Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





THÁI THỊ THU HƯỜNG




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-



THÁI THỊ THU HƯỜNG




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH TƯỜNG






HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC

Mở đầu 1
Chương 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH 6
1.1. Tiền đề lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 6
1.2. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại 8
1.2.1. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam 8
1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại 10
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin 12
1.4. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành nên
tư tưởng đại đoàn kết 16
Chương 2. ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 21
2.1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh 21
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc 22
2.2.1. Xây dựng xã hội đồng thuận là nhân tố cơ bản để thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh 22
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí thức trong cách
mạng Việt Nam 24
2.2.3. Đoàn kết với các dân tộc thiểu số 32

2.2.4. Đoàn kết với đồng bào tôn giáo 46
2.3. Hồ Chí Minh với vấn đề thực hiện đoàn kết dân tộc 56
2.3.1. Quá trình hình thành mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ
Chí Minh 56
2.3.2. Xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh 64
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TƯ
TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI
ĐOẠN XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY 69
3.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc trong
giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay 69
3.2. Những thành tựu và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay 73
3.2.1. Những thành tựu 73
3.2.2. Những hạn chế 77
3.3. Các giải pháp chủ yếu để củng cố và nâng cao khối đại đoàn kết ở
nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 81
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất 81
3.3.2. Nhận thức đúng vị trí các giai tầng xã hội và phát huy các lực lượng
cách mạng xây dựng cơ sở kinh tế để thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc 84
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98



BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN




MTDTTN : Mặt trận dân tộc thống nhất
UBTWMTTQ: Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa





1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 19-5-1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tổ chức UNESCO đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân
văn hoá thế giới trong thế kỷ XX - anh hùng giải phóng dân tộc. Đây là niềm
vinh hạnh đối với dân tộc ta mà Bác Hồ kính yêu đã đem lại. Đây còn là sự
ghi nhận những đóng góp kiệt xuất của lãnh tụ Hồ Chí Minh vào phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới được loài người tiến bộ ngưỡng mộ.
Tư tưởng của Người bao gồm một số nội dung cơ bản như: giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân;
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh
tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; đại đoàn kết dân tộc; đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ trung thành của nhân dân… Trong những tư tưởng đó, tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc là nét nổi bật xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động và hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, và nó đã trở thành một di sản quý giá cho dân tộc Việt
Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.

Tiếp tục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ
Chí Minh đã chọn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” trong công cuộc lãnh đạo toàn dân
tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.


2
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kế thừa tư tưởng
đoàn kết truyền thống dân tộc, là sự vận dụng tư tưởng đoàn kết của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam nhưng đồng thời nó còn thể hiện
tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của Người. Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt
Nam đã chứng minh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã góp
phần không nhỏ vào sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong giai đoạn xây dựng
đất nước hiện nay.
Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới Đại hội X của
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không
thể coi thường bất cứ một thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa
rời mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực
thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, “nhân quyền” “dân tộc” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” Vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết của người
lại càng có giá trị lý luận và thực tiễn hơn bao giờ hết. Chính vì vậy tác giả
chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận

dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”. Làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cho nên đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: Phùng Hữu Phú “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí


3
Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Phạm Ngọc Quang
“Hồ Chí Minh với việc xây dựng đảng ta về trí tuệ”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994; Nhiều tác giả “Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1992; Nguyễn Bá Linh “Tư tưởng Hồ
Chí Minh một số nội dung cơ bản”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Lê Sỹ Thắng “Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991; UBTWMTTQ Việt Nam “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt trân dân tộc thống nhất”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996; Viện Thông tin Khoa học xã hội - Viện
Khoa học xã hội Việt Nam “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày
nay” qua sách báo nước ngoài, Hà Nội, 1993; luận văn Thạc sĩ Triết học của
Đinh Việt Hải “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”,
1998; Hoàng Thị Điều luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quá trình thực hiện chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm
1976-1994”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã được tiếp cận,
nghiên cứu từ nhiều hướng khác nhau nhưng tập trung chủ yếu vào các nội
dung sau:
- Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Truyền thống văn
hoá dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Vai trò của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn

dân trong cách mạng Việt Nam.
- Vấn đề đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc. Cộng đồng dân tộc Việt
Nam đoàn kết với cộng đồng dân cư theo đạo.
- Vấn đề phát triển, vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
Như vậy, vấn đề đại đoàn kết dân tộc đã được nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết đề cập đến. Tuy nhiên do giá trị lý luận cũng như thực tiễn lớn


