Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng hai nguyên lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------- o0o -------------

NGUYỄN NGỌC DIỆP

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN
DỤNG HAI NGUYÊN LÝ ĐĨ Ở HỒ CHÍ MINH TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2007

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------- o0o -------------

NGUYỄN NGỌC DIỆP

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN
DỤNG HAI NGUYÊN LÝ ĐĨ Ở HỒ CHÍ MINH TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.DƢƠNG VĂN DUYÊN

HÀ NỘI – 2007
2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1:NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

8

1.1. Phép biện chứng duy vật

8

1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

12

1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến


13

1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển

19

1.3. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

25

1.3.1 Quan điểm toàn diện

25

1.3.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

27

1.3.3. Quan điểm phát triển

27

Chương 2: SỰ VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
VÀ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN Ở HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG VIỆT

31

NAM
2.1. Quan điểm tồn diện


32

2.2. Quan điểm lịch sử cụ - thể

41

2.3. Quan điểm phát triển

50

Chương 3: BÀI HỌC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT CỦA
HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

63

3.1. Khái quát một số nét cơ bản về tình hình thế giới và Việt Nam
trong những năm gần đây

63

3.1.1. Tình hình thế giới hiện nay

63

3.1.2. Thực trạng đất nƣớc sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX và sau 20 năm đổi mới

65


3.2. Quán triệt quan điểm biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam

68
4


3.2.1. Quan điểm toàn diện

69

3.2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

75

3.2.3. Quan điểm phát triển

79

KẾT LUẬN

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

5



Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Núi v ch tịch Hồ Chí Minh, tiến sĩ M. Ahmed, giám đốc Unesco khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương, đại diện đặc biệt của tổng giám đốc Unesco
đã viết:
“Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại
ngay khi còn sống, và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được
ghi nhớ khơng phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đơ hộ,
mà cịn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh mới và hy
vọng mới cho những người đang đấu tranh khơng khoan nhượng để loại bỏ bất
cơng, bất bình đẳng trên trái đất này” [37, 37].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc Việt
Nam. Trong lịch sử nhân loại ở thế kỉ XX, Người được coi là một biểu tượng
kiệt xuất, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những đóng góp to
lớn ấy, năm 1990 Người đã được tơn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc,
Danh nhân vn hoỏ th gii.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt
Nam đà khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, t- t-ởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng t- t-ởng và kim chỉ nam cho h¯nh ®éng” [17; 127 - 128].
T- t-ëng Hå ChÝ Minh lµ mét hƯ thèng lÝ ln bao gåm nhiỊu lĩnh vực
rộng lớn và vô cùng phong phú. Trong đó, sự vận dụng và phát triển sáng tạo
những nguyên lý cđa phÐp biƯn chøng duy vËt trong l·nh đạo c¸ch mạng Việt
Nam ở Hồ Chí Minh đ-ợc xem là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản
vô giá mà Ng-ời đà để lại cho dân tộc và nhân loại.
Thực tế đổi mới của đất n-ớc ta 20 năm qua - tuy ó t c những
thành tựu to lớn song vẫn còn nhiều hạn ch - ó ch ra cho chúng ta thấy: khi
nào chúng ta nắm vững lí luận phép biện chứng duy vật, biết vận dụng một
6



cách sáng tạo các nguyên tắc, phương pháp của phép biện chứng vào hoàn cảnh
cụ thể của đất nước, biết lấy “cái bất biến” ứng vào “cái vạn biến” theo tư
tưởng Hồ Chí Minh thì vai trị và hiệu lực của việc cải tạo tự nhiên, biến đổi xã
hội sẽ được nâng cao. Ngược lại, nếu cách làm của chúng ta là chủ quan, là duy
ý chí, siêu hình thì chúng ta sẽ phạm phải những khuyết điểm, sai lầm nghiêm
trọng, gây tổn thất to lớn không chỉ cho cách mạng mà cịn cho cả q trình
phát triển xã hội nói chung. Do đó, nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển
phép biện chứng duy vật mácxít, những tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh
trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu bức thiết, là việc làm có ý nghĩa to lớn.
Chúng ta tìm về tư tưởng Hồ Chí Minh là để đi tìm “nguồn sáng tương
lai” cho đất nước. Ở thời kỳ kháng chiến cứu nước và bắt đầu tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trên nhiều người đương
thời, biết vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật vào việc xem xét và giải quyết vấn đề thực tiễn của cách mạng
Việt Nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng li.
Ng-ời đó trở thành ng-ời kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong thời đại mới, tr-ớc một ph-ơng Đông đầy mâu thuẫn,
đầy biến cố phức tạp. Vỡ th, khám phá phép biện chứng Hồ Chí Minh là
một việc làm cực kì quan trọng [25, 307]. Trong giai đoạn hiện nay, trước
những biến đổi to lớn của bối cảnh trong nước và quốc tế, một yêu cầu khách
quan đặt ra đối với chúng ta là: cần phải có sự nghiên cứu và vận dụng một
cách sáng tạo tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, góp phần
đưa đất nước phát triển đi lên hội nhập nền kinh tế thế giới.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và phát triển của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng hai ngun
lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam cho lun vn ca mỡnh.
2. Tình hình nghiên cứu ®Ị tµi


