Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Quan niệm về con người trong triết học khai sáng Pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

*****






PHẠM THỊ THU HƯƠNG


QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP


CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60. 22. 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn
:
TS. Nguyễn Vũ Hảo










Hà Nội, tháng 11-2007


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG
8
Chương 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TRIẾT HỌC KHAI
SÁNG PHÁP VỀ CON NGƢỜI

8
1.1. Bối cảnh ra đời triết học Khai sáng Pháp về con ngƣời
8
1.2. Những tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành quan niệm về con ngƣời
trong triết học Khai sáng Pháp

16
1.3. Sự ra đời của triết học Khai sáng Pháp
31
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CON
NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP

41
2.1. Những nét khái quát trong quan niệm về con ngƣời của triết học
Khai sáng Pháp


41
2.2. Quan niệm về con ngƣời ở một số triết gia tiêu biểu
48
2.2.1. Quan niệm của Môngtéxkiơ về con ngƣời
48
2.2.2. Con ngƣời trong triết học của Rútxô
58
2.2.3. Quan niệm của Điđrô về con ngƣời
67
2.3. Một số giá trị và hạn chế của quan niệm về con ngƣời trong triết học
Khai sáng Pháp

74
KẾT LUẬN
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85




1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, lịch sử tư tưởng Việt Nam là lịch sử giao lưu tiếp biến giữa
những nền văn hoá lớn với những cơ tầng văn hoá xếp chồng lên nhau. Bởi
lẽ, bản sắc văn hoá là sự tổng hoà của các khuynh hướng cơ bản trong sáng
tạo văn hoá của một dân tộc vốn được hình thành trong mối liên hệ thường

xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư
tưởng trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó. Chính vì vậy,
khi nói đến lịch sử văn hoá Việt Nam, không thể bỏ qua giai đoạn văn hoá
Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây trong đó có văn hoá
Pháp, đặc biệt không thể bỏ qua ảnh hưởng của những tư tưởng triết học
thời kỳ Khai sáng nói chung và tư tưởng triết học về con người với những
tư tưởng về tự do, dân quyền, dân chủ, bác ái nói riêng. Các nhà Khai sáng
Pháp như Môngtéxkiơ, Rútxô, Điđrô , đều là nhà triết học, uyên bác về
nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Thế giới quan của họ có ảnh hưởng lớn
đến Tân văn, Tân thư và tư tưởng Duy tân nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Những tư tưởng đó không chỉ có ý nghĩa trong thời điểm lịch sử,
mà còn có giá trị đối với xã hội và con người hiện nay.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
phát triển toàn diện con người. Phát triển con người là nội dung của giải
phóng con người, giải phóng xã hội khỏi mọi áp bức, bất công. Xây dựng
một xã hội “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”
là tiền đề quan trọng bậc nhất để thực hiện mục tiêu của chiến lược phát
triển toàn diện con người. Từ nhiều năm nay, các nghị quyết của Đảng đều
nhấn mạnh đến vai trò cực kỳ quan trọng của nhân tố con người và chiến
lược xây dựng con người. Cương lĩnh của Đảng ta thông qua tại Đại hội lần
VII (1991) đã khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây

2
dựng là xã hội mà trong đó, con người được giải phóng, nhân dân lao động
làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm
bảo. Đảng ta chủ trương phải đào tạo, xây dựng từng con người vừa có sức
khoẻ tốt, có thể lực, nhất là có trí tuệ và có đạo đức. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ

phát triển văn hoá và xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
là: “xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, có lòng nhân ái khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá.
Để thực hiện tốt chiến lược xây dựng con người, về mặt triết học, bên
cạnh việc đẩy mạnh nghiên cứu triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, thì việc tìm hiểu những tư tưởng triết học về con người trong lịch sử
triết học là một vấn đề hết sức cần thiết. Do vậy, để hiểu đúng, đầy đủ
những quan niệm về con người cũng như giai đoạn văn hoá có ảnh hưởng
sâu sắc đến xã hội và con người Việt Nam thì việc tìm hiểu những tư tưởng
triết học khai sáng Pháp, đặc biệt là những quan niệm về con người trong
triết học thời kỳ này lại càng quan trọng.
Triết học khai sáng Pháp với những tư tưởng mang tư tưởng nhân bản
đã khẳng định giá trị cao quý của con người, sức mạnh sáng tạo vô hạn, ca
ngợi lý tính và lý tưởng cao đẹp của con người. Nó chống lại tư tưởng duy
tâm - tôn giáo là thuyết đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trò thần thánh, hạ
thấp địa vị và vai trò của con người. Nó đòi hỏi con người phải được tự do,
bình đẳng, bác ái; yêu cầu giải phóng cá nhân, nhấn mạnh ý chí, tài năng,
đạo đức Những tư tưởng này đã được xuất hiện từ thời kỳ phục hưng và