4
lao của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh nên vẫn còn mở ra nhiều
vấn đề tiếp tục nghiên cứu. Hơn nữa hầu như chưa có công trình, đề tài khoa
học hay bài viết nào tập trung nghiên cứu “tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở này rút ra ý nghĩa của chúng trong giai đoạn
cách mạng ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Trình bày khái quát những điều kiện lịch sử, tiền đề hình thành nên tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Phân tích những quan điểm, sách lược, chiến lược về đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh.
Làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.
* Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Tài liệu nghiên cứu: Luận văn khai thác nguồn tài liệu phong phú
gồm: Tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin; Văn kiện Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam VI, VII, VIII, IX, X; các ấn phẩm sách, báo, tạp chí bàn
về vấn đề đại đoàn kết dân tộc; các công trình nghiên cứu các luận văn, luận
án có liên quan đến đề tài…


5
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng
phương pháp lịch sử và logic, kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày có hệ thống những quan điểm chiến lược, sách lược
đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh.
Luận văn chỉ ra được những thành công trong việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục và các tài
liệu tham khảo.
Chương 1: Những tiền đề hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh.
Chương 2: Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 3: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt nam về tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện
nay.


6
Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH

1.1. Tiền đề lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam,
ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do
cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX cho đến khi Pháp xâm lược vẫn là một xã
hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ được triều đại Tây
Sơn, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại
bảo thủ, phản động: tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế
quan toả cảng ở bên ngoài nên đã không mở ra được khả năng cho Việt Nam
cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy đã không
phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, không tạo ra được
tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc. Chống lại âm mưu xâm
lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, trước nguy cơ nền độc lập dân tộc có khả
năng bị thủ tiêu, nhân dân Việt Nam đã anh dũng kháng chiến mạnh mẽ ngay
từ đầu và quyết tâm chiến đấu dến thắng lợi cuối cùng. Trái lại triều đình nhà
Nguyễn, trong thì sợ nhân dân ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có
chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng, cầu hoà, cuối cùng là cam
chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Xâm lược xong Việt Nam, ngay trong bước đầu thiết lập nền thống trị,
thực dân Pháp đã tính ngay đến việc chia rẽ nhân dân Việt Nam. Đây là một
trong những chính sách căn bản, xuyên suốt trong quá trình cai trị của chúng -
chính sách: chia để trị. Bằng sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 17-10-1887
Liên bang Đông Dương ra đời gồm Việt Nam, Campuchia, Lào (1889).


7

Quảng Châu Loan (từ 1900). Từ đó, nước ta bị xoá tên trên bản đồ chính trị
thế giới. Nước Việt Nam thống nhất từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau bị chia
thành 3 xứ với chế độ cai trị khác nhau: Nam kỳ là đất thuộc địa, Bắc kỳ là xứ
bảo hộ và Trung kỳ là xứ lưỡng trị. Sự phân chia đó hòng xoá bỏ tính thống
nhất, truyền thống yêu nước, đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Không dừng
lại ở đấy, thực dân Pháp đã áp dụng nguyên tắc chia để trị trong tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Với các chương trình khai thác
thuộc địa xã hội truyền thống Việt Nam đã bị sự tác động mạnh mẽ. Một cơ
cấu xã hội mới hình thành, chồng lên trên xã hội truyền thống với những tôn
giáo, những tập tục, những lề thói hết sức đa dạng. Một xã hội phương Đông
như nước ta vốn đã tồn tại những khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, về phong
tục tập quán, cộng thêm những khác biệt mà thực dân Pháp cố tạo ra thì đó
chính là mảnh đất màu mỡ cho chính sách chia để trị đơm hoa, kết quả.
Chống lại chính sách thâm độc đó của thực dân Pháp, phong trào chống
Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau chưa bao giờ ngừng nghỉ trên đất nước
ta. Từ phong trào cần Vương trong hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX
qua các phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hướng tư sản nửa thế kỷ XX
đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Các bậc anh hùng nghĩa hiệp thừa lòng yêu
nước và lòng quả cảm, nhưng trước sau đều phải nhận lấy thất bại xót xa.
Trong các phong trào chống Pháp từ đầu thế kỷ XX trở về trước, xét
trên bình diện hệ tư tưởng có hai hình thức đó là: Hệ tư tưởng phong kiến và
hệ tư tưởng tư sản.
Sự thất bại của các phong trào chống Pháp thời kỳ đầu có nét đặc trưng
riêng là do sự ràng buộc tư tưởng trung quân đã làm vướng víu tầm nhìn của
các văn thân sĩ phu, làm cho họ phân hoá thành 2 cực đối lập nhau, không có
được sự thống nhất về ý chí và hành động. Các phong trào chống Pháp ở thời
kỳ sau cũng chịu chung số phận như các phong trào trước đó chính là vì
những người dẫn đầu không thấy được bản chất của chế độ thuộc địa nên



