Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o






ĐỖ THỊ HẠNH




TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN TRONG THƠ
HỒ XUÂN HƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80




LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỖ THỊ HOÀ HỚI







Hà Nội - 2008

2
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu……………………………………………………………………… 3
Nội dung
Chƣơng 1. Những tiền đề cho sự hình thành
tƣ tƣởng nhân văn ở thơ Hồ Xuân Hƣơng……………………………….16
1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX…………………… 16
1.2. Tiền đề văn hoá – tư tưởng………………………………… 23
Chƣơng 2. Tƣ tƣởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
và ý nghĩa của nó đối với hiện nay……………………………………… 36
2.1. Một số vấn đề về khái niệm “chủ nghĩa”,
“chủ nghĩa nhân văn”, “tư tưởng nhân văn”…………………………………36
2.2. Tư tưởng nhân văn trong thơ
Hồ Xuân Hương và ý nghĩa của nó đối với hiện nay……………………… 43
2.2.1. Những nội dung độc đáo, đặc sắc của
tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương…………………………… 43
2.2.2. Ý nghĩa của tư tưởng nhân văn trong thơ
Hồ Xuân Hương đối với hiện nay………………………………………… 68
Kết luận…………………………………………………………………… 73
Danh mục tài liệu tham khảo …………………………………………… 75










3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tinh thần nhân văn đã trở thành nét truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam. Ngay từ xưa, trong ca dao dân ca của người Việt đã có những câu
thể hiện rõ nét tinh thần nhân văn ấy như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”, hay “Thương người như thể thương
thân”… Dòng chảy tinh thần nhân văn ấy tiềm tàng nhưng mãnh liệt xuyên
suốt tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam, nhưng phải đến tận
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX nó mới thực sự phát triển mạnh và trở
thành một trào lưu tư tưởng mang tính bộc phát.
Chúng ta đều biết, cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX là thời kỳ đánh
dấu sự mục ruỗng và suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Song trong
chính bối cảnh xã hội rối ren, con người bị đè nén đến cùng cực như vậy thì
những tiếng nói phản kháng chống lại sự hà khắc của chế độ phong kiến, đòi
hỏi quyền sống, bảo vệ những giá trị của con người càng được đề cao. Những
nguyên tắc, lễ nghi phong kiến xơ cứng không còn đủ sức để trói buộc con
người, mà ngược lại người ta luôn mong ước được giải phóng ra khỏi những
nghi lễ ràng buộc ấy, ước mơ được tự do, được hưởng những hạnh phúc trần
tục đời thường mà vì những lý do khuôn mẫu giáo điều người ta vẫn khinh rẻ
và chối bỏ chúng. Các nhà Nho tiêu biểu như Lê Hữu Trác, Nguyễn Du,
Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
chính là các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại đã nói lên tiếng nói chung,

khát vọng chung của quảng đại quần chúng. Đặc biệt, trong dòng chảy tư
tưởng nhân văn chung của thời kỳ này, sẽ thực sự là một thiếu sót rất lớn nếu
chúng ta không nhắc đến sự xuất hiện của “hiện tượng Hồ Xuân Hương” như
là một nguồn năng lượng tiếp sức làm phong phú cho lịch sử tư tưởng Việt
Nam.
Sự xuất hiện của hiện tượng Hồ Xuân Hương đánh dấu một bước ngoặt
trong sự thể hiện tư tưởng nhân văn Việt Nam là một sự đột phá trong quan

4
niệm về con người trong bối cảnh thời đại đó. Dẫu rằng, Hồ Xuân Hương là
một nhà tư tưởng mà cho đến nay vẫn còn rất nhiều những tồn nghi xung
quanh tiểu sử cũng như văn bản nên việc nghiên cứu về Hồ Xuân Hương gặp
phải rất nhiều những trở khó khăn. Nhưng điều đó không thể ngăn cản giới
nghiên cứu đam mê tìm hiểu, mà ngược lại việc nghiên cứu hiện tượng Hồ
Xuân Hương thực sự là một đề tài hấp dẫn, thu hút sụ chú ý của giới nghiên
cứu nhất là từ góc độ tiếp cận văn học, sử học, văn hoá học, văn bản học…ở
cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu
như vậy nhưng cho đến nay các công trình nghiên cứu ấy mới chỉ dừng lại
việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương trên từng mặt, từng phương diện nào từ các
lĩnh vực văn học, lịch sử, văn hoá học chứ chưa có một công trình nghiên cứu
từ phương diện lịch sử tư tưởng mang tính tổng thể để có được sự đánh giá
toàn diện về vị trí của Hồ Xuân Hương trong lịch sử tư tưởng Việt, vẫn còn
rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng nhân
văn trong thơ Hồ Xuân Hương” làm đề tài thạc sĩ triết học để nghiên cứu với
mong muốn khái quát hệ thống hoá và khẳng định những nội dung và giá trị
của tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương trong dòng chảy tư tưởng
Việt Nam, góp phần làm sâu sắc và đầy đủ hơn nội dung lịch sử tư tưởng Việt
Nam giai đoạn này.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.
Như trên đã nói, cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là một thời đại

khởi phát của tư tưởng nhân văn ở Việt Nam với hàng loạt các nhà tư tưỏng
tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá
Quát…và đặc biệt là Hồ Xuân Hương.
Nhiều công trình nghiên cứu xác lập nhiều cứ liệu chân thực đã
khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhân vật lịch sử và là một nhà thơ lớn có
những tư tưởng vô cùng đặc sắc, cho nên về con người, thơ văn và tư tưởng
của bà đã được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu trên nhiều bình diện
khác nhau, điều này đã thể hiện tập trung, thống nhất qua thư mục hơn một

5
trăm công trình nghiên cứu mà chúng tôi sắp xếp trong thư mục tài liệu tham
khảo.
Trước hết là về vấn đề lịch sử nghiên cứu tiểu sử, tác phẩm Hồ Xuân
Hương: như đã khẳng định ở trên, sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương là một
hiện tượng độc đáo văn chương, văn hoá và nhất là trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam, vì vậy nghiên cứu về Hồ Xuân Hương là một đề tài thu hút sụ chú ý của
rất nhiều các nhà nghiên cứu từ trước cho đến nay. Theo thời gian, có thể chia
lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương làm hai giai đoạn lớn là trước và sau năm
1975.
* Trước 1975: Việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương đã phát triển khá
rầm rộ và đã thu được những kết quả nhất định. Trong số các công trình sớm
nhất trước cách mạng nghiên cứu về Hồ Xuân Hương phải kể đến Quốc văn
trích diễm (Dương Quảng Hàm, 1925), Nam thi hợp tuyển (Nguyễn Văn
Ngọc, 1927), Nữ lưu văn học sử ( Lê Dư, 1927) Qua các công trình nghiên
cứu trên, chúng tôi tiếp nhận được rằng phần lớn các tác giả đã phác hoạ
những nét khái quát nhất về tiểu sử và văn bản, nội dung các tác phẩm chính
yếu của Hồ Xuân Hương. Tiếp sau đó là các nhà nghiên cứu đã chú ý hơn tới
con người và đặc điểm thơ Hồ Xuân Hương, Tản Đà nhận xét về Hồ Xuân
Hương và thơ của bà là: “Trong thơ có ma. Song mà nhận ra thời tục”, hay
Nguyễn Văn Hanh trong tác phẩm “Hồ Xuân Hương – thân thế - tác phẩm –

văn tài” in năm 1936 cho rằng Hồ Xuân Hương bị chi phối bởi: “khát vọng
tiềm thức”…Như vậy, mặc dầu có sự khác biệt về chi tiết song nhìn chung
những nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trước Cách mạng tháng 8/1945 cho
thấy có sự tương hợp trong cách quan niệm về văn bản; nguồn thơ Nôm
truyền tụng dần được định hình rõ nét, tiểu sử Hồ Xuân Hương coi như được
xác định về các đường nét lớn.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu, khẳng định
con người và giá trị thơ Hồ Xuân Hương vẫn tiếp diễn. Năm 1950, Lê Tâm
xuất bản cuốn “Thân thế và thơ ca Hồ Xuân Hương”. Đây là lần đầu tiên Hồ

