Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THỊ VÂN CHI



VAI TRÕ CỦA GIA ĐÌNH
TRONG VIỆC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC
TRẺ EM Ở TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. PHẠM CÔNG NHẤT








HÀ NỘI - 2010

Môc lôc
MỞ ĐẦU 1
Ch-¬ng 1. GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC BẢO
VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 8
1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình 8
1.1.1. Gia đình và những đặc điểm cơ bản của gia đình 8
1.1.2. Về chức năng giáo dục của gia đình 11
1.2.3. Những nội dung cơ bản trong giáo dục gia đình 12
1.2. Trẻ em và mối quan hệ giữa trẻ em với gia đình và xã hội 22
1.2.1. Trẻ em 20
1.2.2. Mối quan hệ giữa trẻ em với gia đình và xã hội 25
1.3. Vai trò của gia đình trong việc việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
ở nước ta hiện nay 27
1.3.1. Đặc điểm và nội dung của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay 27
1.3.2. Vai trò của các thế hệ trong gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em 30
1.3.3. Mối quan hệ giữa gia đình với nhà trường và xã hội trong việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em 35
1.3.4. Những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta về vai trò của gia
đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 39
Ch-¬ng 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ
GIÁO DỤC TRẺ EM Ở TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY 47
2.1. Vài nét về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tổ chức đời
sống gia đình ở tỉnh Cao Bằng hiện nay 47
2.1.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội 47
2.1.2. Về đặc điểm của mô hình tổ chức đời sống gia đình 56

2.2. Thực trạng việc phát huy vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay 61
2.2.1. Những thành tựu 61
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 67
2.2.3. Những vấn đề đặt ra 74
2.3. Một số giải pháp cơ bản và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của
gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao
Bằng hiện nay 75
2.3.1. Một số giải pháp 75
2.3.2. Một số đề xuất, kiến nghị 89
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 98


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là nơi cội nguồn sinh ra và lớn lên của mỗi con người và là
nơi trẻ em được chăm lo về thể chất và trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hoà
nhập với cộng đồng xã hội. Trong các thiết chế xã hội của một xã hội nhất
định đều có những vai trò cụ thể trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em nhưng chúng ta có thể khẳng định được rằng: Gia đình là môi trường đầu
tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ em và
ảnh hưởng lâu dài tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời.
Với tầm nhìn xa trông rộng "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người" [24, tr.222], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công săn
sóc vun trồng thế hệ mầm non của đất nước. Người nói: "Ngày nay các cháu
là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [22,

tr.222]. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: "Non sông Việt Nam có trở nên đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các cháu" [21, tr.33].
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
chiến lược phát triển con người được đặc biệt coi trọng, trong đó ưu tiên trẻ
em chiếm vị trí hàng đầu. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là nước
thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước hành động quốc gia về Quyền trẻ
em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em được thông qua,
khẳng định việc giành ưu tiên cho trẻ em các quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hoá.
Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội nhưng Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta vẫn tập trung mọi nỗ lực, huy động nhiều nguồn lực

2
trong đó có sự giúp đỡ của quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng về
trẻ em như sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục đặc biệt là các đối tượng thiệt
thòi vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên hiện nay dưới sự tác động của mặt trái của
nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hoá nhanh, hội nhập và giao lưu rộng đã
ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện các chức năng của gia đình, đặc biệt là
các gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa không đủ điều kiện và chưa biết cách
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái của mình trong điều kiện xã hội có
nhiều biến chuyển làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền của trẻ em.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn, trình
độ dân trí thấp và chưa đồng đều giữa các dân tộc. Do đó công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế, nhất là trẻ em vùng dân tộc
thiểu số còn chịu nhiều thiệt thòi trong việc hưởng những quyền lợi trên. Điều
này đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất và trí tuệ và tinh thần của
các em.

Do đó tôi chọn đề tài: "Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay", qua đề tài này mong
muốn sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao nhận thức xã hội để trẻ em, đặc
biệt là trẻ em vùng khó khăn được tạo những điều kiện tốt nhất để phát triển
toàn diện.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề gia đình cũng như vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
từ lâu đã được các nhà giáo dục, tâm lý học, xã hội học nghiên cứu. Tiêu biểu
là một số công trình của Pêtrecnhicôva: "Giáo dục trong gia đình Mác", Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 1977; A.Macarencô: "Nói chuyện về giáo dục gia đình:,
Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1978; I.A. Pêtechnhicôva, "Dạy con yêu lao động",
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.1980. Các công trình này đã đề cập đến một số khía cạnh
về giáo dục trẻ em trong môi trường gia đình. A.Macarencô nhấn mạnh: Giáo