3
phát triển trong thời kỳ Khai sáng. Cho đến nay, những tư tưởng cao đẹp
đó vẫn còn nguyên giá trị.
Để nâng cao đạo đức và tư tưởng chính trị cho mỗi người dân, vai trò
của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung và các môn khoa học
Mác - Lênin nói riêng phải được tăng cường. Tuy nhiên trong nhiều năm
qua, việc giảng dạy những môn học trên còn nhiều bất cập và có sự thiên
lệch. Lịch sử triết học, đặc biệt là giai đoạn triết học Khai sáng Pháp chưa

có được vị trí hợp lý. Những công trình nghiên cứu triết học Khai sáng
Pháp nói chung và quan niệm về con người trong thời kỳ này nói riêng còn
ít. Điều này có nghĩa là chúng ta chưa khai thác hết những giá trị nhiều mặt
của triết học khai sáng Pháp. Do vậy, tôi quyết định lựa chọn vấn đề:
“Quan niệm về con người trong triết học Khai sáng Pháp” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề con người và bản chất con người trong lịch sử triết học đã có
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài của luận văn có
thể đưa ra một số công trình, tác phẩm tiêu biểu sau đây.
* Những tư liệu đề cập đến những khía cạnh khác nhau liên quan đến đề
tài:
Cuốn “Lịch sử triết học, Triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa” của
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, đã dành một phần khái quát viết về thời
kỳ triết học khai sáng, trong đó nêu lên những điều kiện, tiền đề hình thành
triết học thời kỳ này. Đồng thời cuốn sách cũng đưa ra những tư tưởng cơ
bản của từng nhà triết học khai sáng.
Cuốn “Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học” do Vũ Minh
Tâm chủ biên, đã đưa ra những quan niệm triết học về con người qua các
thời kỳ lịch sử, trong đó tác giả cũng đã nêu quan niệm triết học về con

4
người trong triết học Khai sáng Pháp. Tuy nhiên các tư tưởng này chỉ được
tác giả đề cập một cách chung chung, chưa đi sâu và phân tích.
Trong bài “Quá trình nghiên cứu phức hợp về con người” Tạp chí triết
học số 4 (1977) của Đặng Xuân Kỳ, đã nêu các quan niệm về con người
trong các giai đoạn lịch sử của triết học phương Tây. Mặt khác, tác giả còn
nêu nên cách thức nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu
trình bày ở khía cạnh phương pháp là chính.
Ngoài ra trên một số Tạp chí Triết học, Tạp chí Cộng sản, tạp chí Giáo

dục lý luận Các tác giả như Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên,
Đặng Hữu Toàn, Phạm Minh Lăng đã có nhiều bài viết với nhiều ý kiến
sâu sắc xoay quanh vấn đề con người và bản chất con người trong lịch sử
triết học. Đương nhiên trong phạm vi của một bài báo, các tác giả không có
điều kiện để trình bầy vấn đề trên và nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện, nhưng những luận giải mà các tác giả đưa ra đã gợi mở được nhiều
vấn đề có thể tiếp tục đi sâu.
* Những tư liệu nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài:
Cuốn “Bàn về tinh thần pháp luật” của Môngtéxkiơ (do Hoàng Thanh
Đạm dịch) đã cung cấp thêm những sự kiện của thời đại Môngtéxkiơ. Quan
trọng hơn là cuốn sách này, đã phác thảo những nét cơ bản về một xã hội
công dân và nhà nước pháp quyền. Trong đó, ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp độc lập với nhau và tương tác lẫn nhau để đảm bảo công
bằng xã hội và phát triển đất nước dưới quyền cai trị của một ông vua sáng.
Thông qua đó, ông đã phân tích rõ nguồn gốc, cũng như quá trình hình
thành của con người từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội.
Cũng vào năm 2004, cuốn “Bàn về khế ước xã hội” cuả Rútxô đã được
Hoàng Thanh Đạm dịch ra tiếng việt. Cuốn sách này đã cung cấp một số tư
tưởng cơ bản của Rútxô về xã hội, vạch ra định hướng xây dựng xã hội
công dân và nhà nước pháp quyền. Thông qua đó Rútxô đã đưa ra quan

5
niệm của mình về con người và các quyền của con người. Mặt khác, ở đây
có thể liên hệ giữa tư tưởng của Môngtéxkiơ trong “Tinh thần pháp luật”
với tư tưởng của Rútxô trong “Khế ước xã hội”.
Năm 2006, Lê Tuấn Huy viết cuốn “Triết học chính trị Montesquieu
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”. Đây là cuốn sách hay
có giá trị trong bối cảnh đất nước hiện nay. Trong đó, tác giả đã đưa ra một
cách rõ ràng nguồn gốc cũng như điều kiện hình thành tư tưởng chính trị,
đồng thời cũng phân tích những tư tưởng chính trị của Môngtéxkiơ.