6
Xuân Hương được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”. Hoa Bằng cũng khẳng
định: “Bà chẳng những là một nhà đại thi hào mà là nhà đại tư tưởng, đại cách
mạng” trong cuốn “Hồ Xuân Hương – nhà thơ cách mạng” in năm 1950.
Nhận xét trên của Hoa Bằng bị phê phán bởi theo một số nhà nghiên cứu, Hoa
Bằng đã lấy quan niệm duy vật lịch sử làm căn bản lập luận, “ông Hoa Bằng
thuộc phái chính trị - xã hội…Sau cùng là ý đại cách mạng ” là hơi đề cao Hồ
Xuân Hương quá…
Ở miền Nam, trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương
các nhà nghiên cứu chủ yếu đi tìm hiểu về địa vị xã hội, nguồn gốc xã hội và
lịch sử của hiện tượng Hồ Xuân Hương. Nhưng do những hạn chế lịch sử và
nhận thức thiên lệch, có người trong số đó đã phủ nhận những ý nghĩa xã hội
trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong khi đó, ở Miền Bắc, sau năm 1961 nhờ việc
phát hiện các nguồn tư liệu mới như: Lưu Hương ký, Xuân Đường đàm
thoại…đã tạo nên không khí sôi nổi cho việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương.
Tiêu biểu là bài viết của nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại: “Thử bàn lại vấn đề
dâm và tục trong thơ Hồ Xuân Hương ”, trong đó ông đã đặt vào bối cảnh xã
hội văn hoá Việt Nam nhằm giải thích trào lưu thơ văn có giá trị nhân văn
thời đại Hồ Xuân Hương…
Hoặc như tác phẩm: “Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học

và giáo dục” của nhà nghiên cứu Văn Tân, năm 1957, đã có những nhận xét
xác đáng về giá trị thơ Hồ Xuân Hương đối với thời đại của bà, và nhiều tác
phẩm khác…
Như vậy, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nhưng
trước năm 1975, giới nghiên cứu đã có những thành quả đáng trân trọng trong
việc nghiên cứu tiểu sử, văn bản thơ của hiện tượng Hồ Xuân Hương. Với
những công trình nghiên cứu công phu, có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa Hồ
Xuân Hương lên một vị trí xứng đáng, ngang tầm với các nhà tư tưởng lớn
của dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Song về chi tiết còn nhiều điều
chưa có được sự thống nhất.

7
* Bước sang giai đoạn sau năm 1975: Việc nghiên cứu Hồ Xuân
Hương có điều kiện tiếp tục được chú ý. Các nhà nghiên cứu chú tâm đến sự
tương quan giữa phần Lưu hương ký mới phát hiện được và phần thơ Nôm
truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Về vấn đề này, có nhiều ý kiến khác nhau
chẳng hạn như nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc chủ trương mặc dù cần tính đến
Lưu hương ký song cần lấy thơ Nôm truyền tụng làm căn cứ nghiên cứu.
Ngược lại, nhà nghiên cứu về Hồ Xuân Hương là Đào Thái Tôn lại xác định
cần phải lấy Lưu hương ký làm tiêu chuẩn đánh giá, bình xét từ đó nhận định
chung về hiện tượng Hồ Xuân Hương. Đồng thời với hai hướng nghiên cứu
trên còn có hàng trăm bài báo, bài luận, phân tích, bình giảng theo từng chủ
đề hoặc theo từng bài thơ đặc sắc của Hồ Xuân Hương được đăng tải trên các
tạp chí, báo Trong số các nghiên cứu gần đây nhất, có luận văn thạc sỹ văn
học của Bùi Ngọc Minh: “Hồ Xuân Hương - Hiện tượng giao thoa giữa văn
hoá Folklo và văn hoá bác học”, Hà Nội năm 1999. Đặc biệt là có cuốn “Hồ
Xuân Hương – con người – tư tưởng – tác phẩm” của Hoàng Bích Ngọc,
NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội năm 2003. Đây là những công trình nghiên
cứu khá công phu về con người và tác phẩm của Hồ Xuân Hương, đặc biệt
trong cuốn sách này, tác giả đã chú ý kế thừa và phát triển thêm những thành

quả của các công trình nghiên cứu trước đó, đặc biệt tác giả đã có những phân
tích tinh tế về những đóng góp trên phương diện tư tưởng của thơ Hồ Xuân
Hương tuy nhiên đó mới chỉ là những đường nét phác thảo chứ tác giả chưa đi
sâu cụ thể hoá tư tưởng nhân văn và đặt nó trong tiến trình lịch sử tư tưởng
dân tộc như một chuyên khảo.
Từ những điều chúng tôi vừa khái lược về lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân
Hương đã cho thấy mặc dù còn một số chi tiết chưa xác định song về phần cơ
bản, vị thế của bà không chỉ quan trọng trên thi đàn mà tư tưởng của bà có
những giá trị xuất sắc nổi bật trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.
Chúng tôi cho rằng, những nghiên cứu về bà sẽ không chỉ dừng lại ở đây mà

8
rất cần tiếp tục đi sâu, giúp chúng ta nhận ra thêm những đóng góp to lớn của
bà cho lịch sử tư tưởng dân tộc.
Về hướng tiếp cận khi nghiên cứu về tiểu sử của Hồ Xuân Hương: như
đã trình bày ở phần trên, Hồ Xuân Hương là một tác giả, một nhà tư tưởng
“đặc biệt” mà cho đến nay vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn nghi xung quanh tiểu
sử, tác phẩm của bà. Vì vậy việc nghiên cứu tiểu sử Hồ Xuân Hương cũng
được tiếp cận theo nhiều hướng với những phương pháp khác nhau. Có thể
khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là “lịch sử nỗi ám ảnh chưa
bao giờ đứt đoạn của vấn đề tiểu sử và văn bản thơ Hồ Xuân Hương”.
[71;16].
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã nói rằng việc xác định tiểu sử
chính xác cuộc đời Hồ Xuân Hương là “cuộc tìm kiếm giữa màn sương huyền
thoại”. Hàng loạt các bài viết của các nhà nghiên cứu về khi viết về Hồ Xuân
Hương đã đặt ra vấn đề: “Có nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay không ?” (Hồng Tú
Hồng), “Có Chăng một bà Hồ Xuân Hương” (Lữ Hồ), hay “Thử tìm tên thật
của Hồ Xuân Hương ” (Nam Trân), “Hồ Xuân Hương sinh vào khoảng giữa
thế kỷ XVIII hay đầu thế kỷ XIX ?” (Trần Tường), tác giả Hoàng Xuân Hãn
lại đưa ra một giả thuyết là “Có một Hồ Xuân Hương khác”…Nhìn chung,