3
dục trẻ em phải được bắt đầu từ thời thơ ấu và từ gia đình. Nếu tuổi thơ không
được gia đình giáo dục ngay từ đầu thì công việc giáo dục sẽ tốn kém rất
nhiều về công sức không chỉ của gia đình mà còn của xã hội; theo I.A.
Pêtechnhicôva: muốn con cái lớn lên khoẻ mạnh, vui tươi, yêu đời và cống
hiến được nhiều cho xã hội thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về lao động
(lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội ) bởi con người được
hình thành trước hết phải trải qua quá trình lao động.
Tháng 12 năm 1989, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua "Công
ước về quyền trẻ em". Nội dung của Công ước quy định từng vấn đề cụ thể
liên quan đến toàn bộ cuộc sống tinh thần và vật chất của trẻ em, trong đó có
đề cập đến trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
Ở Việt Nam, sau Cách mạng tháng Tám 1945, Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đến vấn đề gia đình và trẻ em, đã có nhiều văn bản về gia đình và
vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Như Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ

nghĩa Việt Nam ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số
25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004; Ủy ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Việt Nam "Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 và "Chương trình
hành động quốc gia về trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010" Nxb Văn hoá
phẩm, Hà Nội, 2002; TS Vũ Như Cương (tuyển chọn), "Hồ Chí Minh về bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
Nguyễn Văn Minh (sưu tầm, tuyển chọn), "Việt Nam và các văn kiện quốc tế
về quyền trẻ em" Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Quốc hội nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, "Luật Giáo dục", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998. Tất cả các bài viết, các văn bản trên đã tạo điều kiện tốt về mặt
pháp lý để trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.

4
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên
cứu về vấn đề này như: "Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình" do GS Lê Thi
(chủ biên) Nxb KHXH, Hà Nội, 1994; "Gia đình Việt Nam và chức năng xã
hội hoá" của TS Lê Ngọc Vân - Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996; " Vai trò của
gia đình trong sự nghiệp hình thành nhân cách con người Việt Nam" của GS
Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1997. Những công trình này đã
cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết về gia đình trang bị những kiến
thức khoa học để nuôi dạy con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội
với những nội dung chăm sóc gia đình cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ, lao động
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên
cứu các vấn đề vai trò của gia đình, vai trò của phụ nữ trong việc giáo dục thế
hệ trẻ: Luận văn ThS Phạm Thị Xuân "Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc
trẻ em ở nước ta hiện nay" Hà Nội, 2004; Luận án TS của Đặng Thị Linh,
"Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp"
Hà Nội, 1997; Luận án TS. Nghiêm Sỹ Liêm "Gia đình Việt Nam vai trò của
người phụ nữ hiện nay" Hà Nội, 2003; TS. Phạm Công Nhất - PGS.TS Phan

Thanh Khôi (đồng chủ biên) “Một số vấn đề về những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin”, tập III, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008…
Các công trình đã góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực
tiễn về vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người.
Tỉnh Cao Bằng tuy còn nhiều bất cập trong công tác chăm sóc bảo vệ và giáo
dục trẻ em nhưng hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về vai trò của
gia đình trong chăm sóc và bảo vệ trẻ em ở tỉnh Cao Bằng một cách có hệ
thống và đó là một khoảng trống mà đề tài luận văn này hướng tới nghiên
cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn

5
Luận văn làm rõ thực trạng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của gia
đình ở Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của gia đình trong việc bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em;
- Tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng về những nội dung cơ bản
của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình ở tỉnh Cao
Bằng trong giai đoạn hiện nay;
- Đề xuất những giải pháp kiến nghị để nhằm nâng cao vai trò của gia
đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng của luận văn:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò của gia đình
trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Cao Bằng

hiện nay.
* Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn:
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ vai trò của gia đình
trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong phạm vi tỉnh Cao Bằng.
- Giới hạn nghiên cứu: Luận văn khảo sát số liệu và phân tích trong
giới hạn từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn:

6
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước ta về
gia đình, trẻ em và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích,
tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Cái mới và những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
* Cái mới của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận những
vấn đề triết học có liên quan đến gia đình trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tạo thêm cơ sở để
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Cao Bằng đề ra các chính sách phù hợp trong
việc phát huy vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em của tỉnh nhà trong thời gian tới; kết quả nghiên cứu của luận văn cũng bổ
sung thêm vào hệ thống các tài liệu nhằm phục vụ công tác giảng dạy và
nghiên cứu đối với các môn học như Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa
học,v.v
* Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn

- Luận văn góp phần làm sảng tỏ thêm về mặt lý luận vai trò của gia
đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và thực tiễn ở một tỉnh còn
gặp nhiều khó khăn như Cao Bằng
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp nguồn tư liệu
để các cấp uỷ chính quyền, các tổ chức xã hội, các gia đình ở Cao Bằng tham
khảo, từ đó làm tốt hơn công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

7
7. Kết cấu chính của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Gia đình và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và những giải pháp nhằm phát huy vai trò của
gia đình trong việc công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao
Bằng hiện nay.







8
Chương 1
GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC BẢO VỆ,
CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình
1.1.1. Gia đình và những đặc điểm cơ bản của gia đình

Gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng và là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Những chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút
được sự quan tâm của các nhà khoa học không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế
giới. Đến nay khái niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống
nhất và rõ ràng nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách hiểu chung nhất:
“Gia đình là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho
sự phát triển và hạnh phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em” (Tuyên bố của
Liên hiệp quốc về tiến bộ xã hội trong phát triển).
Theo C.Mác “…hàng ngày tái tạo ra đời sóng của bản thân mình, con
người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nẩy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình [19, tr.41].
Với quan điểm này khái niệm về gia đình được nhìn nhận với ba nội
dung:
Một là, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội
loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì
đồng thời cũng tái tạo ra gia đình.
Hai là, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con
người.
Ba là, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (chồng, vợ) và quan hệ huyết thống (cha mẹ, con cái).