8
không thể chỉ ra một cách đúng đắn đối tượng cần tập trung lực lượng để
đánh đổ. Dù vậy, các phong trào chống Pháp có hai thời kỳ có chung một
điểm yếu xuyên suốt, đó là sự thiếu vắng tổ chức chặt chẽ. Thời đại mới đòi
hỏi một con người hội tụ mọi tinh hoa của dân tộc, có khả năng giải quyết
thắng lợi mọi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra. Trong bối cảnh cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra một Nguyễn Tất
Thành. Trong buổi đầu tuy chưa biết một con đường cứu nước mới, nhưng
với lòng yêu nước và tư duy độc lập của mình, Nguyễn Tất Thành đã nhận
thấy rằng muốn cứu nước giành lại nền độc lập dân tộc, không thể tiếp tục các
con đường đấu tranh theo kiểu cũ, mà phải tìm con đường mới trên cơ sở tập
hợp huy động được sức mạnh của nhân dân Việt Nam. Dần dần Người cũng
nhận thấy sự đoàn kết của các dân tộc bị chủ nghĩa tư bản đế quốc thống trị.
1.2. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá
nhân loại
1.2.1. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta được kết tinh
trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết từ xa xưa
cho tới nay luôn mang theo tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy hoà hợp đoàn kết
làm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng địch hoạ thiên tai. Đại đoàn kết
dung nạp tính phong phú đa dạng của cơ cấu xã hội và tinh thần yêu nước
khoan dung, vị tha, nhân ái, trọng dụng tài năng, thương người hoạn nạn. Tư
tưởng đó trở thành ngọn cờ đại nghĩa, qua nhiều triều đại nó được kết tinh
thành một giá trị, một ưu thế thiêng liêng bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam tuy là một nước có nhiều dân tộc, nhưng đều chung sống
trong lịch sử và ngày càng gắn bó với nhau trong công cuộc dựng nước và giữ
nước. Quá trình ấy tạo nên một lịch sử, chung một truyền thống, chung một
tiếng nói. Các tộc người vẫn duy trì và phát triển các đặc điểm riêng của
mình. Đất nước ta một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa,