7


Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm g-ơng cách mạng tuyệt vời. Ngi
không ch có những đóng góp to lớn cho phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc và cộng sản quốc tế mà Ngi còn là nhà t- t-ởng, nhà văn hoá lớn của
nhân loại. Những quan điểm lí luận và giá trị t- t-ởng ở nhiều ph-ơng diƯn
cùng những phÈm chÊt cao q, khÝ ph¸ch anh hïng của Ng-ời đà trở thành tài
sản vô giá của phong trào cách mạng và nhân loại tiến bộ thế giới. Vì thế, tt-ởng Hồ Chí Minh, con ng-ời, nhân cách Hồ Chí Minh đà trở thành đối t-ợng
tập trung nghiên cứu không chỉ của nhân dân Vit Nam mà còn của nhiều chính
khách và giới khoa học thế giới. nước ta trong những năm gần đây, việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được đẩy mạnh và bước đầu đã
có được những thành quả nhất định. Tìm hiểu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước ®ang là vấn đề
được Đảng và Nhà nước ta rất quan t©m. Vấn đề này được xem là một trong
những lĩnh vực chủ yếu của nghiên cứu lý luận và khoa hc xó hi nhân vn.
Cho đến nay đà có hàng nghìn công trình, bài viết về chủ tịch Hồ ChÝ Minh,
trong đó có cả cơng trình cấp nhà nước KX.02. Cơng trình này đã huy động
đơng đảo các nhà khoa học nhiều chuyên ngành khác nhau tham gia nghiên cứu
một cách trực tiếp, cơ bản và có hệ thống về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
trong thời kỳ hiện nay, theo như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: những
cơng trình bề thế, có quy mơ lớn, có tầm vóc về tư tưởng và học thuật tương
xứng với giá trị và ý nghĩa của sự nghiệp Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh
chưa nhiều [13; 33]. Đặc bit, những công trình chuyên khảo nghiên cứu tt-ởng triết häc hay triÕt lý cña Hå ChÝ Minh, t- t-ëng biện chứng của Hồ Chí
Minh với t- cách là một đối t-ợng nghiên cứu độc lập - ở n-ớc ta lại càng ít
ỏi. Núi nh Lê Hữu Nghĩa, đây là một khu vực còn nhiều chỗ trống trải trong
nghiên cøu vỊ t- t-ëng Hå ChÝ Minh. Thèng nhÊt víi quan điểm ú, Hoàng Chí
Bảo cũng nhấn mạnh: các công trình nghiên cứu về t- t-ởng triết học Hồ Chí
Minh, t- t-ëng biƯn chøng Hå ChÝ Minh cßn Ýt ng-êi bàn đến.

Viết về vấn đề này, thực tế cho đến nay đà có các công trình nghiên cứu
sau:
8


 T- t-ëng biƯn chøng Hå ChÝ Minh, (2005), Ngun Đức Đạt, NXB Chính
trị Quốc gia, H Ni
T- t-ởng triết học Hồ Chí Minh, (2000), Lê Hữu Nghĩa (chủ biên), NXB
Lao động, Hà Nội
Góp phần tìm hiểu đặc s¾c t- duy triÕt häc Hå ChÝ Minh, (2002), Hå
KiÕm Việt, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Trong cun T- t-ëng biÖn chøng Hå ChÝ Minh” do Nguyễn Đức Đạt
biên soạn, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Tác giả đã chỉ cơ sở thực tiễn và cơ sở lí luận hình thành tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh. Về cơ sở thực tiễn: đó là thực tiễn cuộc đấu
tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX; đó là thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và nhân
dân thế giới gắn liền với hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Hồ chủ tịch.
Những thực tiễn này được gắn kết với lý luận Mác – Lênin, với truyền thống
cách mạng của gia đình, q hương và trí tuệ Hồ Chí Minh. Về cơ sở lí luận,
tác giả chỉ ra: Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở tiếp thu
tư tưởng và văn hoá dân tộc; tư tưởng, văn hố Phương Đơng (Trung Hoa, Ấn
Độ), tư tưởng, văn hoá Phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thứ hai là: Trên cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tác giả đã đi sâu phân tích
một số nội dung cơ bản của quan điểm biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuyên suốt là các quan điểm: quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển. Hồ Chí Minh đã vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam
trong quá trình xác định đúng đắn con đường cách mạng của dân tộc: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba: Tác giả đã đi vào phân tích và chỉ ra: Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh phù hợp với
xu thế vận động và phát triển của lịch sử với phương châm “Dĩ bất biến ứng
9


vạn biến”. Nhờ thế, Đảng ta đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng
cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam trên tinh thần phủ
định có kế thừa để đổi mới và phát triển. Do đó, cơng cuộc đổi mới tồn diện
đất nước ta gần 20 năm qua tuy còn nhiều mặt yếu kém, khiếm khuyết, song đã
đạt được những thành tựu to lớn. Đặc biệt, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc
hơn. Bên cạnh những vấn đề trên, tác giả còn chỉ ra một số tiên đốn tài tình
của Hồ Chí Minh về những sự kiện lớn, có tính bước ngoặt của lịch sử.
Trong Tạp chí triết học số 4 tháng 7 năm 2001, Nguyễn Đức Đạt cũng
đã khái quát và trình bày một số các quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh. Tác
giả nhấn mạnh: Quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự phản ánh
mà còn là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật vào hiện thực cụ thể sống động của cách mạng Việt
Nam, xã hội Việt Nam. Nội dung, quan điểm của Hồ Chí Minh rất phong phú,
địi hỏi cần phải có sự nghiên cứu cơng phu để áp dụng vào công cuộc đổi mới
của đất nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ: chúng ta khơng được phép coi
quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh là cái đã sắp sẵn cho mọi lời giải đáp mà
chỉ nên xem nó là phương thức hữu hiệu nhất để tìm ra lời giải đáp cho hiện
thực sống động.
Trong cuốn Góp phần tìm hiểu đặc sắc t- duy triết häc Hå ChÝ Minh"
cđa Hå KiÕm ViƯt, tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về tư
duy triết học Hồ Chí Minh. Đó là tư duy triết học phát triển trên nền tảng triết
học Mác - Lênin, đồng thời kế thừa triết lý dân tộc Việt Nam, bao gồm trong đó

tinh hoa triết lý Phương Đơng, chủ yếu là Nho học ở vấn đề cơ bản nhất là quan
hệ Thiên – Nhân đã được Việt hoá, hướng sự cải biến cách mạng đối với xã
hội, giáo hố con người, vì con người và phát huy nhân tố con người. Vì thế, nó
đã tạo cho quyết định luận duy vật ở Hồ Chí Minh những nét đặc sắc. Bên cạnh
đó, tác giả cịn chỉ ra một số vấn đề cơ bản trong việc vận dụng tư duy triết học
Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
10