9
Tổ chứa UNESCO của Liên hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là
năm quốc tế gia đình và thống nhất khẳng định: “Gia đình là một yếu tố tự
nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô
cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và phát huy”, trên tinh thần đó
UNESCO đã đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung với các thành viên trong gia
đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi mặt được pháp luật
thừa nhận”.

Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình:
Xét từ góc độ xã hội học: Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên
cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng các thành
viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn
hoá, tình cảm) giữa họ, là những quan hệ có tính pháp lý được nhà nước thừa
nhận và bảo vệ, đồng thời có những quy định rõ ràng về quyền được phép và
những cấm đoán trong quan hệ tiìn dục giữa các thành viên trong gia đình [2,
tr.190].
Xét từ góc độ triết học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn bó
về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật chất,
tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị nhỏ nhất
của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản chiếu
mọi thành tựu,cũng như mâu thuẫn xã hội.
Khái quát các nội dung trên, tác giả Lê Thi cho rằng: Khái niệm gia
đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn
nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và chung sống (cha mẹ,
con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại), gia đình có thể bao gồm một số người
được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống, các thành viên
trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa,
tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc bởi tính pháp lý, được nhà nước

10
thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình của nước
ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép
và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [30, tr.20-21].
Khái niệm gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam ghi nhận trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 8) xác định: Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với
nhau theo luật định.

Qua những quan niệm trên về gia đình chúng ta có thể thấy rằng gia
đình được thừa nhận ở các quan hệ cơ bản sau:
Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên
cơ sở quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa một nam và
một nữ theo quy định của pháp luật, nhằm đề cùng sống với nhau và xây dựng
gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân (quan hệ vợ chồng) được biểu hiện là
một loại quan hệ xã hội mà một nam và một nữ kết hợp với nhau để sinh sản
và cùng nuôi dạy con cái. Trong các xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là
một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có
các kiểu hôn nhân đặc trưng và các giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp mình.
Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng trực hệ
dòng máu, là sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ
phát triển tốt đẹp dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp
pháp.
Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và
đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Như vậy, dù diễn đạt ở những cách khác nhau nhưng chúng ta có thể
cùng thống nhất về cơ bản: Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng

11
trên cơ sở các mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên được xã hội thừa nhận.
1.1.2. Về chức năng giáo dục của gia đình
Gia đình có các chức năng cơ bản như chức năng tái sản xuất ra con
người, chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục và chức
năng thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm giữa các thành viên trong
gia đình. Trong đó chức năng giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành những thế hệ công dân mới, có ích cho gia đình và cho

xã hội, là lớp người kế cận người đi trước, là chủ nhân tương lai của đất nước
C.Mác khẳng định: con người là một thực thể trong đó có sự thống nhất
giữa hai mặt sinh vật - xã hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được
sống trong môi trường xã hội, nếu không được hưởng những chế độ giáo dục
của gia đình và của xã hội đứa trẻ không trở thành một con người đúng nghĩa.
Những thành tựu khoa học đã chứng minh quan điểm này là đúng đắn. Bởi
vậy có thể khẳng định rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ thành một con
người thực sự được diễn ra trong môi trường xã hội, trong đó đặc biệt là sự
chăm sóc và giáo dục của gia đình.
Thực tiễn cuộc sống ngày nay đã chỉ ra rằng: chăm sóc và giáo dục
trong gia đình có vai trò đặc biệt to lớn, vì nuôi dưỡng, giáo dục gia đình
mang tính cá biệt và đậm nét giáo dục thông qua tình cảm và là môi trường
đầu tiên cho con người lớn lên. Giáo dục trong nhà trường và xã hội không
phân biệt giới tính, trí tuệ sức khoẻ, đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh sống của
mỗi cá nhân.
Chức năng giáo dục của gia đình thể hiện ở một số nội dung cơ bản
như: giáo dục tri thức, giáo dục về kỹ năng lao động, giáo dục về đạo đức lối
sống, giáo dục về thể chất thẩm mỹ, giáo dục về giao tiếp ứng xử… diễn ra
trong mọi giai đoạn của con người (từ trong bào thai, giai đoạn tuổi thơ,

12
trưởng thành) và được thực hiện qua tất cả các hoạt động tổ chức đời sống vật
chất và tinh thần cho các thành viên trong gia đình.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chức năng giáo dục của gia đình thực sự
góp phần lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ xây dựng con người mới nói chung
trong việc duy trì và phát triển đạo đức, văn hoá dân tộc. Giáo dục gia đình là
bộ phận của giáo dục xã hội, giáo dục trong gia đình mới đòi hỏi sự cố gắng
cao và những hiểu biết về khoa học, tâm lý… của cha mẹ và của mọi thành
viên khác, kết hợp chặt chẽ môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội)
để tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho

đất nước là một yêu cầu quan trọng.
1.1.3. Những nội dung cơ bản trong giáo dục gia đình
1.1.3.1. Giáo dục tri thức
Giáo dục tri thức trong gia đình khác với quá trình giáo dục tri thức ở
trường học cũng như ở các môi trường khác. Giáo dục tri thức trong gia đình
là quá trình các thế hệ đi trước mà trực tiếp nhất là cha mẹ sau đó là ông bà,
anh chị, các cô dì, chú bác chỉ bảo cho đứa trẻ những kiến thức cơ bản giúp
đứa trẻ sớm nhận biết, làm quen và hòa nhập được với thế giới xung quanh.
Ngay từ khi đứa trẻ còn ở giai đoạn sơ sinh chưa nhận biết được nhiều
về thế giới bên ngoài, các thành viên trong gia đình đã chú ý đến giáo dục cho
trẻ để khích thích các giác quan của trẻ. Vì sự phát triển của các giác quan
chính là sự phát triển ban đầu của nhận thức, của trí tuệ thô sơ nhất khi con
người mới lọt lòng. Việc phát huy các chức năng của các giác quan được các
thành viên trong gia đình quan tâm thực hiện như cho trẻ nghe nhạc và những
lời hát ru êm ái để phát triển thính giác, treo đồ chơi nhiều mầu sắc để phát
triển thị giác, cho trẻ cầm nắm các đồ vật để phát triển xúc giác, thường
xuyên nói chuyện với trẻ để bồi dưỡng mầm mống tiếng nói cho trẻ và thúc
đẩy giao lưu tình cảm…

13
Khi đứa trẻ lớn hơn, tư duy của trẻ lúc này đã tốt hơn nhất là tư duy
bằng hình tượng. Trẻ đã biết suy luận đơn giản, có khả năng khái quát, tổng
hợp các hoạt động, các thành viên trong gia đình thường chú ý cho các trẻ
hoạt động nhiều hơn thông qua các trò chơi đơn giản để vừa phát triển thể
chất vừa phát triển trí tuệ. Đặc biệt các thành viên trong gia đình chú ý giáo
dục về sự khác biệt giới tính cho trẻ em, trả lời cho trẻ những câu hỏi tò mò
về sự khác biệt giới tính và định hướng cho trẻ giải quyết nhiều tình huống
mà các em thường gặp phải trong cuộc sống.
Khi trẻ bước vào giai đoạn đến trường, lúc này trẻ cần được chuẩn bị
tốt mọi mặt để sẵn sàng bước vào môi trường mới. Sự giáo dục của gia đình

và xã hội sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện về cả nhân cách lẫn trí tuệ. Ở giai
đoạn này, tâm lý trẻ có những biểu hiện đặc thù và rất nhạy cảm nên nhiều
bậc cha mẹ đã gặp phải không ít khó khăn trong quá trình giáo dục con cái.
Điều quan trọng nhất ở giai đoạn này trong giáo dục ở gia đình là các thành
viên trong gia đình phải nắm bắt và tìm hiểu tâm lý của con, thường xuyên trò
chuyện để đồng cảm và cùng con giải quyết những vấn đề đặt ra theo hướng
tốt nhất.
Việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp
và huy động được các nguồn lực trong xã hội tham gia ngày càng tích cực vào
sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
1.1.3.2. Giáo dục thái độ, kỹ năng lao động
Lao động là tiêu chí số một để đánh giá đạo đức và tài năng con người
ở trong bất cứ xã hội nào. Nếu không có lao động của cá nhân thì sớm hay
muộn con người cũng tự đánh rơi mất giá trị vốn có và hạ thấp nhân phẩm của
mình xuống trình độ con vật. Bản chất tốt đẹp của lao động và của con người
lao động trước hết là để tự nuôi sống bản thân mình, không phải là một loài
ký sinh sống bám gia đình và xã hội.

14
Giáo dục thái độ, kỹ năng, thói quen lao động đối với con người là vô
cùng quan trọng phải bắt đầu từ tuổi thơ. Thái độ lao động, kỹ năng, thói quen
và tình yêu lao động là những yếu tố nhân cách gốc mà gia đình cần đặc biệt
quan tâm. Những thái độ, kỹ năng, thói quen lao động cần thiết phải giáo dục
cho trẻ trong gia đình là:
- Thái độ tôn trọng mọi loại lao động chân tay cũng như trí óc đều tạo
ra sản phẩm vật chất và tinh thần cần thiết cho đời sống con người trong xã
hội.
- Tôn trọng, quý mến đối với mọi người lao động vì bất cứ là nghề gì
cũng cần thiết cho đời sống xã hội. Kính phục, khiêm tốn, kiên trì học tập, noi