những nghiên cứu về tiểu sử của Hồ Xuân Hương rất phong phú với rất nhiều
tư liệu khẳng định có sự tồn tại một Hồ Xuân Hương song vẫn chưa có một
kết luận chính xác về năm sinh năm mất và di cảo của bà. Có thể liệt kê
những ước thuyết về con người, cuộc đời của Hồ Xuân Hương, theo các nhà
nghiên cứu như sau:
- Theo Siêu Hải, Hồ Xuân Hương sinh khoảng năm 1735 – 1739
(căn cứ vào mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ, tạp chí Văn
học, số 5- 1991, tr70).
- Phần đông các nhà nghiên cứu như Dương Quảng Hàm, Văn Tân,
Nguyễn Lộc, Trương Tửu, Hồ Tuấn Niêm thì lại cho rằng Hồ Xuân Hương
sinh khoảng năm 1770, là con của Hồ Phi Diễn, quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh

9
Lưu, Nghệ An với bà vợ lẽ họ Hà tại phường Khán Xuân, thuộc huyện Vĩnh
Thuận, Thăng Long. Chúng tôi cũng coi đây là tiểu sử khá hợp lý để là cơ sở
nghiên cứu.
- Các tác giả như Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn khẳng định Hồ
Xuân Hương sinh khoảng năm 1770 nhưng không phải con của Hồ Phi Diễn
mà là con của Hồ Sĩ Danh – anh em họ của Hồ Phi Diễn ở Quỳnh Đôi, Quỳnh
Lưu, Nghệ An.
- Hồ Xuân Hương từng có quan hệ thân thiết với Nguyễn Du (1766
- 1820).
- Hồ Xuân Hương từng làm vợ lẽ Tổng Cóc ở Phú Thọ.
- Hồ Xuân Hương là vợ kế của Phạm Viết Đại (1802 – 1842) - từng
có thời làm tri phủ Vĩnh Tường.
- Theo Xuân đường đàm thoại, Hồ Xuân Hương mất năm Kỷ tỵ, Tự
Đức thứ 22 (1869)… Như vậy, Hồ Xuân Hương sống ở khoảng cuối Lê, đầu
Nguyễn và là một nữ sĩ danh tiếng, song vẫn còn nhiều chi tiết cần phải xác
minh thêm.
Nếu những liệt kê trên cho thấy việc nghiên cứu tiểu sử, cuộc đời

Hồ Xuân Hương vẫn còn là vấn đề mở thì việc nghiên cứu di cảo văn thơ của
bà cũng không kém phần mờ ảo và hết sức phức tạp:
- Theo Đào Thái Tôn, trong cuốn “Hồ Xuân Hương - tiểu sử, văn
bản, tiến trình huyền thoại dân gian hoá” tại thư viện Hán Nôm còn lưu giữ 18
cuốn sách chép thơ Nôm của Hồ Xuân Hương và 3 văn bản khắc ván chữ
Nôm có kèm phần phiên âm chữ quốc ngữ. Trong đó còn phải dựa vào Lưu
hương ký để làm căn cứ tìm hiểu giá trị thơ văn Hồ Xuân Hương.
- Theo nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn, phần thơ Nôm truyền tụng
của Hồ Xuân Hương gồm có 77 bài, được tập hợp trong Xuân Hương thi
nhưng trong Quốc âm thi tuyển chỉ có 27 bài. Phần thơ văn đó là bộ phận có
thể tin cậy để nghiên cứu về phong cách và nội dung tư tưởng Hồ Xuân
Hương.

10
- Trong Giai nhân di mặc, Nguyễn Hữu Tiến cho rằng, có 45 bài
thơ, một số câu đối và các bài ca khuyết danh về Hồ Xuân Hương là đáng tin
cậy.
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho rằng, có khoảng 46 bài thơ Nôm
in đậm phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Trong cuốn Thơ Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Lộc còn đưa thêm 9 bài thơ Nôm và 13 bài thơ chữ Hán trong Lưu
hương ký vào, được phần đông độc giả thừa nhận là thơ của Hồ Xuân
Hương.
- Đào Thái Tôn cho Hồ Xuân Hương có khoảng 30 bài thơ chữ Hán
và thơ chữ Nôm trong Lưu hương ký, còn lại, thơ Nôm truyền tụng của Hồ
Xuân Hương chỉ có khoảng 26 bài…
Nhìn chung, về văn bản thơ Hồ Xuân Hương còn nhiều tranh cãi về
số lượng cụ thể nhưng có thể tóm gọn mấy nhận định cơ bản như sau:
- Có nhiều ý kiến thừa nhận có một Hồ Xuân Hương là tác giả của
những bài thơ Nôm truyền tụng có phong cách ổn định riêng biệt.
- Sau khi phát hiện ra Lưu hương ký, có ý kiến cho rằng chỉ có một

Hồ Xuân Hương là tác giả của những bài thơ chữ Hán trang trọng mẫu mực,
là nguyên mẫu để người ta ghép vào những vần thơ nhảm như Quả mít, Ốc
nhồi…
- Có ý kiến lại thừa nhận Hồ Xuân Hương có cả thơ chữ Nôm và thơ
chữ Hán và họ cũng có đủ những cứ liệu hết sức thuyết phục về sự thống nhất
các đối lập ở con người và các tư tưởng Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, giới
nghiên cứu vẫn không nhất trí với quan điểm này vì họ cho rằng giữa thơ chữ
Nôm và thơ chữ Hán quá khác nhau một đằng thì trang trọng, mẫu mực (thơ
chữ Hán), một đằng thì lại quá “dâm” và “tục”, đó không thể là sáng tác của
cùng một Hồ Xuân Hương.
Từ các phân định trên, chúng tôi thấy rằng cần thừa nhận sự thực: ở
thời đại cuối Lê, đầu Nguyễn có một Hồ Xuân Hương là con của một nhà
Nho họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An với bà vợ thứ họ Hà, ngụ ở

