhận thức của chúng ta về đối tượng nghiên cứu.
Theo chúng tôi, khi xác định khái niệm “Nhân tố con người” chúng ta cần phân
biệt khái niệm này với mấy khái niệm sau đây: “Con người”; “Yếu tố con người”;
“Nguồn lực con người (nguồn nhân lực)”. Trong một số sách báo các khái niệm “Yếu
tố con người”, “Nguồn lực con người”, “Nhân tố con người” được dùng như những
từ khác âm đồng nghĩa. “Con người”, hay nói một cách chính xác hơn khái niệm về
con ngư ời, đã được chúng tôi trình bày một cách khá tổng quát ở phần trên. Ở đây
chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, khái niệm “Con người” có một nội hàm rất
rộng. Trái với quan niệm duy tâm và duy vật máy móc về con người, chủ nghĩa Mác
quan niệm rằng, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội. Con người vừa được xem xét như là bản thể tự nhiên, vừa được xem xét như
bản thể xã hội và phải được coi là chủ thể đích thực của mọi quá trình phát triển xã
hội. Con người chỉ thật sự trở thành người trong quá trình lao động, con người “với
tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Vì
lẽ đó, trong cơ thể con người, không chỉ có nhu cầu và các quy luật sinh học, mà còn
có những nhu cầu và quy luật sinh - tâm lý, quy luật xã hội. Hơn thế nữa, ngay cả
những nhu cầu tự nhiên của con người cũng không “thuần tuý tự nhiên” nữa mà đã
mang tính xã hội cao và ngày càng được xã hội hoá sâu sắc. Vì vậy, trong đời sống
thực tiễn, con người không bộc lộ ra như là bản thể sinh vật, mặc dù cơ thể con người
thuộc về giới tự nhiên, mà bộc lộ ra là bản thể xã hội. Một khi quan niệm về con
người, về bản chất của con người được hiểu như trên, thì khó có thể đồng ý được với
luận điểm cho rằng, khái niệm con người được dùng để chỉ con người một cách

chung chung, còn khái niệm nhân tố con người là cụ thể hoá khái niệm con người
trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể khác nhau. Sở dĩ có người đồng nhất khái

22
niệm con người với nhân tố con người là vì một lý do về kết cấu từ của tiếng Việt.
Nếu nhân tố con người được hiểu là “Nhân tố về con người”, tức là con người với tư
cách một nhân tố, thì theo tác giả Hoàng Thái Triển [36, tr.17], đó là một sự nhầm lẫn
rất đáng tiếc, bởi trong tiếng Việt từ “con người” trong nhân tố con người được dùng
như một tính từ, cho nên phải được hiểu là nhân tố mang tính người, nhân tố nhân
văn như một số tiếng phương Tây (human factor, facteur humain). Điều đó hoàn toàn
phù hợp với tư tưởng của Mác khi ông phân tích lao động có tính người, tính nhân
bản ở con người [9, tr.18].
Hiểu theo nghĩa chung nhất, “Nguồn nhân lực” là tổng hợp toàn bộ các yếu tố,
các quá trình (vật chất hay tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, khái niệm nguồn nhân lực bao chứa trong
đó không chỉ năng lực, sức mạnh của con người đã qua, hiện có, mà còn cả những
năng lực, sức mạnh ở dạng tiềm năng tạo thành những thế hệ nối tiếp nhau. Dưới
dạng khái quát, khái niệm “Nguồn lực con người” có phạm vi bao quát rộng, nó
không chỉ phản ánh số lượng và cơ cấu dân cư, lực lượng lao động, mà còn chủ yếu
phản ánh chất lượng người lao động trong hiện tại và trong tương lai gần (dưới dạng
tiềm năng) thể hiện qua hàng loạt các yếu tố sau: trình độ giáo dục và đào tạo; văn
hoá chuyên môn và nghề nghiệp; trình độ học vấn; khả năng sáng tạo; kỹ năng lao
động; văn hóa lao động; sức khoẻ; mức sống; tâm - sinh lý; tư tưởng, tình cảm, tính
cách , trong đó trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng nhất.
Trước khi đưa ra quan niệm của mình về “Nhân tố con người”, chúng tôi
muốn trình bày quan niệm của C. Mác và của một số tác giả khác về nhân tố con
người. Trong khi bàn về sản xuất, C.Mác đã phân biệt hai loại nhân tố “Những nhân
tố vật, hay tư liệu sản xuất và nhân tố người, hay sức lao động” [7, tr. 276]. Như vậy,
Mác đã định nghĩa nhân tố con người là “Sức lao động”, sau đó C.Mác định nghĩa
tiếp về sức lao động như sau: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là

toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con

23
người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử
dụng nào đó” [7, tr. 251]. Như vậy, khái niệm nhân tố con người không hoàn toàn
trùng hợp với khái niệm con người. Nhân tố con người không phải là con người mà là
cái tồn tại trong con người, là những năng lực thể chất và tinh thần do con người vận
dụng để để thực hiện chức năng hoạt động sản xuất như lực lượng định hướng và là
động lực của quá trình sản xuất. Nhân tố con người chỉ là một mặt, một khía cạnh,
một trắc diện nhân bản của con người. Khái niệm nhân tố con người xuất hiện không
phải là để miêu tả lại, miêu tả thừa về khái niệm con người trong lực lượng sản xuất,
mà là để miêu tả mối quan hệ Người và Vật trong quá trình hoạt động thực tiễn nhằm
cải tạo tự nhiên và xã hội [36].
Ở Liên Xô (cũ) và Cộng hoà liên bang Nga ngày nay đã và đang tồn tại hai
cách tiếp cận khác nhau về vấn đề nhân tố con người . Cách tiếp cận thứ nhất xem xét
nhân tố con người như là những hoạt động, những năng lực và khả năng của mỗi cá
nhân bao gồm tiềm năng trí tuệ, tiềm năng thể lực, chịu sự quy định của những nhu
cầu về lợi ích. Cách tiếp cận trên nhấn mạnh đến mặt hoạt động cụ thể của con người.
Cách tiếp cận thứ hai xem xét nhân tố con người là tổng hoà các phẩm chất, các thuộc
tính, các đặc trưng năng lực đa dạng của con người nói chung. Những người theo
cách tiếp này phân biệt khái niệm nhân tố con người với khái niệm con người nói
chung và xem khái niệm con người là nội hàm của khái niệm nhân tố con người [52].
Đại biểu đầu tiên chúng tôi muốn nhắc tới là B.A. Krutov. Ông đã có rất
nhiều bài viết luận bàn về nhân tố con người. Theo ông, khi nhắc đến nhân tố con
người, thì không thể không đề cập tới nhân tố xã hội. Khái niệm nhân tố con người
theo ông, được hiểu như mối quan hệ hữu cơ biện chứng giữa con người và xã hội,
mối quan hệ đó bao gồm hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là ý nghĩa, tác dụng, tầm
quan trọng của hoạt động con người đối với quá trình phát triển xã hội (được gọi là
“Nhân tố con người”). Khía cạnh thứ hai là ý nghĩa, tác dụng, tầm quan trọng của xã
hội đối với quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện con người với tính cách là


24
chủ thể xã hội (được gọi là “Nhân tố xã hội”). Chính mối quan hệ biện chứng trên
góp phần làm rõ hơn, làm sâu hơn nội dung khái niệm nhân tố con người trong chế
độ XHCN. Có thể hiểu rằng, trong xã hội chúng ta, con người không thể chỉ đòi hỏi
quyền lợi mà không biết đến trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trước xã hội, và
ngược lại, không thể chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ mà lại không có quyền lợi. Tất
cả những luận điểm trên hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc của CNXH: “Mình vì mọi
người, mọi người vì mình”. Chính mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội
được hình thành và hoàn thiện trong chế độ XHCN đã là một trong những yếu tố hết
sức quan trọng góp phần khắc phục một cách triệt để những mâu thuẫn và những bất
cập luôn luôn hiện hữu giữa con người và xã hội. Theo ông, nhân tố con người bao
hàm những nội dung chính sau: “Đó là những ngôi nhà thân thương, là gia đình ấm
cúng, là Tổ Quốc thiêng liêng, là quê hương ngọt ngào, là đồng chí đồng bào, là tự
do, là trách nhiệm, là danh dự, là lương thiện, là công bằng, là lẽ phải, là yêu chuộng
hoà bình, là lòng dũng cảm, là lao động sáng tạo, là tài năng và trí thông minh ” [57
tr. 134]. Tất cả các nội dung ấy được xây dựng và hoàn thiện trên mối quan hệ biện
chứng giữa con người và xã hội, và chúng chỉ được phát triển lên một tầm cao mới
trên cơ sở hình thành và phát triển con người mới XHCN.
Đại biểu thứ hai, học giả nổi tiếng C.K. Isurin. Ông là tác giả bài viết “Con
người trong quá trình phát triển CNXH”, bài viết này đã từng gây tiếng vang trong
giới khoa học trong và ngoài nước. Với ông, khái niệm “Nhân tố con người” phản
ánh nội dung căn bản của quy luật khách quan về vai trò của quần chúng nhân dân và
cá nhân trong lịch sử; nhân tố con người bao gồm: khả năng, năng khiếu, kinh
nghiệm, trí tuệ, tình cảm, lý tưởng đạo đức của con người. Nhân tố con người được
bộc lộ và thể hiện trong quá trình hoạt động thực tiễn, đóng vai trò vô cùng quan
trọng và quyết định tới quá trình phát triển xã hội. Phát huy nhân tố con người là quá
trình phát hiện và làm bộc lộ những khả năng vốn có của con người, là quá trình sử
dụng một cách hiệu quả tiềm năng sáng tạo của con người vào công cuộc xây dựng

×