gương những người lao động giỏi, sáng tạo, chăm chỉ, chuyên cần, vượt khó
bằng ý chí tự lực cánh sinh.
- Có thái độ lao động tự giác theo nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và
tương tự các thành viên khác vì cuộc sống chung của gia đình.
- Căn cứ vào sự trưởng thành theo lứa tuổi mà các bậc cha mẹ giáo dục
con trẻ kỹ năng, thói quen lao động tự phục vụ từ đơn giản đến phức tạp như
vệ sinh, sắp xếp nhà cửa gọn gàng…
- Giáo dục cho trẻ làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, có trách
nhiệm hoàn thành công việc cho phù hợp với khả năng của mình khi được cha
mẹ giao. Điều quan trọng là cha mẹ làm sao giáo dục cho trẻ thói quen lao
động tự giác và tinh thần vượt khó.
- Giáo dục thái độ, kỹ năng, thói quen đối với lao động phải kèm theo
với ý thức trách nhiệm quý trọng những sản phẩm lao động, tức là phải biết sử
dụng đúng mức các sản phẩm, vật dụng hàng ngày của cá nhân và gia đình.
Nghĩa là phải giáo dục ý thức thái độ cần cù trong lao động, tiết kiệm trong
chi tiêu.
- Ở lứa tuổi thanh thiếu nhi, lao động chủ yếu của các em là lao động
học tập, vì các em sống hoàn toàn vào sự chu cấp của bố mẹ. Do đó, việc giáo

15
dục giúp các em hoàn thành được lao động trí óc, phát triển trí tuệ thì gia đình
cũng có vai trò rất lớn. Tuy nhiên, không phải bậc cha mẹ nào cũng có thể
giảng dạy được cho trẻ những kiến thứ văn hoá về tự nhiện và xã hội theo
chương trình các cấp học. Nhưng các bậc cha mẹ cũng có thể giúp cho trẻ tổ
chức, thực hiện được các yêu cầu của nhà trường, chẳng hạn: ưu tiên bố trí
góc học tập của trẻ vào nơi yên tĩnh, có đủ ánh sáng, tạo không khí thoải mái
cho các em trong thời gian lao động trí óc. Động viên nhắc nhở trẻ thực hiện
học tập đúng giờ, làm bài đầy đủ ở nhà cũng như khi đến lớp. Kết hợp chặt
chẽ giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình, động viên khích lệ kịp thời
những cố gắng, những tiến bộ rõ rệt của các em đồng thời có biện pháp ngăn

chặn kịp thời những biểu hiện sai lệch. Xác định ý nghĩa quan trọng của lao
động học tập không những là lao động chính đối với các em hiện tại mà còn
rất cần thiết đối với tương lai, đối với cả cuộc đời, giúp trẻ ý thức tự nỗ lực
vươn lên để đạt được kết quả giáo dục tốt.
1.1.3.3. Giáo dục hành vi đạo đức
Đạo đức là những chuẩn mực giá trị mang tính xã hội để mọi người căn
cứ vào đó tự nguyện, tự giác điều chỉnh của mình sao cho lợi ích của mình
phù hợp với lợi ích của cộng đồng và của người khác.
Đối với các thành viên trong gia đình như ông bà, cha mẹ là những
người lớn tuổi nhất trong gia đình, đã lao động vất vả và góp phần tạo dựng
nên sự nghiệp và nuôi dạy con cháu. Vì vậy, cần giáo dục lòng kính trọng,
hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ khi tuổi già sức yếu đi lại
khó khăn thậm chí mang bệnh tật cần giáo dục cho trẻ biết thường xuyên giúp
đỡ mọi mặt trong cuộc sống một cách vui vẻ. Kính trọng ông bà, cha mẹ thì
con cháu phải thể hiện trong cách cư xử: nói năng lễ phép, không cáu gắt hay
tỏ thái độ khinh mạn khi ông bà nhầm lẫn, sai sót hoặc có ý ngăn cản những
suy nghĩ, hành động chưa rõ ràng, minh bạch của mình; dù trong trường hợp
nào, kể cả lúc cha mẹ kết luận sai, áp đặt những điều không phù hợp cũng

16
phải bình tĩnh để phân tích đầy đủ có tình, có lý, không được cãi lại bằng
những lời lẽ khiếm nhã…
Giáo dục cho trẻ sự thông cảm sâu sắc với điều kiện và hoàn cảnh đời
sống của gia đình bằng cách công khai thu nhập, chi tiêu chính đáng của cha
mẹ để trẻ biết sống không đua ăn, đua mặc, không suy bì, tỵ nạnh với những
gia đình khác có điều kiện kinh tế, địa vị xã hội hơn gia đình mình nhằm tạo
nên một không khí hoà thuận, ấm cúng, đồng cam cộng khổ, đưa đời sống
ngày càng phát đạt hơn.
Đạo đức trong gia đình còn thể hiện trong quan hệ giữa anh em, chị em
ruột thịt (hoặc anh chị em nuôi). Anh, chị, em dù trai hay gái đều bình đẳng