11
phường Khán Xuân, Thăng Long. Nàng có tâm, có tài, có sắc nhưng bất hạnh
trong tình duyên (phải làm lẽ hai lần nhưng cả hai người chồng đều chết),
nàng cũng là tác giả của thơ Nôm truyền tụng và của tập Lưu Hương ký.
Từ khi hình thành lịch sử nghiên cứu về Hồ Xuân Hương cho đến
nay, các nhà nghiên cứu đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để tiếp
cận đối tượng. Có thể khái lược một vài cách tiếp cận cơ bản như sau:
- Nhà thơ Tản Đà đã đưa ra nhận xét về thần thái thơ Hồ Xuân
Hương như sau:
“Thơ Hồ Xuân Hương thật là linh quái, những câu hay đọc lên đến
ghê người. Người ta thường có câu “Thi trung hữu hoạ”, nghĩa là “trong thơ
có hoạ”, nhưng thơ Xuân Hương thời lại là “Thi trung hữu quỷ” nghĩa là
trong thơ có quỷ. Song mà nhận ra thời tục”. [18]
Đào Thái Tôn thì nhận xét: “với Hồ Xuân Hương không có cảnh
nào chết cứng, đứng yên, bất động, luôn luôn dồi dào sức trẻ” [98;48]… Cách
nhìn nhận trên về con người và đặc điểm thơ của Hồ Xuân Hương được rút ra

từ phong cách thơ văn của bà, các nhà nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra thần thái
riêng của Hồ Xuân Hương so với các tác giả cùng thời. Tuy nhiên cách
nghiên cứu vấn đề như trên tỏ ra là thiếu tính hệ thống, tính chỉnh thể và mạch
lạc, vì vậy, nó gần với sự thưởng thức hơn là nghiên cứu tư tưởng của bà.
- Trong bài viết “Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương”, Trương Tửu lại
đã vận dụng thuyết phâm tâm học Frued vào việc phân tích cội nguồn tâm
thức sáng tạo của thơ Hồ Xuân Hương. Theo ông Trương Tửu, sở dĩ Hồ Xuân
Hương viết những bài thơ đậm chất “dâm” và “tục” như vậy vì bà bị mắc
bệnh thần kinh do dục tình không được thoả mãn, do ẩn ức tình dục. Nguyễn
Văn Hanh cũng tán đồng ý kiến của Trương Tửu và cho rằng: “Người thiếu
thốn khao khát nhục dục như Hồ Xuân Hương thì ngồi nhà hay đi ra ngoài
vạn vật hoạt động dưới mắt nàng đều có vẻ dâm tục hết” [21]. Nếu nhìn nhận
những sáng tác của Hồ Xuân Hương chỉ theo như phương pháp trên thì còn
thiếu sót vì giá trị tư tưởng ở những sáng tác của Hồ Xuân Hương không phải

12
chỉ để giải toả ẩn ức cá nhân mà còn để giải toả ẩn ức cộng đồng, tiếng nói
của Hồ Xuân Hương chính là tiếng nói của những con người thời đại đó trước
sự đè nén của chế độ phong kiến, nó phản ánh sự phản kháng của cộng
đồngchống lại chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến vì thế di sản thơ văn được
coi là của Hồ Xuân Hương là sản phẩm vừa có tính bác học của một chủ thể
là cá nhân, vừa là có chủ thể toàn cộng đồng, mang tính dân gian.
- Năm 1950, Hoa Bằng cho in cuốn “Thân thế và thơ ca Hồ Xuân
Hương ”, trong đó, Hoa Bằng nhiệt thành ca ngợi Hồ Xuân Hương “không
những là một nhà đại thi hào mà lại là nhà đại tư tưởng, đại cách mạng” [4],
thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói chống nam quyền, chống chế độ phong kiến,
chống thành kiến trọng nam khinh nữ… Văn Tân chỉ ra rằng “Xuân Hương
căm ghét đạo đức, lễ giáo phong kiến, nhưng bà chỉ căm ghét như một phụ
nữ…”[76;23], Thanh Lương nhận xét: “Hồ Xuân Hương và Cống Quỳnh đã
đại diện cho tinh thần thời đại họ và là kẻ bảo hiểm của cuộc khởi nghĩa Tây

Sơn”. Những nhận định của các nhà nghiên cứu trên tiếp cận từ góc độ chính
trị - xã hội - lịch sử đã thừa nhận một vấn đề cơ bản là vào thời đại cuối Lê
đầu Nguyễn, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo
chủ nghĩa nhưng hạn chế ở chỗ các ông đã vận dụng quá mức quan điểm giai
cấp - xã hội vào phê bình thơ Hồ Xuân Hương dẫn đến những kết luận mang
phần khiên cưỡng.
- Ngoài những tiếp cận nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương mà chúng
ta vừa nêu trên, khi nghiên cứu Hồ Xuân Hương các nhà nghiên cứu còn cố
gắng tiếp cận từ phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Chẳng hạn như Nguyễn
Lộc đã nhận xét: “Hồ Xuân Hương thuộc dòng phong cách bình dân, nhưng
thơ bà không tan biến trong phong cách chung ấy mà sắc thái cá nhân vẫn
đậm nét” [39; 278]. Nhà thơ Xuân Diệu nói: “Hồ Xuân Hương là nhà thơ
dòng Việt Nam, bà chúa thơ Nôm…thơ Hồ Xuân Hương đã làm cho chữ
“nôm na” không đồng nghĩa với “mách qué” nữa mà nôm na là đồng nghĩa
với thuần tuý, trong trẻo tuyệt vời” [16]. Với phương pháp tiếp cận phong

13
cách học này đã cho thấy những góc độ nhìn nhận mới, những khám phá mới
về thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ văn chương.
- Người đầu tiên đặt vấn đề tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương theo
phương pháp Bakhtin là nhà nghiên cứu người Nga N.I.Niculin, ông đã chỉ ra
tính hai chức năng, tính lưỡng trị, sự giao thoa giữa văn hoá bác học với văn
học dân gian ở một điển hình Việt Nam trong thơ Hồ Xuân Hương:
“Tiếng cười của bà gắn với tính chất tự phát của những ngày lễ hội
và những buổi biểu diễn của nhân dân…tiếng cười yêu ghét lẫn lộn trong đó
sự chỉ trích và ca tụng, phủ nhận và xác nhận, tử vong và sinh sản gắn bó chặt
chẽ như hai mặt của một quá trình phục sinh”.
Đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam, áp dụng phương pháp
Bakhtin vào hiện tượng Hồ Xuân Hương, các nghà nghiên cứu như Nguyễn
Lộc, Lê Trí Viễn, Xuân Diệu, Trần Ngọc Vương…đã chỉ ra sự ảnh hưởng của

văn học dân gian, đặc biệt là ca dao, dân ca đối với thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương đã tạo nên ở hiện tượng này một gương mặt thơ độc đáo vô
song. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên đã đặt ra vấn đề: “Cần phải đặt nó vào
nền văn hoá dân gian thế kỷ XVIII, XIX vì thơ Hồ Xuân Hương nảy sinh trên
và trong nền văn hóa dân gian ấy ”.
- Trong khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu
còn tiếp cận thơ bà dưới góc độ ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực. Người
đầu tiên áp dụng cách tiếp cận này là Trương Tửu, kế đó là Nguyễn Tuân, Lê
Trí Viễn, Tam Vị… Phát hiện mối quan hệ giữa ảnh hưởng của loại hình tín
ngưỡng dân gian phồn thực với tư tưởng Hồ Xuân Hương, Nguyễn Tuân
trong Băm sáu cái nõn nường Xuân Hương khẳng định:
“Thế giới quan, nhân sinh quan của Hồ Xuân Hương là một nhỡn
quan nõn nường. Bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu vẫn ngân vang lên chữ
nõn và nường, câu nào, chữ vần nào cũng chỉ có mỗi cái sự nhà thế, của cái
ấy và cái nọ”. [100]