Trong cuốn “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh”, Lê Hữu Nghĩa đã trình
bày nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh ở ba yếu tố chính. Thứ nhất là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hai là những giá trị hợp lý, tiến bộ của
triết học Phương Đông và triết học Phương Tây. Ba là hệ thống tư tưởng triết
học Mác - Lênin - đỉnh cao trong sự phát triển tư tưởng nhân loại. Trong đó,
triết học Mác - Lênin có vai trị quyết định, là thế giới quan và phương pháp
luận khoa học để Hồ Chí Minh xem xét và giải quyết những vấn đề cách mạng
của Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra: phương pháp biện chứng duy vật
của triết học Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh vận dụng tài tình, nhuần
nhuyễn trong lý luận và trong nghệ thuật lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì thế,
có thể coi tư tưởng Hồ Chí Minh là triết học biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin trong sự “thâu hái” những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam cùng những sự tinh hoa khác của nhân loại. Trong cuốn sách, tác giả
cũng đã trình bày một cách ngắn gọn một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh
với các quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể,
quan điểm kế thừa và nghệ thuật phân tích mâu thuẫn.
Có thể nói, việc khám phá chiều sâu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
mặc dù đã đạt được một số thành quả nhất định song vẫn đòi hỏi rất nhiều sự
nỗ lực, sáng tạo của giới nghiên cứu lý luận nước ta.
3. Mục đích và nhim v ca lun vn
- Mục đích: Nghiên cứu sự vËn dơng sáng tạo hai nguyªn lý của phép
biện chứng duy vt Hồ Chí Minh trong Cách mạng Việt Nam, từ đó thấy đ-ợc

ý nghĩa ca vn ny trong cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
- NhiƯm vụ:
+ Phân tích hai nguyên lý cơ bản của phép biÖn chøng duy vËt.
+ Làm rõ sự vận dụng hai nguyên lý của phép biện chứng duy vËt ở Hå
ChÝ Minh trong cách mạng Việt Nam.
+ Nêu lên bài học vËn dơng quan điểm biƯn chøng duy vËt cđa Hå ChÝ
Minh trong sù nghiƯp ®ỉi míi ở Việt Nam hiƯn nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
11


- Luận văn nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát
triển, sự vận dụng hai ngun lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam
- chủ yếu là thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và giai đoạn đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời nghiên cứu sự vận dụng các quan điểm biện
chứng của Hồ Chí Minh vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí lun: Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
phép biện chứng duy vt, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của những
ng-ời đi tr-ớc.
- Ph-ơng pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các ph-ơng pháp: phân tích tổng hợp, ph-ơng pháp so sỏnh, ph-ơng pháp lôgíc và lịch sử, ph-ơng pháp hệ
thống.
6. úng gúp mi của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ sự vận dụng, phát triển các nguyên lý
của phép biện chứng duy vật Hồ Chí Minh vào trong quá trình chỉ đạo cách
mạng Việt Nam, từ đó thấy đ-ợc ý nghÜa to lín cđa nã ®èi víi sù nghiƯp ®ỉi
míi ®Êt n-íc trong giai ®o¹n hiƯn nay.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghÜa lý luận: Luận văn làm sáng tỏ quan im biện chứng duy vật

trong cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh, góp phần vào việc định h-ớng
đúng đắn về chủ tr-ơng, đ-ờng lối xây dựng đất n-ớc trong công cuộc đổi mới
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm t- liệu tham khảo trong việc
giảng dạy môn t- t-ởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là t- t-ởng triết học Hồ Chí
Minh, giúp cho bản thân có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn sự vật, hiện
t-ợng, đạt hiệu quả cao trong hành động.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 ch-ơng và 8 tiết.
12


Chương 1
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. 1. Phép biện chứng duy vật
Tõ x-a ®Õn nay, trong mäi lÜnh vực hoạt động của con ng-ời, vấn đề
ph-ơng pháp luôn đ-ợc đặt ra để lựa chọn, sử dụng nhằm thực hiện một cách có
hiệu quả những mục tiêu à định.
Đánh giá về tầm quan trọng của ph-ơng pháp, P. Bêcơn nhn mnh:
Ph-ơng pháp nh l s ch cn thit dn ng. Còn i vi R. Đêcac, ông
i
lại đ-a ra một nhận định: Thiếu ph-ơng pháp thì ng-ời tài cũng có thể mắc lỗi,
có ph-ơng pháp thì ng-ời tầm th-ờng cũng làm đ-ợc việc phi th-ờng.
Cùng với quá trình con ng-ời nhận thức, cải tạo, biến đổi tự nhiên và xÃ
hội, ph-ơng pháp trong hoạt động nhận thức và trong cải tạo hiện thực cũng
ngày càng phát triển và mở rộng. Tuy nhiên, cũng có ph-ơng pháp đúng đắn và
ph-ơng pháp sai lầm.
Trong lịch sử phát triển triết học có hai ph-ơng pháp đối lập nhau:

ph-ơng pháp biện chứng và ph-ơng pháp siêu hình. Trong đó, ph-ơng pháp
biện chứng đ-ợc xem là ph-ơng pháp khoa học, là công cụ để nhận thức thế
giới ngày càng đúng đắn, sâu sắc hơn, để cải tạo thế giới ngày càng hiệu quả
hơn, theo những quy luật khách quan của nó.
Ph-ơng pháp biện chứng là ph-ơng pháp nhận thức đối t-ợng ở trong các
mối liên hệ với nhau, ảnh h-ởng ln nhau, ràng buộc nhau; nhận thức đối t-ợng
ở trạng thái vận động, biến đổi, nằm trong khuynh h-ớng chung là phát triển.
Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện t-ợng mà nguồn gốc của