về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm trong việc xây dựng tổ ấm gia đình. Các
bậc cha mẹ trước hết phải xử sự công bằng mọi nghĩa vụ, trách nhiệm giữa
con trai cũng như con gái và giáo dục ý thức trách nhiệm đùm bọc, tương trợ
lẫn nhau.
Giáo dục cho trẻ ý thức tôn trọng và bảo vệ quan hệ tôn ty trật tự trong
gia đình thể hiện ra trong phong cách ứng xử xưng hô, ở vị trí làm anh, làm
chị thì phải tỏ ra rộng rãi, nhường nhịn, bao dung theo đạo lý truyền thống,
làm em thì phải tỏ lòng quý mến, tôn trọng anh chị, nghe theo anh chị những
điều phải để giữ đạo lý truyền thống gia đình. Trong bất kỳ trường hợp nào
anh chị em cũng không nên nói xấu, dè bỉu lẫn nhau mà cần thẳng thắn đấu
tranh góp ý cho nhau cùng tốt hơn.
Chú bác, cô dì là những người cùng huyết thống đã một thời sinh ra và
lớn lên dưới cùng một mái nhà với cha mẹ, cùng đồng cam cộng khổ từ tuổi
ấu thơ. Vì vậy, phải giáo dục cho trẻ luôn luôn có thái độ tôn kính, yêu
thương, đồng cảm, khi nói năng, cư xử phải lễ độ, từ tốn. Trong trường hợp
chú bác, cô dì gặp khó khăn phải chia sẻ, giúp đỡ theo khả năng của mình,
không nên thờ ơ, lãnh đạm hoặc tỏ thái độ khinh thường.

17
Ngoài mối quan hệ gia đình, gia tộc con người còn quan hệ với bạn bè,
cộng đồng, dân tộc gọi chung là các quan hệ xã hội. Cần giáo dục những nội
dung:
- Lòng nhân ái: Giáo dục lòng nhân ái chính là giáo dục lòng yêu
thương con người, yêu thương đồng loại. Sự sai biệt giữa loài người và loài
vật chính là khả năng thấu cảm và đồng cảm tinh tế đặc biệt đó. Trong học
thuyết của Nho giáo, Khổng Tử coi đức “nhân” là đức đứng đầu đạo lý của
con người trong trời đất. Ông cha ta cũng từng răn dạy “Thương người như
thể thương thân” và được cụ thể hoá bằng những hành vi đạo đức trong đời
sống hằng ngày như: chia sẻ, giúp đỡ tuỳ tâm mình những cảnh đời rủi ro,
hoạn nạn. Bất kỳ sống trong xã hội nào, con người cũng phải có lòng nhân ái,

yêu thương, đồng cảm với người khác. Chính vì vậy gia đình phải có trách
nhiệm giáo dục phẩm chất đạo đức đó cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ thể hiện
trong hành vi biết tôn trọng mọi người, không tham lam, độc ác, lừa gạt, dối
trá với những người xung quanh để trở thành công dân lương thiện.
- Tính khiêm tốn: khiêm tốn là một phẩm chất vô cùng quan trọng trong
nhân cách, nội dung của khiêm tốn có nghĩa là sự kính nhường, có ý thức và
thái độ đúng mực trong công việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu,
không tự cho mình là hơn người. Gia đình phải giáo dục cho trẻ luôn luôn tỏ
ra khiêm tốn, không chủ quan, ngạo mạn tự cho mình là hay, là biết hơn
người khác. Tính khiêm tốn thường được biểu hiện bằng những ngôn ngữ
hành vi lễ phép trong giao tiếp đối với mọi người. Chẳng hạn gặp người cao
tuổi, thầy cô giáo thì lễ phép chào hỏi, nhường bước, bày tỏ sự tôn trọng. Với
bất kỳ ai cũng không nên nói năng thô tục, có hành vi gây gổ.
Tính khiêm tốn không những giúp cho con người ta học tập được
những điều hay ở nhiều người khác mà còn làm cho người ta có phong cách
cư xử, chu đáo, cẩn thận, cung kính, không hấp tập, vội vàng, không tranh ăn,

18
tranh nói, khoe khoang, phô trương năng lực của mình. Chính vì vậy mà họ
được nhiều người tin tưởng, mến phục.
- Tính chân thực: Quy luật tất yếu để tồn tại và phát triển của mỗi
người trong xã hội là phải giao tiếp ứng xử với người xung quanh. Quan hệ
giao tiếp, ứng xử đó có đạt được ý muốn, có thuyết phục được mọi người
xung quanh hay không, điều đó phụ thuộc vào đức tính chân thực của mỗi cá
nhân. Chân thực, trung thành, trung trực đều có nghĩa tương tự là đối lập với
dối tra, manh trá, giả dối… mà các bậc cha mẹ cần phải quan tâm giáo dục
cho trẻ từ tuổi nhỏ
Con người có đức tính chân thực cũng chính là con người luôn luôn tôn
trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để những người xung quanh coi
thường, khinh bỉ, đồng thời cũng là người giữ được chữ tín, lấy chữ tín làm