9
quay mặt ra biển Đông, tựa lưng vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa
lý, tự nhiên và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt từ
thời xa xưa vừa được thừa hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với
những thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch hoạ. Lịch sử dựng nước và giữ
nước diễn ra trên mảnh đất này là sự tiếp nối hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, lũ lụt, chống chiến tranh xâm lược của
các thế lực bên ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ đó đã sớm nảy sinh
và định hình ý thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt của con người
Việt Nam và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền
thống đoàn kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước. Trong nền văn
hoá cổ truyền, người Việt yêu nước trước rồi yêu nhà sau: thương người trước
rồi thương mình sau. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn” và “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong
một nước thì thương nhau cùng”, gắn liền với quá trình sản xuất, chiến đấu,
sinh tồn và giao tiếp của nhiều thế hệ người sống trong một địa văn hoá khắc
nghiệt, có lịch sử dựng nước, giữ nước vô cùng hào hùng và sôi động. Sự cố
kết cộng đồng, sự đoàn kết các thành viên các dân tộc trong làm ăn và bảo vệ
nền độc lập dân tộc đã hình thành như một xu thế tất yếu khách quan: “Một
cây làm chẳng lên non. Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”. Có thể gọi đó là
triết lý nhân sinh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một lẽ sống của các
cộng đồng.
Những giá trị nhân bản sâu sắc và quý giá không chỉ phản ánh trong
kho tàng văn học dân gian mà còn được những người anh hùng dân tộc (Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi…) đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm,
thành phép trị nước và đánh giặc: “Khoan thư sức dân làm kế sâu về bền”,
“Trên dưới đồng lòng cả nước chung sức”… Truyền thống dân tộc nói chung,
truyền thống đoàn kết đã được kế thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Tiếp thu quan điểm Mácxít,



10
Lêninnít về truyền thống yêu nước của dân tộc ta là sự chỉ rõ xuyên suốt chiều
dài lịch sử Việt Nam, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì truyền thống ấy trỗi
dậy quét sạch bè lũ bán nước và cướp nước. Vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, sức mạnh của đoàn kết dân tộc, giai cấp và nhân loại tiến bộ. Hồ
Chí Minh đã nhìn thấy rõ giá trị của bài học lịch sử về đoàn kết. Kết thúc
quyển “Lịch sử nước ta” 1941 Người căn dặn: “Dân ta xin nhớ chữ Đồng.
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [21, tr.229].
Cùng với truyền thống dân tộc, truyền thống quê hương đã tạo nên
nhân tố đầu tiên tác động đến quá trình đưa ra tư tưởng chiến lược đại đoàn
kết của Nguyễn Ái Quốc.
1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Những giá trị nhân bản trong văn hoá phương Đông và phương Tây và
tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà cách mạng lớn ở khu vực, trên thế
giới cũng là những cơ sở quan trọng giúp Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược
đại đoàn kết của mình. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho yêu nước, Hồ
Chí Minh sớm có điều kiện tiếp xúc với những giá trị văn hoá phương Đông
trong đó có những giá trị nhân bản của nho giáo, phật giáo. Trong tư tưởng
nho giáo có nhiều nội dung nhưng nổi bật là tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân
ái và luận lý yêu thương (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của nho giáo và những yếu
tố được Hồ Chí Minh tiếp thu, cải biến, cách mạng hoá trong quá trình xây
dựng chiến lược đại đoàn kết của mình. Với phật giáo Hồ Chí Minh trong
hoạt động cách mạng của mình, có mối quan hệ với phật giáo và trong tư
tưởng của Người có nét gần gũi với triết lý nhà phật. Thích Minh Trí và
Phùng Hữu Phú đã đối chiếu tư tưởng Hồ Chí Minh với triết lý phật giáo và
rút ra một số điểm:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh một tấm gương đạo đức nhân bản, có hạnh vô
ngã, hạnh hiếu sinh, hạnh tinh tấn, đức hạnh tự giác, giác tha và có tinh thần

lục hoà trong tư tưởng và phương pháp Hồ Chí Minh” [48, tr.448].