14
Trong “Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực”, Đỗ Lai Thuý lại
khẳng định một cách thuyết phục rằng Hồ Xuân Hương là “người phát ngôn
phồn thực”. Nhưng đây mới là các khía cạnh tiếp cận mới cần được lý giải
đầy đủ hơn nữa.
Trên đây theo Bùi Ngọc Minh và Hoàng Bích Ngọc là các cách tiếp
cận nghiên cứu về hiện tượng Hồ Xuân Hương, từ các góc độ riêng đều có
những lý giải hợp lý và cả điểm hạn chế riêng, song với các lối nghiên cứu
mới ấy, các nhà nghiên cứu đã ngày càng đạt được những thành tựu mới trong
nghiên cứu về hiện tượng Hồ Xuân Hương góp phần làm cho những vấn đề
thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương ngày càng được sáng tỏ hơn. Nhưng rõ
ràng qua tình hình này chúng cũng khẳng định tính mở cần tiếp tục được khái
quát, hệ thống hoá, đặc biệt là khía cạnh các giá trị tư tưởng nhân văn trong
thơ Hồ Xuân Hương cần có sự phân tích sâu hơn trong các chuyên khảo để

làm rõ hơn nội dung và ý nghĩa của nó.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu đầy đủ hơn những nội dung và ý
nghĩa tư tưởng nhân văn của Hồ Xuân Hương thông qua việc nghiên cứu cuộc
đời và tác phẩm thơ của Hồ Xuân Hương.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: luận văn cần phải làm sáng tỏ được những
vấn đề sau:
+ Những tiền đề cho sự xuất hiện của hiện tượng Hồ Xuân Hương.
+ Nội dung tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương.
+ Những ý nghĩa của tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương
trong giai đoạn hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
triết học Mác – Lênin, những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về việc kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hoá dân tộc trong
điều kiện hiện nay.

15
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên những
phương pháp nghiên cứu khoa học của bộ môn lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp logic - lịch sử, phương pháp liên ngành…
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong đề tài luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu đối tượng là
những nội dung tư tưởng nhân văn của thơ Hồ Xuân Hương bởi vậy giới hạn
phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu sử cuộc đời và tác phẩm thơ của Hồ
Xuân Hương đã được thừa nhận ở các công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này về cơ bản đã được các nhà nghiên cứu nhất trí xác định.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn góp phần hệ thống hoá, làm rõ nội dung và giá trị của tư

tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương. Qua đó, chúng tôi cũng mong
muốn đóng góp thêm vào việc làm đầy đủ hơn nội dung tư tưởng của một giai
đoạn phát triển của lịch sử tư tưởng nước nhà trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX hiện còn chưa được đi sâu đầy đủ.
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Qua tìm hiểu những tư tưởng nhân văn Hồ Xuân Hương là nhằm
góp phần nhỏ bé nhằm khôi phục, bổ sung dầy đủ hơn và phát huy truyền
thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bước đầu khai thác và đưa
những giá trị tinh thần ấy vào phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH. Đồng thời,
luận văn cũng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm tới nội dung
lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ
XIX và trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn bao gồm 2 chương, 4 tiết:


16
CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG NHÂN VĂN Ở THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG

Sự hình thành của bất kể một học thuyết lý luận, một hệ tư tưởng nào
cũng bắt nguồn và chịu sự chi phối của những điều kiện lịch sử - xã hội nhất
định. Tìm hiểu lịch sử tư tưởng của dân tộc thực chất là tìm hiểu cốt tuỷ tư
tưởng triết học – tư tưởng nhân văn của dân tộc là một trong các hình thái ý
thức xã hội nên cần phải đặt nó trong hiện thực để nghiên cứu, vì vậy nên sự
ra đời của các thi phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Điều này có nghĩa để hiểu rõ nội dung tư tưởng của các tác phẩm
ấy, trước hết phải nắm bắt được những thực tế lịch sử của thời đại mà các tác
phẩm ấy ra đời. Chính vì thế, nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Xuân Hương,

điều đầu tiên chúng ta phải làm là tìm hiểu thời đại của hiện tượng Hồ Xuân
Hương đó.
Tuy hiện nay chúng ta vẫn chưa biết rõ về cuộc đời của Hồ Xuân
Hương, ngay cả năm sinh và năm mất. Nhưng qua khảo cứu các công trình
nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, có một điều chắc chắn là nhân vật Hồ Xuân
Hương đã sống trong những điều kiện lịch sử đặc biệt của những năm nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Vì thế chúng ta sẽ không thể hiểu
được hiện tượng tư tưởng Hồ Xuân Hương nếu chúng ta bỏ qua hay xem nhẹ
những điều kiện lịch sử đó. Nếu bỏ qua những điều kiện lịch sử của xã hội
phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX chúng ta sẽ
không thể hiểu tại sao trong lòng chế độ phong kiến hà khắc như vậy lại có
thể có một hiện tượng tư tưởng “phản chính thống” ngang nhiên chế diễu từ
vua chúa cho đến quan lại, nho sĩ và nguyền rủa tất cả những lễ giáo phong
kiến đè nén người phụ nữ như vậy.




17
1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX.
Đặc điểm nổi bật của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu
thế kỷ XIX là sự khủng hoảng nghiêm trọng của chế độ phong kiến trên mọi
mặt từ kinh tế đến chính trị và văn hoá tư tưởng.
Về kinh tế: nền kinh tế của xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế
kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX suy sụp một cách toàn diện.
* Về nông nghiệp: Do chiến tranh chia cắt liên miên, khởi nghĩa nông
dân liên tục nên nghành nông nghiệp rơi vào tình trạng bị đình trệ trầm trọng.
Phần lớn ruộng đất là nằm trong tay bọn địa chủ, quan lại và cường hào. Nông
dân không còn một tấc đất cắm dùi, thêm vào đó và tô thuế nặng nề, nạn mất

mùa, đói kém liên tiếp xảy ra đã đẩy người nông dân vào đường cùng.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú có viết về nạn
sưu cao thuế nặng thời ấy như sau: “Vào khoảng năm Giáp Thìn (1724) xét
biên, trong dân gian, ai có nghề nghiệp gì là chiếu bổ thuế sản. Vì sự trưng
thu quá mức, vật lực kiệt không thể nộp nổi đến nỗi người ta thành ra bần
cùng mà phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải chặt cây
sơn, có người vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có kẻ vì nộp gỗ
cây mà bỏ rìu, búa, vì phải bắt tôm cá mà xé lưới chài, vì phải nộp mật mía
mà không trồng mía nữa, vì phải nộp bông chè mà phải bỏ vườn hoang”. Dẫn
đến tình trạng: “Dân phiêu tán dắt díu nhau đi ăn xin đầy đường. Giá gạo cao
vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa ăn no. Nhân dân phần nhiều
phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi phải ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói đầy đường
chồng chất lên nhau, số dân còn lại mười phần không được một, làng nào vốn
có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại năm ba hộ”.
Mấy năm ổn định, chấm dứt chia cắt ngắn ngủi dưới thời Quang
Trung, tình hình được cải thiện hơn. Năm 1789, sau chiến thắng quân Thanh,
vua Quang Trung ra chiếu khuyến nông ra lệnh lấy ruộng đất của bọn phản
động giao cho làng xã, sửa đổi lại chính sách quân điền, đảm bảo cho nông