13


sự thay đổi ấy là do sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
nội tại của chúng.
Ph-ơng pháp biện chứng thể hiện t- duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa
nhận trong những tr-ờng hợp cần thiết, bên cnh ci hoặc lhoặc là còn
có c c²i “vơa l¯…võa lµ…”; nã thõa nhËn mét chØnh thĨ trong cùng một lúc
vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định,
vừa loại trừ nhau đồng thời lại vừa gắn bó với nhau.
Ph-ơng pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng nh- nó tồn tại. Nhờ
vậy, ph-ơng pháp t- duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con ng-ời
nhận thức và cải tạo thế giới.
Cùng với sự phát triển của t- duy con ng-ời, ph-ơng pháp biện chứng tri
qua ba giai đoạn phát triển, đ-ợc thể hiện trong trit học với ba hình thức lịch sử
của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát ngây thơ thời kì cổ đại, phép biện
chứng duy tâm (cổ điển Đức), phép biện chứng duy vật (do C. Mác, Ph.
Ăngghen xây dựng, sau đó đ-ợc V.I. Lênin phát triển).
*Phộp bin chng t phỏt, ngây thơ thời kỳ cổ đại
Ngay từ thời cổ đại, những yếu tố biện chứng tự phát đầu tiên đã bắt đầu
xuất hiện. Chúng gắn liền với những kiến giải theo quan điểm duy vật. Khi xem

xét thế giới, người ta đã nhận thấy một bức tranh tổng quát, trong đó, các sự
vật, hiện tượng có mối liên hệ chằng chịt với nhau, tác động lẫn nhau, khơng có
cái gì đứng im mà tất cả đều vận động, biến hoá. Những yếu tố biện chứng ấy
đã nói lên sức mạnh nhận thức của con người, đã góp phần làm phong phú tri
thức chung và thúc đẩy nhận thức của con người phát triển. Tuy nhiên, đó mới
chỉ là những yếu tố biện chứng mang tính tự phát, ngây thơ. Bởi vì, nó chưa
dựa trên những thành quả khoa học mà mới chỉ dựa vào sự quan sát trực quan,
mang tính chất phỏng đoán về bức tranh chung của thế giới. Do đó, sau này nó
đã bị phép siêu hình (xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XV) thay thế.
* Phép biện chứng duy tâm

14


Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức ở cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Các đại biểu của triết học cổ điển Đức là Căng,
Phích – tơ, Selinh và đặc biệt là Hêghen đã đóng một vai trị to lớn trong việc
phê phán những quan điểm siêu hình và chuẩn bị về mặt lí luận cho việc xây
dựng phương pháp biện chứng. Có thể nói, trước Hêghen, trong triết học của
các nhà duy vật thế kỷ XVII – XVIII như Spi – nô da, Điđơrơ, các nhà khai
sáng Pháp cũng đã có nhiều yếu tố của phép biện chứng. Song, chỉ đến Hêghen,
phép biện chứng mới được nêu lên thành một học thuyết, mới được hình thành
với tính cách là một bộ phận của triết học. Với một hệ thống khái niệm, phạm
trù và các quy luật cơ bản, Hêghen đã trở thành người đầu tiên xây dựng hoàn
chỉnh phép biện chứng. Tuy nhiên, đó lại là phép biện chứng duy tâm, trong đó,
“ý niệm tuyệt đối” được xem là cái có trước, tha hoá thành giới tự nhiên và xã
hội; biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.
* Phép biện chứng duy vật
Kế thừa một cách có chọn lọc và phát triển những thành quả của các nhà
triết học trước đó, đồng thời dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu to lớn

của khoa học hiện đại, thực tiễn lịch sử loài người, đặc biệt là thực tiễn xã hội
giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng duy vật (sau này được V.I. Lênin bảo vệ và
phát triển). Mặc dù đánh giá rất cao những tư tưởng triết học biện chứng của
Hêghen đối với cuộc đấu tranh chống phương pháp siêu hình song C. Mác, Ph.
Ăng ghen và V.I. Lênin cũng hết sức phê phán những tư tưởng sai lầm, duy
tâm, phản động của Hêghen. Các ông đã cải tạo triệt để phép biện chứng của
Hêghen, đã tước bỏ đi những cái gì là thần bí, là phiến diện, làm cho phép biện
chứng của Hêghen đi bằng “chân” chứ không phải đi bằng “đầu”. Trong tác
phẩm Tư bản, C. Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi chẳng những
khác về căn bản với phương pháp biện chứng của Hê ghen mà cịn đối lập với
phương pháp đó. Đối với Hê ghen, q trình của tư duy mà ơng đã đặt cho cái
tên là ý niệm, là đấng sáng tạo ra hiện thực, còn hiện thực chỉ là biểu hiện bề
15


ngồi của ý niệm mà thơi. Đối với tơi thì trái lại, sự vận động của tư duy chỉ là
phản ánh của sự vận động hiện thực, di chuyển và biến hình vào trong đầu óc
con người” [57, 35]. Có thể nói, chỉ có các ơng mới phát hiện ra phép biện
chứng thật sự tồn tại trong thế giới khách quan, từ đó đưa tri thức của lồi
người tiến thêm một bước nữa trong quá trình nhận thức tự nhiên. Trong triết
học của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, chủ nghĩa duy vật đã khắc phục
được mọi hạn chế trước đây, cịn phép biện chứng cũng được trình bày theo
bản chất vốn có của nó - tức là trình bày trên cơ sở duy vật, dựa trên nền tảng
vững chắc của khoa học tự nhiên. Phép biện chứng duy vật đã trở thành một
học thuyết thực sự khoa học, một phương pháp luận tiên tiến dùng để nhận thức
và cải tạo thế giới.
Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, Ph. Ăngghen đã định nghĩa hoàn chỉnh
về phép biện chứng:
“Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ

biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư
duy” [1, 201].
Cịn đối với C. Mác, ơng cũng coi “phép biện chứng là khoa học về
những quy luật chung của sự vận động của thế giới bên ngoài cũng như của tư
duy con người ” [43, 111].
Phép biện chứng duy vật được coi là một khoa học song nó khác với
khoa học cụ thể. Bởi vì nó nghiên cứu những quy luật chung nhất, những quy
luật phổ biến của sự vận động, phát triển và tác động trong cả 3 lĩnh vực: giới
tự nhiên, xã hội loài người và tư duy con người. Trong phép biện chứng duy
vËt, biÖn chøng của cái khách quan quy định biện chứng của cái chủ quan, tduy biện chứng phản ánh tính biện chứng vốn có của bản thân cuộc sống. Nội
dung của nó là một hệ thống các nguyên lý (Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển), các quy luật (Quy luật chuyển hoá từ những sự
thay đổi về l-ợng thành những sự thay đổi về chất và ng-ợc lại, quy luật mâu
thuẫn, quy luật phủ định của phủ định - nói lên bản chất, cách thức và xu h-ớng
vận động và phát triển) và các cặp phạm trù (cái chung - cái riêng cái ®¬n
16


nhất, nguyên nhân - kết quả, bản chất hiện t-ợng, khả năng - hiện thực, nội
dung - hình thức, tất yếu - ngẫu nhiên). Từ những nguyên lý, quy luật, phạm trù
đó, phép bin chng duy vt hình thành nên các quan điểm, các nguyên tắc chỉ
đạo trong nhận thức cũng nh- trong hoạt động thực tiễn. Tiêu biểu là quan điểm
toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể... trong sù xem xÐt
c¸c sù vật, hiện t-ợng của thế giới. Đó là một thế giới chỉnh thể, vận động và
phát triển không ngừng trong mâu thuẫn, bằng mâu thuẫn. Đó là một hệ thống
mở chứ không đóng kín, l một tập hợp những khi niệm, phm trù động
chứ không tĩnh.
Bt ngun t chớnh hin thực khách quan, phép biện chứng duy vật đã
cho chúng ta chiếc chìa khố để giải thích tính chất phức tạp và mn hình
mn vẻ của thế giới, trang bị cho con người sự hiểu biết về những quy luật

chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó vận dụng vào trong hoạt động
thực tiễn của mình.
Để nắm được phép biện chứng duy vật, chúng ta phải hiểu được hai
nguyên lý, các cặp phạm trù và các quy luật của nó. Tuy nhiên, trong giới hạn
của luận văn, tơi chỉ xin đi vào tìm hiểu hai ngun lý của phép biện chứng duy
vật và sự vận dụng hai ngun lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt
Nam.
1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Thế giới vật chất rất đa dạng, phong phú và mn hình mn vẻ. Tuy
nhiên, thế giới vẫn thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất tồn tại
trong sự vận động vĩnh viễn và tuân theo những quy luật khách quan của bản
thân sự vật, hiện tượng.
Song, vấn đề đặt ra là: trong sự thống nhất ấy, các sự vật và hiện tượng
có mối liên hệ với nhau hay là tồn tại một cách đơn lẻ? Và trong sự vận động
vĩnh viễn đó, thế giới đổi mới khơng ngừng hay là đi theo một vịng tuần hồn
khép kín, lặp lại cái cũ?
Trả lời câu hỏi này có hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện chứng
và quan điểm siêu hình. Phép biện chứng cho rằng: Mọi sự vật, hiện tượng trên
17


thế giới đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau và luôn luôn vận động, phát triển.
Trái lại, phép siêu hình lại khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều
tồn tại độc lập, tách rời nhau, ln lặp lại cái cũ, khơng có sự đổi mới và phát
triển.
Phép biện chứng duy vật đã giải thích quan điểm của mình một cách
hồn chỉnh trong hai ngun lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến

Khi xem xét và phân tích thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội), người
ta đã nhận thấy có một đặc điểm nổi bật là: mọi sự vật và hiện tượng trong thế
giới đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, hình thành một màng lưới phức
tạp, vô cùng vô tận, tuyệt đối không có một sự vật hiện tượng nào tồn tại một
cách biệt lập, tách rời nhau. Thông qua những mối liên hệ, sự tác động qua lại
lẫn nhau ấy, các sự vật hiện tượng mới có thể biểu hiện sự tồn tại của mình, bộc
lộ bản chất và tính quy luật của chúng trong thế giới. Phép biện chứng duy vật
gọi đó là mối liên hệ phổ biến hợp quy luật của các sự vật và hiện tượng, đồng
thời coi việc nghiên cứu, giải thích mối liên hệ phổ biến ấy một cách khoa học
là nhiệm vụ nghiên cứu đầu tiên của mình.
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, mối liên hệ là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
* Các tính chất của mối liên hệ
Các nhà triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra các tính chất của mối liên
hệ, đó là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, nhiều vẻ.
Tính khách quan
Thế giới là một thể thống nhất trong đó các sự vật và hiện tượng có sự
liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ và tác động qua lại đó là khách
18