11
Trong những vấn đề nói trên, trực tiếp liên quan đến chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh chính là tinh thần “Lục hoà” có hoà thuận mới có tin
yêu và đoàn kết “lục hoà” bao gồm: Thân hoà đồng trụ, lời nói hoà hợp không
tranh cãi, ý hoà đồng duyệt, giới hoà đồng tu, kiến hoà đồng giải (thấy biết
giãi bày cho nhau hiểu), lợi hoà đồng quân (lợi hoà cùng chia cân nhau).
Có thể nói lục hoà chính là cơ sở của đoàn kết và đạo phật tồn tại, phát
triển hàng ngàn năm nay cũng chính là dựa vào đường lối của “Lục hoà”.
Cũng như triết lý đại đồng và tinh thần lục hoà của đạo phật, tiếp thu truyền
thống tương thân tương ái của dân tộc Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tư
tưởng đại đoàn kết và nâng tư tưởng đó lên tầm cao của chiến lược cách
mạng.
Là một người Phương Đông song ngay từ lúc ngồi trên ghế nhà trường
và sau này trong cuộc đời hoạt động của Người lại gắn với môi trường
phương Tây và do vậy Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều giá trị nhân bản trong
nền văn hoá phương Tây. Năm 13 tuổi đã biết đến tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái được ghi trên lá cờ của các cao trào lưu tư tưởng phương Tây và những
tư tưởng đó được Người tìm hiểu, kiểm chứng trong suốt 30 năm bôn ba hải
ngoại. Trong số các tác phẩm, tác giả mà Hồ Chí Minh yêu thích có nhiều tác
giả, tác phẩm là đại diện cho các trào lưu dân chủ tư sản tiến bộ của Phương
Tây: Vonte, Rutxô, Víchto Huygô… và ngay trong những dòng đầu tiên của
tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh đã nhắc lại những lời bất hủ trong tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của
Pháp năm 1791. Ở Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa cốt sách phương
Đông và phong cách phương Tây. Ngoài ra chúng ta có thể thấy Nguyễn Ái
Quốc trong quá trình xây dựng đường lối cứu nước, đã tham khảo các tư
tưởng tập hợp cách mạng của các nhà cách mạng lớn trên thế giới, ở khu vực.

Hồ Chí Minh nhắc tới hai nhân vật: Tôn Dật Tiên và Mahatma Gandhi và tìm
thấy trong đó những điều kiện thích hợp với nước ta.


12
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Truyền thống dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại là cơ sở
góp phần hình thành chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, nhưng chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở tư tưởng, lý luận quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác-Lênin
đã cho Hồ Chí Minh nhận thức được về thế giới quan và phương pháp luận.
Đó là thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Từ đó vận dụng sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, giúp Người
từng bước vạch ra đường lối cứu nước và chiến lược đại đoàn kết phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin dạy rằng:
Giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất, có sứ mệnh lịch sử giải phóng xã
hội loài người. Đây là nhiệm vụ lâu dài đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược
cách mạng đúng đắn, sức mạnh đoàn kết trước hết là đoàn kết trong nội bộ
giai cấp vô sản. Chính Mác-Ăngghen trong khi nói tới sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản thì cũng đồng thời đề cập ngay đến vấn đề tập hợp lực lượng
cách mạng quốc tế. Hai ông sáng lập ra đồng minh những người cộng sản và
soạn thảo bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khẩu hiệu “Vô sản tất cả các
nước đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng sự đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế trong hoạt động lý luận cũng như thực tiễn cách mạng tư tưởng
của Mác-Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một giai cấp
đại diện cho một phương pháp sản xuất mới, là lực lượng tiến bộ và cách
mạng nhất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ đoàn kết giai
cấp mình, nhân dân mình mà còn nhiệm vụ đoàn kết giai cấp vô sản các nước.
Sự đoàn kết đó xuất phát từ chỗ họ cùng mục đích chung, kẻ thù chung
“Trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác
nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân

tộc, họ luôn luôn đại diện cho lợi ích của toàn bộ phong trào” [14, tr.614].
Đến đầu thế kỷ XX, Lênin người sáng lập đảng Bônsêvích Nga, bằng
sức mạnh của sự đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc đã tổ chức, lãnh đạo cuộc