18
dân có ruộng cày cấy, dân lưu tán được lệnh trở về quê cũ làm ăn. Tuy nhiên,
liền sau cái chết của vua Quang Trung, Nguyễn Ánh xác lập vương vị, những
năm dưới triều Nguyễn, nhà nước phong kiến bất lực trong việc bảo vệ đê
điều và làm các công trình thuỷ lợi nên đê điều liên tục bị vỡ. Riêng đê sông
Hồng ở Khoái Châu – Hưng Yên, dưới thời Tự Đức hơn mười năm liền bị vỡ.
Công cuộc khai hoang của nhà Nguyễn cũng chẳng đem lại nhiều kết quả vì
vùng này khai hoang thì vùng kia nông dân bị bóc lột lại bỏ lưu tán đi nơi
khác. Đời sống người dân, đặc biệt là nông dân vô cùng điêu đứng, cực khổ.
Ngô Thì Sĩ viết: “Những dân phiêu lưu, ruộng đất phải bỏ hoang, phần nhiều
bị bọn thế gia và các làng lân cận chiếm cày, lập văn khế giả làm bằng cứ.

Thậm chí có khi ruộng đã cày cấy hết mà vẫn khai là hoang phế. Dân lưu
vong muốn trở về cũng không có ruộng cày cấy, mà kiện cáo thì khổ nỗi
không đủ sức”.
Theo thống kê của Ngô Thì Sĩ, nửa cuối thế kỷ XVIII bốn trấn ở đồng
bằng Bắc Bộ ngày nay có 9668 làng xã thì có đến 1076 làng xã bị điêu tàn.
Trấn Thanh Hoá có 1393 làng xã thì có 297 làng xã bị điêu tàn và trấn Nghệ
An có 706 làng xã thì có tới 115 làng xã bị điêu tàn…[34]
* Về công thương nghiệp: Giai đoạn trước đó tuy được khởi sắc song
sang triều Nguyễn cũng không phát triển. Lo sợ sự xâm lược, khởi loạn chính
quyền phong kiến thực hiện chính sách kìm hãm thương nghiệp phát triển, có
chăng chỉ một số nghành công thương nghiệp được đẩy mạnh chỉ nhằm phục
vụ nhu cầu và lợi ích của giai cấp thống trị. Chẳng hạn như nghề khai mỏ giai
đoan này rất được chú trọng là chỉ để lấy đồng đúc tiền, đóng tàu, đúc súng
hay đổi cho các lái buôn phương Tây để lấy vũ khí. Chỉ có một số ít mỏ là
thuộc quyền quản lý của thương nhân người Việt và Hoa Kiều, còn lại phần
lớn mỏ là thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nhiều mỏ tư nhân bị nhà nước
bắt lĩnh trưng và nộp thuế quá nặng buộc phải đóng cửa. Người làm công
trong các khu mỏ của nhà nước cũng như của tư nhân được trả tiền công rất ít,
đời sống vô cùng cực khổ.

19
Về thương nghiệp: dưới thời các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, lo sợ cho
quyền lợi của tập đoàn phong kiến thương nghiệp bị bóp nghẹt, việc buôn bán
của thương nhân bị ngăn cấm. Đến năm 1789, vua Quang Trung ra lệnh bỏ
những thuế quá nặng đánh vào thương nghiệp, đề nghị nhà Thanh mở cửa ải,
thông chợ búa, khiến cho hàng hoá không ngưng đọng để làm lợi cho sự tiêu
dùng của dân. Nhưng triều đại Tây Sơn không tồn tại lâu, khi Gia Long lên
ngôi, tình hình trở lại như cũ, việc buôn bán bị hạn chế. Gia Long, Minh
Mệnh sợ dân tụ tập chống đối nên ra lệnh cấm họp chợ. Triều đình thực hiện
chính sách “bế quan toả cảng” từ chối không chịu đặt quan hệ thương mại với

thương nhân phương Tây.
Về chính trị: Nếu như trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu
thế kỷ XIX nền kinh tế đất nước bị suy thoái, trì trệ trầm trọng thì về mặt
chính trị - xã hội cũng không kém phần khủng hoảng. Nhìn chung, tình hình
chính trị Việt Nam trong giai đoạn này nổi lên hai đặc điểm cơ bản đó là sự
suy đồi, thối nát của bộ máy cai trị và tinh thần quật khởi đòi quyền sống của
quần chúng, đặc biệt là giai cấp nông dân.
Giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn này đã bộc lộ rõ sự suy
yếu và bạc nhược đến cùng cực. Nếu như coi chế độ phong kiến Việt Nam
như một cái cây thì thời kỳ tươi tốt sum suê đã qua đi. Đến thời kỳ này, cái
cây ấy đã bị sâu mọt đục ruỗng, nó đã bị lung lay tới tận gốc rễ. Không còn
cảnh “vua sáng tôi hiền”, “tướng sĩ một lòng phụ tử” như ngày nào nữa. Đối
với người dân Việt Nam, đây là giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử nước
nhà bởi lẽ chưa bao giờ giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ rõ bản chất
tàn bạo, phản động một cách trắng trợn, sâu sắc và toàn diện như lúc này.
C.Mác đã nói khi một giai cấp sắp rời vũ đài lịch sử, bao giờ tự nó cũng diễn
lấy vở hài kịch của chính bản thân nó. Giai cấp phong kiến Việt Nam khủng
hoảng đến cùng cực, những cảnh trái đạo diễn ra ngay trong cung vua phủ
chúa. Thời Lê mạt, vua Lê chỉ ngồi làm vì, mọi quyền hành đều tập trung
trong tay chúa Trịnh. Các chúa Trịnh thì chuyên quyền, độc đoán, chỉ lo việc

20
ăn chơi hơn là lo việc trị nước yên dân. Khi Trịnh Cương lên ngôi chúa, thấy
dân đói nên tha thuế cho nửa năm, nhưng sau cần tiền xây chùa chiền lại ra
lệnh tăng thuế. Trịnh Cương xây chùa Phúc Long, dựng hành cung Cổ Bi bắt
dân ba huyện ở Kinh Bắc phục dịch suốt sáu năm…
Trái lại Trịnh Sâm lại có lối ăn chơi khác, trong tác phẩm Vũ trung tuỳ
bút có ghi cảnh ăn chơi của Trịnh Sâm: mỗi tháng ba bốn lần ngự chơi cung
Thụy Liên bên Hồ Tây thì binh lính dàn quanh bốn mặt hồ, giả làm đàn bà
bày hàng Trịnh Sâm mê Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng lập con thứ, gây ra