gốc rể cho các mối quan hệ. Chân thực là một nét nhân cách đẹp của con
người. Nhưng đây là một nét nhân cách phức tạp, đa dạng được biểu hiện
bằng những vấn đề cơ bản như: có lỗi thì dũng cảm nhận lỗi, không trốn tránh
hoặc đổ lỗi cho người khác. Tôn trọng sự thật, không thay đen, đổi trắng dù
trong hoàn cảnh bất lợi cho mình. Lời nói phải thống nhất với việc làm, thực
hiện đúng lời hứa, không mưu mô, thực dụng, lừa lọc chiếm đoạt của cải vật
chất của người khác…
1.1.3.4. Giáo dục thể chất và thẩm mỹ
Sự phát triển của cơ thể ngay từ thủa ấu thơ cho đến lúc trưởng thành,
cả giai đoạn trung niên cho đến khi già. Nhưng sự phát triển thể chất ở lứa
tuổi thanh thiếu niên có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đó là lứa tuổi phát triển
mạnh mẽ nhất của tất cả các cơ quan, bộ phận và chức năng sinh lý của cơ
thế. Nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các giai đoạn sau của cuộc đời. Giáo
dục thể chất cho trẻ ở trong gia đình, trước hết các bậc cha mẹ phải quan tâm
đến sự ăn uống bởi chính sự ăn uống là con đường cung cấp chất dinh dưỡng
đầy đủ cho trẻ và cũng chính con đường này dễ gây ra bệnh tật ở tuổi thanh

19
thiếu niên. Vì vậy, phải giáo dục cho trẻ ý thức ăn uống sạch sẽ, tắm giặt
thường xuyên, động viên khuyến khích trẻ vận động và tham gia các môn thể
thao phù hợp với sở thích và nhu cầu của cá nhân. Việc giáo dục thể chất cho
trẻ còn gắn liền với việc tổ chức vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, tham quan du
lịch… theo điều kiện hoàn cảnh từng gia đình.
- Xã hội văn minh tiến bộ thì nhu cầu thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái
đẹp càng được chú trọng. Con người càng yêu cái đẹp bao nhiêu lại càng từ
bỏ, căm ghét cái xấu xa bẩn thỉu bấy nhiêu. Nhờ vậy mà con người trở thành
thanh cao, có văn hoá. Con người tiếp thu cái đẹp đầu tiên chính là ở gia đình.
Vai trò của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục thẩm
mỹ. Những ấn tượng đầu tiên về cái đẹp của mầu sắc, của âm thanh trong
tiếng ru của mẹ, những cảm xúc của sự âu yếm, vuốt ve nồng ấm tình thương,

tình người đã được gia đình truyền đạt từ những năm tháng tuổi thơ. Có thể
nói những mầm mống của cái đẹp được tiếp nhận ở trong gia đình là nền tảng
để xây dựng cái đẹp của cả cuộc đời. Thế giới tự nhiên, cuộc sống xã hội, các
hoạt động văn hoá, nghệ thuật của con người như thơ ca, hội hoạ, điện ảnh…
chứa đựng biết bao vẻ đẹp thâm thuý, sâu sắc của nó. Vì vậy, không phải các
bậc cha mẹ nào cũng có khả năng, trình độ để phân tích, giảng giải trang bị
cho trẻ những kiến thức, trình độ thẩm mỹ chuyên sâu trong tất cả các loại
hình đó. Nhưng giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cho trẻ những cảm xúc, những
tình cảm thẩm mỹ về cái đẹp trong giao tiếp, quan hệ giữa con người với con
người, con người với tự nhiên, với xã hội và ngay chính với bản thân con
người thì cha mẹ hoàn toàn có thể thực hiện được.
Trong gia đình, ngay từ thủa ấu thơ, các bậc cha mẹ đã phải dạy cho trẻ
“học ăn, học nói, học gói, học mở” về mọi vấn đề sao cho phù hợp với những
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Cái đẹp thường gắn bó với cái “chân”, cái
“thiện” thể hiện một nhân cách tốt đẹp. Nếu thiếu hụt sự giáo dục “thẩm mỹ”
trong gia đình thì con người tuy có bản chất tốt nhưng khi giao tiếp ứng xử

20
với người khác có thể trở thành cẩu thả, thiếu tế nhị, thậm chí thô lỗ khiến cho
người khác khó chịu. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ trong gia đình, trước hết phải
quan tâm giáo dục những hành vi trong nếp sống.
Trên đây là những nội dung cơ bản về giáo dục gia đình. Tuỳ vào
trường hợp và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình mà các bậc cha
mẹ lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp giúp các em phát triển hoàn thiện
tài năng, phẩm chất của mình.
1.2. Trẻ em và mối quan hệ giữa trẻ em với gia đình và xã hội
1.2.1. Trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm xã hội thuộc về độ tuổi
trong giai đoạn đầu đời của sự phát triển con người. Đó là những người chưa
trưởng thành, còn non nớt về thể chất, trí tuệ, dễ bị tổn thương và cần được

gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt về mọi mặt bao gồm
cả sự bảo vệ về mặt pháp lý.
Khái niệm trẻ em đã được đề cập trong tuyên bố Giơnevơ (1924); tuyên
bố của Liện hợp Quốc về Quyền trẻ em (1959); Công ước quốc tề về các
quyền dân sự và chính trị (1966); Tuyên ngôn về quyền con người (1968);
công ước của Liên hiệp Quốc về Quyền trẻ em (1990)…
Theo điều I của Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi rõ: “Trẻ em có
nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Đối với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em ở nước ta (2004) xác định trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16
tuổi” đây là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm
sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống còn nhiều hạn chế, thiếu
những điều kiện để tự lập và khả năng kiềm chế chưa cao nên dễ bị kích động
lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Quy định này ở Việt Nam
tập trung vào những đối tượng thuộc nhóm tuổi nhỏ và là căn cứ chính để xây
dựng chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong giai đoạn tới.