13
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Trong chiến lược
cách mạng Lênin đã phát triển quan điểm của Mác-Ăngghen về đoàn kết
trong điều kiện lịch sử mới. Lênin đưa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong khẩu hiệu
chiến lược ấy không chỉ sức mạnh vô địch của giai cấp vô sản, mà còn là sức
mạnh của hàng triệu con người đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đế quốc
để giành tự do, hạnh phúc.
Chính Lênin là hiện thân của khối đoàn kết vô sản quốc tế và các dân
tộc bị áp bức, nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ
phong kiến. Lênin cũng là người đề ra các nguyên tắc xây dựng đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, trong đó có nguyên tắc về sự thống nhất,
đoàn kết về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố bảo đảm sự sống còn của
Đảng, hạt nhân của đoàn kết quốc tế, đoàn kết dân tộc. Một câu hỏi lớn đặt ra
trên đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác-Lênin lời giải đáp rõ ràng và đúng đắn là cội nguồn sức mạnh của
cách mạng, lực lượng cách mạng là ai, những giai cấp nào. Đó cũng là điều
chưa giải đáp được ở các sỹ phu yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX dù rằng họ có một lòng với non sông, đất nước, thừa dũng khí quả
cảm, không tiếc thân mình. Phát triển quan điểm của C.Mác về khả năng kết
hợp cách mạng vô sản với “chiến tranh nông dân”, V.Lênin đã đi tới một kết
luận quan trọng: thiết lập khối liên minh chặt chẽ giữa giai cấp vô sản với
nhân dân lao động. Đó là điều kiện căn bản bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Giá trị ở chỗ sự liên kết của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học không
chỉ với giai cấp công nhân mà còn với cả các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc

tạo nên sự thống nhất trong phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc với
cách mạng giải phóng dân tộc. Sự kiện này đã đánh dấu bước chuyển biến về
chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành


14
người cộng sản. Là nhà lý luận thiên tài và nhà tổ chức thực tiễn xuất sắc,
Lênin đã thể hiện tư tưởng liên minh công nông vào thực tiễn bằng đường lối
giai cấp của cách mạng dân chủ tư sản Nga những năm 1905 và tháng 2 năm
1917, cũng như sau đó trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười năm
1917 vĩ đại. Đó là giai cấp vô sản Nga phải liên minh với nông dân ở cách
mạng dân chủ tư sản và nông dân nghèo trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đường lối giai cấp ấy đã trở thành sức mạnh vật chất to lớn của khối
liên minh giai cấp công nhân và nông dân, làm nên thắng lợi của cuộc cách
mạng dân chủ tư sản tháng hai năm 1917 và Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười cùng năm.
Hồ Chí Minh là người cùng thời của các sự kiện ấy sau này trong
những năm tháng sống và làm việc ở Matxcơva, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
những tác phẩm lý luận của Lênin và còn là người chứng kiến tận mắt những
thắng lợi của tư tưởng liên minh công nông trong thời kỳ chính sách kinh tế
mới (NEP) và những thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh còn được biết tới những chỉ dẫn cụ thể của V.I.Lênin đối
với người cộng sản ở các nước phương Đông thuộc địa và phụ thuộc: “trước
mắt các bạn đang có nhiệm vụ mà trước kia những người cộng sản toàn thế
giới không có. Dựa vào lý luận thực tiễn chung của chủ nghĩa cộng sản, áp
dụng những điều kiện đặc biệt không có ở các nước châu Âu, các bạn phải
biết vận dụng lý luận và thực tiễn ấy vào điều kiện khi mà nông dân là quần
chúng cơ bản, khi cần phải giải quyết nhiệm vụ đấu tranh không phải là chống
tư bản, mà là chống những tàn tích của thời trung cổ” [44, tr.131]. Từ những

tư tưởng của V.Lênin và những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại
trong phong trào cách mạng các nước, Hồ Chí Minh đi tới những kết luận
khẳng định về sức mạnh của cách mạng nước ta. Cuốn “Đường cách mệnh”
của người đã viết “công nông là người chủ cách mệnh”. Như vậy nhờ tiếp thu
chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã có một cách nhìn khác biệt căn bản về