cảnh hỗn loạn trong phủ chúa. Quận mã Đặng Mậu Lân cưỡng dâm một
người đàn bà không được bèn cắt vú người ta. Đại thần Trương Phúc Loan
phơi vàng đầy sân sau một trận lụt. Không những vậy việc thi cử cũng biến
thành việc mua bán, mua bán quan tước là việc thường sự.
Đến thời nhà Nguyễn, nhà Nguyễn không xây nhiều chùa nhưng lại xây
lăng tẩm. Công việc xây lăng Vạn Niên thời Tự Đức được ghi lại trong câu ca
dao:
“Vạn Niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân ”
Ngoài ra, các vua nhà Nguyễn thường hay đi tuần du, mỗi lần như vậy
cũng tốn kém cả trăm vạn quan tiền…
Chưa bao giờ chính quyền phong kiến lại vô sỉ như thời này, Phạm
Đình Hổ (1768 - 1839) trong Vũ trung tuỳ bút đã phải thốt lên rằng “đời suy
thói tệ”, những khuôn vàng thước ngọc của chế độ phong kiến bị phá nát tan
tành.Còn đâu lễ giáo quân - thần, phu - phụ khi Nguyễn Cảnh Thước tước
hòm vàng, lột cả áo bào vua Lê Chiêu Thống trong cơn nguy biến, rồi chuyện
Đặng Thị Huệ thề sống thề chết sẽ giữ trọn tình thuỷ chung cùng Chúa mà
đương khi Trịnh Sâm chưa chết đã tư thông với Quận huy Hoàng Đình Bảo.
Cũng chưa bao giờ giai cấp thống trị bộc lộ rõ bộ mặt phản động trắng
trợn như lúc này. Chính từ chuyện tranh giành quyền lực ấy đã dẫn đến hành
động bỉ ổi “cõng rắn cắn gà nhà” của Lê Chiêu Thống. Trong Hoàng Lê nhất

21
thống chí của Ngô gia văn phái có viết về mối quan hệ giữa Lê Chiêu Thống
với Tôn Sĩ Nghị, tướng nhà Thanh như sau:
“Tuy là hoàng thượng được phong vương nhưng giấy má đưa đi các nơi
vẫn viết niên hiệu Càn Long vì Nghị còn ở đấy nên không dám dùng niên
hiệu Chiêu Thống. Ngày ngày tan buổi chầu, ngài đến dinh Nghị chờ nghe
công việc quốc quân …Nghị cũng ngông nghênh tự đắc, hoàng thượng đến
dinh, có khi Nghị không buồn tiếp, chỉ cho người đứng trên linh các truyền

rằng “Nay không có việc quốc quân, hãy về cung nghỉ”.
Sự suy đồi và phản động của giai cấp phong kiến đã trở thành chất xúc
tác cực mạnh nhóm lên ngọn lửa căm hờn trong quần chúng nhân dân, đặc
biệt là giai cấp nông dân. Phong trào nông dân nổi dậy mạnh mẽ là tất yếu
lịch sử. Trong Việt sử thông giám cương mục có viết: “chính sự trái ngược,
thuế khoá nặng nề, lòng người mong mỏi cho chóng loạn lạc”.
Nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, nhân dân Việt Nam sống
cực khổ hơn bao giờ hết. Ngoài chế độ bóc lột hà khắc còn hàng trăm năm
chiến tranh với bao nhiêu ly thương tang tóc. Có những năm ở Hải Dương có
làng chết gần hết và đói khổ đến nỗi ăn cả thịt người. Những người thợ thủ
công cũng nghèo khổ, họ phải đợi tiền đặt hàng của ngoại quốc mới có vốn
sản xuất. Nho sĩ, quý tộc cũng nhiều người bị thất thế. Thực tế này buộc nông
dân phải nổi dậy giành lấy quyền sống và họ được sự ủng hộ của thợ thủ
công, thương nhân và một phần số nho sĩ phong kiến.
Năm 1737, Nguyễn Dương Hưng tiến hành cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây
mở màn cho phong trào khởi nghĩa của nông dân trong giai đoạn này. Tiếp đó
là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oanh ở Hải
Dương, Lê Duy Mật ở Thanh Hoá, Nghệ An…trong đó có những cuộc khởi
nghĩa lớn kéo dài hàng chục năm như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu
(từ 1741- 1751), hoạt động trên một vùng rộng lớn của đồng bằng Bắc bộ, uy
hiếp cả kinh thành Thăng Long, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương ở
Sơn Tây rồi tràn sang Thái Nguyên, Tuyên Quang. Cuộc khởi nghĩa của

22
người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã cuốn đi những gì là rác rưởi của thời
đại, đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. Mặc dù sự xuất hiện của triều đại
Tây Sơn rốt cuộc vẫn là sự thay thế triều đại phong kiến này bằng một triều
đại phong kiến khác nhưng phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn đã
chứng tỏ sức mạnh của nhân dân lao động, niềm khao khát hướng đến cuộc
sống mới tự do, hạnh phúc. Bởi vậy, phong trào Tây Sơn sẽ mãi mãi không bị

mất đi sự vĩ đại của nó.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí đã nói lên sự thất bại thảm hại, nhục
nhã của tên vua mất nước và bọn ngoại xâm: “Lê Chiêu Thống chạy đến cửa
ải, Nghị cũng ở đó. Vua vào ra mắt Nghị. Các quan lục tục kéo đến, ai nấy
trông nhau, nước mắt chứa chan. Sĩ Nghị cũng phải xấu hổ”. Hoà Khôn,
tướng nhà Thanh, khi tâu với vua Thanh phong vương cho Quang Trung cũng
nói: “Từ xưa đến nay, chưa đời nào đắc chí ở Nam bang. Tống, Nguyên,
Minh đều bị thua nhục cả, gương đó cũng không xa lắm”.
Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn miêu tả
khá sinh động về phong trào nông dân khởi nghĩa trong giai đoạn này:
“Lúc ấy về mặt Hải Dương có bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở Ninh
Xá, Vũ Trác Oánh ở Mộ Trạch; về mặt Sơn Nam có Hoàng Công Chất, đảng
lớn phe nhỏ hết chỗ này đến chỗ khác thúc giục nhau phiến động, chỗ nào
cũng tự dấy quân, tự xưng danh hiệu: Nguyễn Tuyển xưng hiệu Minh chủ,
Trác Oánh xưng hiệu Minh công, hội họp nhau ở xã Ninh Xá đều mượn tiếng
“phù Lê”. Dân ở vùng Đông, vùng Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi
theo, chỗ nhiều có đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm, họ quấy
rối cướp bóc làng xóm, vây đánh các ấp, các thành, triều đình không thể nào
ngăn cấm được”. [117, 1690]
Dưới triều Nguyễn, khởi nghĩa nông dân không có phong trào nào có
quy mô lớn như ở giai đoạn trước nhưng cũng liên tiếp xảy ra. Triều đình nhà
Nguyễn dùng mọi cực hình để trị tội những kẻ “phản nghịch” như xẻo thịt cho
đến chết, chém đầu, phanh thây…nhưng không vì thế mà phong trào giảm sút.