quan, là vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng. Trong các tác phẩm: Tư
bản, Biện chứng của tự nhiên, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán và trong nhiều tác phẩm khác, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã
vạch rõ bản chất biện chứng của thế giới, đã chứng minh rõ biện chứng là cái
tồn tại khách quan vốn có của thế giới. Trong tác phẩm Lút vích Phơ Bách và
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph. Ăngghen khẳng định: ngày nay
vấn đề không phải là tưởng tượng ra những mối liên hệ mà là phát hiện ra

những mối liên hệ đó từ trong những sự thực.
Thế giới vật chất rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, thế giới vẫn
thống nhất ở tính vật chất của nó. Thực tiễn cuộc sống - bằng những phát minh
khoa học - đã chỉ cho chúng ta thấy tính chất phát triển biện chứng của thế giới,
đã chứng tỏ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có sự tác động qua lại lẫn
nhau, thông qua những mối liên hệ biện chứng. Ph.Ăng ghen nhấn mạnh:
những khoa học hiện đại về tự nhiên đã chứng thực rằng “trong tự nhiên, rút
cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ khơng phải siêu hình” [1,
39]. Điều đó cũng có nghĩa, phép biện chứng với tư cách là học thuyết về sự
liên hệ phổ biến, khơng phải là sự phỏng đốn trực quan (giống như các nhà
biện chứng thời cổ đại), mà là học thuyết dựa chắc trên cơ sở khoa học. Thế
giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác động qua lại. Bất cứ một
sự vật, hiện tượng nào cũng có mối quan hệ với tất cả các sự vật, hiện tượng
khác. Nếu như trước kia người ta cho rằng giữa giới vô cơ và giới hữu cơ có
một ranh giới tuyệt đối, thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, các nhà hoá học đã chứng
minh từ chất vơ cơ có thể tạo ra được các hợp chất hữu cơ. Do đó, lần đầu tiên
trong lịch sử nhận thức của nhân loại, cái “hố sâu” ngăn cách giữa tự nhiên vô
cơ và giới hữu cơ bị lấp kín. Người ta đã nhận thấy bản thân sinh vật chính là
kết quả của vật chất vơ cơ, nhưng đồng thời cũng lại là nguyên nhân tác động
đến vật chất vơ cơ. Con người chính là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, là
một bộ phận của tự nhiên, song, dù muốn hay không, con người vẫn luôn phải
chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác xung quanh và các yếu tố
19


ngay trong chính bản thân con người. Đồng thời, cùng với sự vận động và phát
triển của lịch sử nhân loại, để tồn tại, con người cũng có sự tác động trở lại với
những sự vật và hiện tượng đó.
Tính phổ biến
Khi phân tích thế giới khách quan, phép siêu hình đã tuyệt đối hố tính

độc lập tương đối của sự vật, hiện tượng, coi chúng khơng có mối liên hệ gì với
nhau. Nó cơ lập sự vật, hiện tượng ra khỏi điều kiện tồn tại của chúng, đồng
thời cắt đứt quá trình lịch sử của sự vật và hiện tượng. Nhìn vào bức tranh
chung của thế giới, phép siêu hình chỉ thấy đươc sự vật cá biệt mà khơng thấy
mối liên hệ giữa các sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy
được sự “sinh thành” cũng như “tiêu vong” của sự vật, chỉ thấy “cây” mà
khơng thấy “rừng”. Do đó, phép siêu hình đã khơng thể giải thích đựơc tại sao
giữa các mặt, các bộ phận, các quá trình của sự vật cũng như giữa sự vật này và
sự vật khác lại có những mối liên hệ như vậy mà không phải là mối liên hệ
khác; tại sao các hiện tượng xảy ra trong thế giới khơng phải hồn tồn là ngẫu
nhiên mà lại tuân theo những quy luật nhất định?
Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật đã chỉ ra rằng:
trong thế giới, các sự vật, hiện tượng không tồn tại biệt lập mà ràng buộc lẫn
nhau, phụ thuộc vào nhau, luôn tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Sự liên
hệ như thế là phổ biến đối với các sự vật, hiện tượng khác nhau cũng như đối
với các mặt, các bộ phận bên trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Và cơ sở
của sự liên hệ ấy chính là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Trái với phép siêu hình, phép biện chứng coi thế giới tự nhiên không
phải là một sự chồng chất ngẫu nhiên các sự vật và hiện tượng tách rời nhau, cô
lập nhau với nhau, không phụ thuộc vào nhau, mà là một khối thống nhất có
liên hệ, trong đó sự vật và hiện tượng liên hệ hữu cơ với nhau, phụ thuộc vào
nhau và ràng buộc lẫn nhau. Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng giới tự nhiên chính là
“hòn đá thử vàng” của phép biện chứng. Việc phát minh ra tế bào, coi nó là đơn
vị cơ sở đã cho chúng ta thấy toàn bộ cơ thể của thực vật và động vật đều phát
20


triển bằng sự bội gia và sự phân hoá. Sự ra đời của học thuyết tiến hoá của
Đácuyn đã chỉ rõ: tất cả các giống loài sinh vật (kể cả con người) đều là sản
phẩm của một quá trình phát triển lâu dài bằng con đường phân ly tính chất. Và