21
* Đặc điểm trẻ em:
- Tâm lý của trẻ em: Tâm lý (của con người) là toàn bộ sự phản ánh của
hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý
chí, v.v biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý người
bao giờ cũng là cái “riêng” của từng người, nhưng cái riêng ấy là bộ phận của
của cái chung của loài người, dân tộc, địa phương, gia đình mà ra. Bằng giáo
dục, vui chơi, lao động, giao tiếp, gia đình hay xã hội truyền đạt các tri thức
ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lĩnh hội vốn liếng đó, biến thành
vốn sống kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tình cảm, ý chí… của riêng
mình. Đó chính là tâm lý của bản thân mỗi người, cuộc sống phức tạp, đa
dạng, sinh động chừng nào thì tâm lý con người phức tạp, đa dạng, sinh động
chừng đó.

Trẻ em bắt đầu bằng các quan hệ với cha mẹ, sau dần giao tiếp với các
thành viên khác trong gia đình: bạn bè, làng xóm, thầy cô…Trẻ em tiếp thu
nếp sống, tập tục, thói quen hàng ngày của gia đình, làng xóm, địa phương
biến thành vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí, tình cảm, động cơ thái độ của
riêng mình. Trẻ em do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, non nớt về
mặt tâm sinh lý mà chính các em không tự mình giải quyết được những thiếu
hụt đó. Do vậy, đòi hỏi người lớn phải có sự quan tâm đúng mức để tạo ra
định hướng tích cực cho sự phát triển nhân cách ở trẻ em, từ đó bảo vệ, chăm
sóc và hỗ trợ trẻ.
Khi còn nhỏ mối quan hệ xã hội của trẻ chủ yếu là gia đình, hoạt động
giao tiếp cảm xúc trực tiếp đấu tiên của trẻ là người mẹ. Sự non nớt về thể
chất lẫn tinh thần của trẻ đỏi hỏi cần có sự đáp ứng về vật chất và sự chăm sóc
đặc biệt của cha mẹ và những người thân. Khi trẻ lớn lên, các em mở rộng
mối quan hệ xã hội ra bên ngoài như bạn bè, hàng xóm, thầy cô,…trong giai
đoạn này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học hỏi nhiều điều mới lạ xung quanh.
Các em thường xây dựng cho mình những thần tượng hoặc hình mẫu để phấn

22
đấu theo. Các em có tình cảm vô tư trong sáng , tin yêu ở cha mẹ và người
lớn. Đến giai đoạn trẻ phát triển sang nhóm lớn, tâm lý trẻ xuất hiện nhiều xu
hướng trái ngược nhau: khi hăng hái, lúc chán nản, bi quan, có thể dẫn tới
trầm tư… những thay đổi này có nguyên nhân từ những biến đổi về chất trong
sinh lý do sự phát triển cơ thể nhanh và sự chín muồi về giới tính đã nhanh
chóng tạo ra những thay đổi tương đối đột ngột, điều này gây ra nỗi sợ hãi lo
lắng của các em.
Cuộc sống con người dù có được tổ chức đến trình độ nào cũng mang
đậm màu sắc tình cảm. Con người cần được chia sẻ khi vui, buồn, yêu ghét,
có cảm xúc mãnh liệt hay chán nản và đặc điểm này càng nổi bất đối với lứa
tuổi thiếu niên nhi đồng. Do đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi nên trẻ dễ bị xúc
động, kích động, hành vi không ổn định, rất dễ hành động theo cảm tính mà

bản thân không kịp nhận biết hành động đúng, sai, lợi, hại ra sao. Bởi vậy, đòi
hỏi cha mẹ phải có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý của trẻ em để định
hướng cho trẻ một cách tế nhị, không áp đặt một cách chủ quan. Bố mẹ và
những người thân lúc này không chỉ đóng vai trò là người có kinh nghiệm đi
trước mà còn là người bạn để có thể chia sẻ những khúc mắc tâm lý mà trẻ
gặp phải. Người lớn cần tôn trọng những ước muốn của trẻ để định hướng
đúng đắn cho trẻ đồng thời cũng cần chỉ ra cho trẻ biết những giới hạn của
các hành vi nhằm bảo đảm sự an toàn cho chúng. Sự bao dung của cha mẹ ở
giai đoạn này là vô cùng cần thiết sẽ giúp cho trẻ độc lập suy nghĩ, có quan hệ
tốt, lành mạnh với các bạn khác giới.
Căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lí của trẻ và cả sự trưởng
thành cơ thể của trẻ em, người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát
triển:
Giai đoạn trước tuổi học gồm:
- Tuổi sơ sinh: thời kì 2 tháng đầu
- Tuổi hài nhi: từ 2 - 12 tháng

×