23
Những dữ liệu lịch sử trên đây cho thấy chế độ chuyên chế đã rơi vào
khủng hoảng nghiêm trọng, kéo theo đó là sự khủng hoảng về mặt ý thức hệ.
Đây cũng là giai đoạn xuất hiện những yếu tố của một nền kinh tế đô thị. Thế
kỷ XVIII – XIX ngoài kinh đô Thăng Long ở Đàng ngoài, đã bắt đầu hình
thành một số huyện lị, tỉnh lị lớn. Ngoài chức năng là trung tâm chính trị, các

đô thị này còn có vai trò quan trọng về kinh tế. Dưới triều Mạc, các làng nghề
thủ công xuất hiện ở nhiều nơi tạo thành các trung tâm thương mại lớn như
Kẻ Chợ, phố Hiến ở Đàng ngoài, Hội An, Thanh Hà ở Đàng trong. Đi kèm
với sự ra đời của các trung tâm thương mại là sự xuất hiện của một giai tầng
mới - tầng lớp thị dân. Sự có mặt của tầng lớp mới này nảy sinh nên một lối
sống, một tâm lý mới – tâm lý thị dân và tất yếu sẽ làm ảnh hưởng phần nào
đến ý thức tư tưởng chung của cả xã hội lúc đó và làm xuất hiện tư tưởng Hồ
Xuân Hương.
Tóm lại, trên đây là những điểm cơ bản nhất của những điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX làm nảy sinh
hiện tượng Hồ Xuân Hương. Trong đó khủng hoảng xã hội, khởi nghĩa nông
dân và yếu tố kinh tế đô thị là hai trong những điều kiện cơ bản nhất bởi vì
Hồ Xuân Hương là người sinh ra và lớn lên ở trung tâm Thăng Long ở thời kỳ
này thì chắc chắn tinh thần phản kháng lại hệ tư tưởng phong kiến cuối mùa
của kẻ sĩ Bắc Hà, nền kinh tế hàng hoá và tư tưởng thị dân ít hay nhiều sẽ ảnh
hưởng đến tư tưởng của bà.
1.2. Tiền đề văn hoá – tƣ tƣởng.
Có một điều “nghịch lý” về hình thức nhưng “thuận lý” về tính tất yếu
nội tại là trái với sự khủng hoảng và sự suy thoái nghiêm trọng của tình hình
kinh tế, chính trị của xã hội Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ
XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX thì đời sống về mặt văn hoá – tư tưởng của Việt
Nam lúc này lại có những bộc phát. Điều này có thể giải thích được khi chúng
ta nắm bắt được quy luật duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội so với đời sống vật chất của xã hội.

24
Thời kỳ này nghề in có phát triển đôi chút nhưng việc xuất bản sách
không hề dễ dàng do chi phí cao, thêm vào đó là phương tiện lưu thông cũng
không thuận tiện nên về cơ bản người ta vẫn trực tiếp trao đổi về tư tưởng
thông qua các diễn đàn, các văn đàn thi xã tiêu biểu như Cổ nguyệt đường của

nữ sĩ Hồ Xuân Hương…nở rộ ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Giai đoạn này, âm nhạc phát triển mạnh ở cả Đàng Trong và Đàng
Ngoài không chỉ là món tiêu khiển của cung đình mà còn trở thành nhu cầu
thưởng thức của nhân dân. Do yêu cầu xây dựng, các nghành như điêu khắc,
kiến trúc cũng phát triển. Một số chùa chiền có cách kiến trúc mỹ lệ và những
công trình điêu khắc tài tình được xây dựng từ thời kỳ này cho đến nay vẫn
còn là niềm tự hào của dân tộc.
Xã hội tuy loạn lạc song trên lĩnh vực học thuật, các ngành văn học, sử
học, y học…đều có những thành tựu to lớn với các đại biểu như Lê Quý Đôn,
Phan Huy Chú, Lê Hữu Trác…Bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú được mệnh danh là bộ Bách khoa toàn thư của dân tộc Việt, bộ Lãn
Ông y tập của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác gồm một trăm quyển là một
pho sách thuốc vô cùng quý giá. Hay Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ là một
tác phẩm khảo sát và phê bình các bản sử cũ rất có giá trị. Đặc biệt, những
thành tựu văn hoá thời kỳ này ngoài việc tiếp thu những thành tựu của văn
hoá nước ngoài đã thể hiện rõ tính dân tộc, tính nhân văn cũng như tinh thần
khảo chứng duy lý rất cao. Chẳng hạn, khi Phan Huy Chú biên soạn cuốn
Lịch triều hiến chương loại chí có nói rằng:
“Phàm những sự tích chép trong sách này, trên từ đời cổ, dưới đến cuối
Lê, đều nói có sách mách có chứng cả. Hễ thấy những lời nghị luận trong sách
sử có điều gì tỏ sáng thêm thì cũng nhặt lượm vào để cho đầy đủ mà xem xét.
Gián hoặc có kiến giải dị đồng gì thì tác giả lại lấy ý mình mà cân nhắc bàn
bạc, nhưng vẫn nêu một chữ “án” ở dưới đó để tỏ ra là lời bàn của mình. Mục
đích cốt là so sánh mọi việc mọi lẽ, cầu cho rất mực đích đáng, chứ không
phải dám phóng bút khua môi xằng”.

25
Cùng với những thành tựu lớn lao trên lĩnh vực văn hóa thì về mặt tư
tưởng cũng có những kế thừa những thành quả của thời kỳ trước và có những
biến đổi sâu sắc, đặc biệt là sự xuất hiện xu hướng tư tưởng nhân văn mang

tính đột phá. Giai đoạn lịch sử xuất hiện hiện tượng tư tưởng Hồ Xuân Hương
là giai đoạn xã hội Việt Nam xảy ra những biến cố lớn lao làm đảo lộn những
nề nếp tư tưởng cũ “hệ tư tưởng chính thống và nền văn hoá phục vụ cho giai
cấp thống trị bị khủng hoảng và sụp đổ” [40; 48], thay vào đó là một luồng tư
tưởng mới lạ đã ra đời – đó chính là sự ra đời của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa
(nhân văn chủ nghĩa). Giai đoạn này xuất hiện rất nhiều nhà tư tưởng, nhà văn
hoá lớn của dân tộc như Nguyễn Gia Thiều, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Ngô
Thì Nhậm, Nguyễn Du… Trong đó, Hồ Xuân Hương có những đóng góp thật
đặc sắc về tư tưởng nhân văn bằng hình thức độc đáo là thơ Hồ Xuân Hương.
Dĩ nhiên, chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn này thuộc phạm trù văn hoá
phương Đông nên có những đặc thù so với chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân
văn phương Tây thời Phục hưng, khi giai cấp tư sản xuất hiện trong bối cảnh
văn hoá Tây Âu.
Ở phương Tây, khi nói đến chủ nghĩa nhân văn, người ta thường liên
tưởng ngay đến sự phát triển của các đô thị, đến nền kinh tế hàng hoá và sự ra
đời của giai cấp tư sản bởi có thể nói chủ nghĩa nhân văn, ở một góc độ nào
đó là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên nhằm chống lại hệ tư tưởng của
giai cấp phong kiến đang thống trị và nó được thể hiện cả trong văn học, nghệ
thuật và nhất là trong các tác phẩm chính luận bàn về chủ nghĩa nhân văn từ
các mức độ.
Nếu đem áp đặt công thức phương Tây như chúng ta vừa nói trên vào
nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam là không đủ cơ sở, nếu không muốn nói
là cục bộ, phiến diện và giáo điều. Trong bài Những nhận xét phê phán về vấn
đề dân tộc, V.I. Lênin đã viết:
“Trong mỗi nền văn hoá dân tộc đều có những yếu tố văn hoá dân chủ
và xã hội chủ nghĩa – dù rằng những yếu tố ấy ít nhiều phát triển đến đâu đi

×