như vậy cũng có nghĩa: trong thế giới có sự thống nhất và mối liên hệ chặt chẽ
giữa khoáng vật, thực vật, động vật và cả loài người. Đặc biệt, quy luật bảo
tồn và chuyển hố năng lượng lại thêm một bằng chứng nữa bác bỏ quan điểm
siêu hình, chia cắt thế giới thành từng mảnh biệt lập, vạch rõ sự chuyển hố lẫn
nhau của các hình thức vận động tạo ra tính nhiều vẻ của thế giới. Thế giới
khơng phải là một khối hỗn độn, trong đó, sự vật, hiện tượng này đặt cạnh sự
vật và hiện tượng khác như những cái “hộp” đặt trong tủ kính. Thế giới là một
khối thống nhất trong sự liên hệ, tác động qua lại, trong quá trình vận động,
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là sự liên hệ vơ cùng
khăng khít khơng chỉ là giữa các sự vật và hiện tượng với nhau mà còn là sự
chuyển hoá của chúng từ giai đoạn này, quá trình này sang giai đoạn khác, quá
trình khác. Bởi vì, trong bản thân mỗi sự vật và hiện tượng đã mang sẵn những
nhân tố có thể cấu thành sự vật và hiện tượng khác trong những điều kiện nhất
định.
Trên thực tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng gọi
phép biện chứng là khoa học về những mối liên hệ. Bởi vì, bất cứ một sự vật,
hiện tượng nào trong thế giới cũng đều có mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác, khơng có sự vật và hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Người
ta nghiên cứu thấy những cánh bướm chập chờn bay ở rừng Amazơn cũng có
sự liên quan đến một cơn bão của Hồng Kông, sự lên xuống của thuỷ triều cũng
có sự liên quan đến mặt trăng, cũng như sự xuất hiện hiện tượng sao chổi cũng
có liên quan đến những sự kiện lớn trên thế giới. Con người sống và tồn tại nhờ
vào việc khai thác giới tự nhiên, tác động vào giới tự nhiên, song ngược lại,
giới tự nhiên với tư cách là môi trường sống của con người, ln có sự ảnh
hưởng lớn đến con người. Sự tàn phá, khai thác nhiên một cách bừa bãi của loài
người sẽ làm giới tự nhiên trả thù bằng các hiện tượng “sóng thần”, bằng bão
21


lũ, bằng hạn hán, làm cho trái đất nóng lên, đe doạ tới sự sống của con người

và tuổi thọ của trái đất…
Khơng chỉ có tự nhiên mà cả xã hội loài người cũng vận động theo
“nhịp” biện chứng. Trong lĩnh vực xã hội, người ta nhận thấy mối quan hệ giữa
con người với con người là tất yếu khách quan. Do nhu cầu sống và tồn tại, con
người buộc phải có mối quan hệ qua lại với nhau, tác động lẫn nhau (mà cơ sở
của mối quan hệ ấy là lợi ích).
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã trải qua nhiều hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội là một thể thống nhất
hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Trong đó, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, các hình
thái ý thức xã hội đồng thời cũng có sự liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau.
Đặc biệt, giữa các hình thái kinh tế xã hội khác nhau cũng có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau trong quá trình phát triển.
Xét trong lĩnh vực tư duy, tư tưởng, người ta cũng nhận thấy: ý thức con
người (vốn là những cái phi vật chất, là thuộc tính của một dạng vật chất cao
nhất là bộ óc người) chính là sự phản ánh sự vận động của hiện thực khách
quan, “di chuyển” và “biến hình” vào trong đầu óc của con người. Ph. Ăngghen
đã chỉ rõ: lịch trình biện chứng của ý tưởng chỉ là phản ánh ý thức của thế giới
thực tại. Nói cách khác, biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan,
tư duy biện chứng phản ánh tính biện chứng vốn có của bản thân cuộc sống.
Tính đa dạng
Thừa nhận thế giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác
động qua lại, phép biện chứng duy vật đồng thời cũng chỉ ra tính da dạng,
nhiều vẻ của mối liên hệ.
Thế giới vật chất là muôn hình mn vẻ cho nên những mối liên hệ và sự
tác động lẫn nhau của các sự vật và hiện tượng trong thế giới cũng vô cùng
phong phú và đa dạng. Người ta nghiên cứu thấy có các mối liên hệ sau: mối
liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ
22



yếu; mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ không bản chất; mối liên hệ tất yếu, mối liên hệ ngẫu nhiên. Trong đó, các
loại liên hệ khác nhau có vai trị khác nhau đối vớí sự vận động và phát triển
của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, phép biện chứng mácxít khơng nghiên
cứu tất cả các mối liên hệ mà chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất,
mối liên hệ vốn có trong cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, sự tác động lẫn nhau giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng này với các
sự vật và hiện tượng khác.Ví dụ như: xét trong đời sống xã hội thì mối liên hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hợp thành phương thức sản xuất)
là mối liên hệ bên trong, còn mối liên hệ giữa xã hội với hoàn cảnh địa lý tự
nhiên được coi là mối liên hệ bên ngồi. Trong đó, mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngồi có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau song
mối liên hệ bên trong là nhân tố chủ yếu. Nó quyết định bản chất, khả năng
biến hố vốn có của sự vật và hiện tượng, quyết định mức độ ảnh hưởng của
điều kiện bên ngoài đối với sự vật ấy. Mối liên hệ bên ngồi, nhìn chung,
khơng giữ vai trị quyết định, thường phải thơng qua mối liên hệ bên trong mới
có thể tác động đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên,
mối liên hệ bên ngồi cũng giữ một vai trị hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong
những điều kiện nhất định, nó có thể giữ vai trò quyết định. Chẳng hạn như:
Ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đang
tạo ra thời cơ, đồng thời cũng tạo ra những thách thức to lớn đối với các nước
chậm phát triển – trong đó có Việt Nam. Đất nước ta có tranh thủ được thời cơ
do cuộc cách mạng đó tạo ra hay khơng, trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào sự
“tự lực cách sinh”, vào năng lực của Đảng, của nhà nước và nhân dân ta. Song,
chúng ta cũng khó có thể xây dựng được một đất nước “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nếu không hội nhập quốc tế, không tận