15
lực lượng cách mạng với các nhà yêu nước trước kia và cả một số nhà cách
mạng Châu Á đương thời. Từ luận điểm của Lênin đối với phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa “Đặc điểm chủ yếu của những nước đó là ở chỗ
những quan niệm tiền tư bản chủ nghĩa hay còn thống trị ở đây, và vì thế ở
đây không thể nói đến phong trào thuần tuý vô sản được” và “nhất thiết phải
đặc biệt ủng hộ phong trào nông dân” [11, tr.293]. Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối chiến lược và sách lược trong Chính cương vắn tắt và sách lược vắn
tắt của Đảng là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Như vậy, trong vấn đề dân tộc và quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc những luận điểm của Lênin, vận
dụng một cách sáng tạo và phát triển đúng đắn với một bản lĩnh chính trị
vững vàng và kiên định. Tóm lại quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về đại đoàn kết dân tộc là tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc liên minh công nông là
cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn
với đoàn kết quốc tế.
Có thể khẳng đinh rằng, trong các cơ sở thực tiễn và lý luận hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thì yếu tố tiếp thu, phát
triển lý luận Mác-Lênin về đại đoàn kết là cơ sở lý luận quan trọng nhất đánh
dấu sự phát triển về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và về đoàn kết
nói riêng. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: “Bước ngoặt đó đánh

dấu sự định hình và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản - chủ nghĩa Mác-Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học
triệt để” [9, tr.50].


16
1.4. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình hình
thành nên tư tưởng đại đoàn kết
Là người yêu nước chân chính, là tượng trưng cho sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý tưởng độc lập tự do với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giữa chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh đã suốt đời chăm
lo xây dựng củng cố và phát triển đoàn kết dân tộc. Nhìn một cách khái quát
có thể phân chia quá trình hình thành chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh
thành 2 thời kỳ lớn.
1. Thời kỳ hình thành tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh (từ năm 1930
trở về trước).
Từ lúc trưởng thành ở Tổ quốc đến khi ra đi tìm đường cứu nước và
cho tới khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là những năm tháng Hồ Chí Minh
tiếp thu một cách có chọn lọc trên tinh thần kế thừa và phê phán những giá trị
nhân bản của truyền thống dân tộc và văn hoá nhân loại, đồng thời khảo
nghiệm, đúc kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới, lấy đó
làm cơ sở định hướng tư tưởng cứu nước. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước. Nguyễn Tất Thành đã qua nhiều nước tư bản, đế quốc, thuộc địa, phụ
thuộc. Ở đâu Anh cũng thấy nhân dân lao động khổ cực, nghèo đói như đồng
bào ở quê hương. Họ đều có chung một nguyện vọng là thoát khỏi ách áp bức
bóc lột. Tiếp nhận tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã khái quát lý luận về sự đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc bằng luận
điểm: Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
Giống người bị bóc lột và giống người bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản. Từ năm 1920 -> 1924 tư tưởng đại

đoàn kết của Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản. Đó là nhận thức của
Người về sự cần thiết phải giác ngộ, tập hợp các dân tộc bị áp bức bóc lột ở
các nước thuộc địa bằng một hệ tư tưởng cách mạng tiên tiến chủ nghĩa Mác-
Lênin; là nhận thức của Người về sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ cách


17
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa. Tháng 4 năm 1921, Tạp chí Cộng sản
số 14 (bằng tiếng Pháp) đã đăng bài Đông Dương ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Đây là bài báo đầu tiên Người nêu lên sức mạnh đoàn kết và khả năng cách
mạng của đồng bào mình Người viết: “Không người Đông Dương không
chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của
bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt
tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đó đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc
đẩy cho thời cơ mau đến” [16, tr.28]. Từ năm 1925, mở đầu bằng sự kiện
thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” đến khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời là giai đoạn Hồ Chí Minh bổ sung, hoàn thiện các luận
điểm về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tạo thành một hệ thống các luận
điểm có ý nghĩa chiến lược. Tác phẩm “Đường cách mệnh” là tập hợp những
bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện cho các hội viên của “Hội
Việt Nam thanh niên cách mạng” do Người tổ chức. Trong cuốn sách này
Người nêu lên luận điểm về đoàn kết: “Phàm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé,
bất kỳ khó dễ, nếu không gia sức thì chắc không thành công. Việc gì khó cho
mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, cách mạng là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người” [41,
tr.261-262]. Khi khẳng định cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng
nhân dân. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ khối quần chúng cần được tổ chức lại và để

lực lượng cách mạng mạnh hơn nhiều lần thì cần phải có Đảng lãnh đạo. Sự
đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo sẽ làm rõ vai trò vị trí của các giai cấp,
tầng lớp xã hội trong cuộc đấu tranh chung. Theo Nguyễn Ái Quốc “Dân tộc
cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền”. Trong đó công nông là “Gốc”, “chủ” của cách mạng,