23


dụng được những thành quả của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
mà thế giới đã đạt được.
Cũng giống như xét quan hệ giữa mối liên hệ bên trong và mối liên hệ
bên ngoài, người ta nhận thấy các cặp mối liên hệ khác cũng có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Ở mỗi cặp mối liên hệ lại có những đặc trưng riêng. Và
trong các cặp mối liên hệ ấy, nhìn chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất
nhiên, mối liên hệ chủ yếu thường giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, tùy theo
những điều kiện, hồn cảnh cụ thể, cũng có những khi các mối liên hệ tương
ứng với chúng lại giữ vai trò quyết định. Nói cách khác, sự phân chia các mối
liên hệ trong từng cặp chỉ mang tính chất tương đối. Trong từng cặp mối liên
hệ, các loại mối liên hệ có thể chuyển hố lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát
của các mối liên hệ hoặc do quá trình vận động và phát triển của bản thân các
sự vật. Ví dụ: Cùng là bốn những lĩnh vực: trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục,
nếu như chúng ta coi chúng là bốn lĩnh vực khác biệt thì mối liên hệ giữa chúng
là mối liên hệ bên ngoài; song, nếu chúng ta coi chúng là bốn lĩnh vực cơ bản
của cơng tác giáo dục trong nhà trường (nhằm hình thành và phát triển nhân
cách, xây dựng con người mới) thì lúc này mối liên hệ giữa chúng với nhau lại
trở thành mối liên hệ bên trong.
Mặc dù sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối,
nhưng mỗi một loại mối liên hệ lại có một vai trị, vị trí khác nhau trong sự vận
động và phát triển của sự vật cho nên sự phân chia đó là cần thiết. Trong một
sự vật, hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có
một cặp mối liên hệ xác định, đồng thời các mối liên hệ ấy cũng hết sức phức
tạp. Vì thế, con người phải biết tìm ra các mối liên hệ, phân loại được các mối
liên hệ, nắm bắt đúng vai trị của từng mối liên hệ để từ đó có cách tác động
phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn của mình.
1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển

* Khái niệm phát triển

24


Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
về điều này, Ph. Ăngghen khẳng định: “Tất cả giới tự nhiên mà chúng ta có thể
nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau”.
“Việc các vật thể ấy có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này
tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động” [2, 520].
Rõ ràng, có thể thấy: Sự liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế
giới không tách rời sự vận động, biến hoá, phát triển và ngược lại. Trong đó,
cái này làm tiền đề cho cái kia, bao hàm cái kia. Chính vì xuất phát từ việc nhìn
nhận thế giới trong sự tách rời, cô lập của các sự vật và hiện tượng cho nên
những nhà triết học theo quan điểm siêu hình đã phủ nhận sự vận động, biến
đổi và phát triển trong thế giới. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ hạn chế của phương
pháp siêu hình: phương pháp siêu hình truyền cho chúng ta một thói quen là
“xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập
của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó khơng xem xét
chúng trong trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh; không coi
chúng về cơ bản là biến đổi mà coi chúng là vĩnh viễn không biến đổi, không
xem xét chúng trong trạng thái trạng thái sống mà xem xét chúng trong trạng
thái chết” [1; 36]. Tuy nhiên, cũng có các nhà triết học siêu hình thừa nhận có
sự vận động, phát triển trong thế giới. Bởi trước những sự thật không thể chối
cãi được, đặc biệt là trước áp lực của các tài liệu khoa học lúc bấy giờ, các nhà
triết học siêu hình cũng khó mà phủ nhận sự phát triển. Song, khi nói về sự phát
triển, theo họ, nếu có phát triển thì phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm đơn
thuần về lượng mà khơng có sự biến đổi về chất. Nó diễn ra theo một vịng tuần
hồn khép kín, khơng có những bước thăng trầm, quanh co, phức tạp. Đặc biệt,

trong con mắt của các nhà siêu hình, nguồn gốc, động lực của sự phát triển
không phải do mâu thuẫn bên trong của sự vật mà do sự tác động của những
lực lượng bên ngoài như thượng đế.

25


Trái lại, phép biện chứng duy vật, dựa trên sự khái quát những thành quả
của khoa học tự nhiên, đã chỉ ra: thế giới là một bức tranh chằng chịt các mối
liên hệ, trong đó mọi sự vật và hiện tượng không phải đứng yên một chỗ mà
chúng luôn vận động, phát triển tuân theo những quy luật nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
*Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan
Thế giới vật chất thật mn hình mn vẻ. Song, thế giới vẫn thống nhất
ở tính vật chất của nó. Thực tiễn cuộc sống, với những phát minh khoa học, đã
khẳng định rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tác động qua lại lẫn
nhau, đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, đều có q
trình thay thế cái cũ bằng cái mới.
Phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm
của các nhà duy vật biện chứng, động lực của mọi sự phát triển không phải do
nguyên nhân bên ngoài mà nằm ngay trong bản thân hiện thực khách quan. Đó
là do mâu thuẫn nội tại, do sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
giữa sức hút và sức đẩy trong lực học, giữa âm và dương trong vật lý, giữa
phân giải và hoá hợp trong hoá học, giữa di truyền và biến dị, đồng hoá và dị
hoá trong sinh vật học, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị trong xã hội, giữa cái chưa biết và cái đã biết,
giữa tính vơ hạn của nhận thức lồi người với tính có hạn của nhận thức ở từng

con người cụ thể trong nhận thức luận v.v… Dưới cái bề ngoài tưởng chừng
như rất giản đơn của các sự vật, hiện tượng lại luôn ẩn giấu những yếu tố trái
ngược, tương phản. Trong đó, các mặt đối lập, các xu hướng đối lập luôn luôn
liên hệ với nhau, đồng thời chúng lại chuyển hoá, phủ định lẫn nhau, hướng
vào nhau và đấu tranh. Mặt này chính là cơ sở tồn tại của mặt kia và ngược lại.
Nó là động lực thúc đẩy sự vật vận động, biến đổi. Nếu khơng có mâu thuẫn,
26


×