18
“còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không
cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông
thôi” [17, tr.206]. Tư tưởng đoàn kết dân tộc đã có tác động to lớn trong việc
tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp yêu nước đấu tranh chống Pháp, góp phần quan
trọng liên kết các cuộc đấu tranh của nông dân, công nhân, nhân dân lao động
nước ta những năm 1925 - 1929 và trở thành tiền đề tư tưởng cho các tổ chức
cộng sản ra đời ở Việt Nam vào những năm 1929, 1930 cần phải nhanh chóng
thống nhất để đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào cứu nước của toàn dân.
2. Thời kỳ chuyển từ tư tưởng đại đoàn kết thành chiến lược đoàn kết
Hồ Chí Minh (từ 1930 đến 1969).
Đầu năm 1930 tại Cửu Long (Hương Cảng - Hồng Kông, Trung Quốc),
Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Một trong
những thành công lớn nhất của hội nghị là đã thảo luận và nhất trí thông qua
các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng,
điều lệ vắn tắt của Đảng, chương trình vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của
Đảng và lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Nội dung của nó về cơ bản đã
chứa đựng chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Cũng bắt đầu từ
đó, tư tưởng chiến lược đoàn kết, đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trở thành
ngọn cờ tập hợp, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội. Từ 1930-1940 chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính thức được đưa vào cương lĩnh của
Đảng, được kiểm chứng bằng lý luận, thực tiễn đã khẳng định tính đúng đắn

của nó. Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về việc thành lập hội phản
đế đồng minh. Chỉ thị chỉ rõ giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng tư sản dân
quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực
lượng thật rộng, thật kín, cuộc cách mạng cũng khó thành công. Như vậy, trên
thực tế lại thừa nhận quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vị trí và mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở


19
thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Tuy vậy những quan điểm đúng
đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vẫn được thể hiện
trong nhiều tài liệu nhiều văn kiện của Đảng. Trong nghị quyết chính trị của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (1935), một trong ba nhiệm vụ chủ
yếu mà Đảng nêu ra đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tập hợp đoàn kết
nhân dân. Đó là “Đảng muốn chỉ huy nổi phong trào, muốn đưa cao trào cách
mạng mới lên trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang lao động, đánh đổ đế quốc,
phong kiến, lập nên chính quyền Xô Viết, thì trước hết phải thâu phục quảng
đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm,
căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời” [2, tr.489-490].
Từ năm 1937 trở đi, hàng trăm cuộc bãi công đã nổ ra, công tác báo
chí, văn học thời kỳ này phát triển mạnh mẽ. Những kết quả trên là thực tế
sinh động chứng tỏ hiệu lực của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh được
thể hiện trong tổ chức và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất.
Từ năm 1941 đến năm 1969 là giai đoạn Hồ Chí Minh trực tiếp cùng
ban chấp hành trung ương Đảng lãnh đạo dân tộc ta tiến hành cuộc đấu tranh
giành và giữ độc lập - tự do, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc trên cơ sở công nông liên minh đưa tới thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám. Sau khi giành lại chính quyền, Đảng và nhân dân ta phải tiến
hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

Đây cũng lài thời kỳ chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh được bổ sung, phát
triển và hoàn thiện trong cách mạng Việt Nam: Về đường lối chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính về xây dựng
Đảng với tư cách là một Đảng cầm quyền; về củng cố và tăng cường đoàn kết
nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đáng chú ý là
trong bài phát biểu cuối cùng (18-7-1969) và trong di chúc đoàn kết được
Người nhắc tới 7 lần. Thậm chí ngay cả những điều mong muốn cuối cùng


20
trong câu cuối cùng của di chúc của Người thì đoàn kết cũng là mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng. toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp
phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt đầy
thử thách đó, chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh tiếp tục được phát huy sức
mạnh trong đời sống cách mạng.










×