Nhìn chung, những cuốn sách này, đã nêu nên một số tư tưởng của các
triết gia Khai sáng Pháp tiêu biểu là của Môngtéxkiơ và Rútxô, trong đó có
quan niệm về con người. Tuy nhiên, các nhà triết học chỉ đưa ra một số
phác thảo về con người và những vấn đề xoay quanh con người. Quan niệm
về con người chưa được các ông đưa ra một cách hệ thống.
Tóm lại có thể nói rằng, nhìn tổng quát thì vấn đề con người trong lịch
sử triết học nói chung và triết học Khai sáng Pháp nói riêng đã được các tác
giả đề cập trên nhiều bình diện với những khía cạnh tư tưởng khác nhau.
Tuy nhiên để đánh giá được đúng giá trị quan niệm về con người trong triết
học khai sáng Pháp vẫn cần có những chuyên luận đi sâu kể cả dưới góc độ
lịch sử tư tưởng.
Do vậy, dựa trên những nguồn tài liệu của lịch sử triết học, kế thừa các
công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, luận văn này cố
gắng tìm hiểu, đi sâu và trình bầy một cách có hệ thống quan niệm về con
người trong triết học khai sáng Pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Mục đích của luận văn là làm rõ nội dung cơ bản của quan niệm về
con người trong triết học Khai sáng Pháp qua một số triết gia tiêu biểu, từ
đó chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu của quan niệm này.

6

* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày một cách khái quát bối cảnh xã hội cũng như
những tiền đề lý luận cho sự ra đời quan niệm về con người trong triết học
Khai sáng Pháp.
Thứ hai: Phân tích, trình bày nội dung cơ bản của quan niệm về con

người trong triết học Khai sáng Pháp qua một số triết gia tiêu biểu như
Môngtéxkiơ, Rútxô, Điđrô.
Thứ ba: Phân tích những giá trị và hạn chế của quan niệm về con
người trong nền triết học này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn này, được thực hiện trên cơ sở các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các
phương pháp như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp, diễn
dịch. Mặt khác, luận văn còn sử dụng một số nguyên tắc và phương pháp
nghiên cứu lịch sử triết học trong quá trình nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm về con người trong
triết học Khai sáng Pháp.
* Phạm vi
Quan niệm về con người trong triết học Khai sáng Pháp là đề tài khá
rộng. Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, luận văn chỉ giới hạn ở
những nội dung cơ bản nhất của quan niệm về con người trong triết học
Khai sáng Pháp, đặc biệt hạn chế chủ yếu ở một số triết gia tiêu biểu như
Môngtéxkiơ, Rútxô, Điđrô.

7


6. Cái mới của luận văn
Luận văn có thể coi là cố gắng trình bầy một cách có hệ thống quan
niệm về con người trong triết học Khai sáng Pháp qua các triết gia tiêu
biểu.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong các trường

đại học, cao đẳng trong quá trình học tập các môn học có liên quan đến đề
tài.
Luận văn cũng có thể làm tư liệu tham khảo để các tác giả khác đi sâu
nghiên cứu vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được kết cấu gồm hai chương, sáu tiết.














8

Chƣơng 1
BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TRIẾT HỌC
KHAI SÁNG PHÁP VỀ CON NGƢỜI.
1.1 . Bối cảnh ra đời quan niệm triết học Khai sáng Pháp về con ngƣời.
* Bối cảnh chung Châu Âu
Châu Âu, từ thế kỷ XV, đã có những chuyển biến đáng kể trên các
mặt kinh tế, xã hội, văn hoá, chuẩn bị cho những thay đổi to lớn và sâu sắc

về lịch sử.
Các phát minh kỹ thuật và sự phát triển khoa học đã mở màn cho sự
thay đổi này. Việc sử dụng la bàn, kỹ thuật in và máy in, là những nhân tố
quan trọng được xem như tiền đề cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Nghề dệt bùng nổ, luyện kim trở lên phát đạt, công nghệ theo đó mà
phát triển. Công trường thủ công, hình thức sản xuất mang tính chất tư bản
chủ nghĩa đầu tiên ra đời, thay thế phường hội, tập trung dần năng lực sản
xuất. Công cụ sản xuất nông nghiệp cũng được cải tiến, đất đai canh tác
được mở rộng. Kết quả là phân công lao động, sức sản xuất phát triển lên,
ngành hàng hải tiếp tục bành trướng, sản xuất và trao đổi hàng hoá có
những bước tiến dài, phá vỡ khuân khổ tự cung tự cấp. Những phát hiện địa
lý liên tục diễn ra đem lại một không gian thương mại mới cho cho các
nước Châu Âu trên phạm vi toàn thế giới, càng kích thích sự thông thương,
tăng cường giao lưu văn hoá trên khắp thế giới, tạo điều kiện phát triển hơn
nữa nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Các nước tư bản chủ nghĩa
sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây Ban Nha đẩy mạnh xâm chiếm thuộc
địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước kém phát triển, mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình “Giờ đây lần đầu tiên người ta đã
thật sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho buôn bán quốc tế sau này
và đại công nghiệp hiện đại” [32, 459]. Có nghĩa là, thời kỳ này đã có cơ

9
sở để khẳng định và đề cao vai trò của con người trong sản xuất. Đó cũng
chính là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành quan niệm về con người và bản
chất con người. Mặt khác, nền sản xuất hàng hoá cũng tạo cơ sở cho con
người ý thức được mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng
trở nên mật thiết hơn.
Bên cạnh đó, tình trạng chia cắt kinh tế, chính trị, xã hội chế độ cát cứ
phong kiến đã ngày càng trở thành yếu tố cản trở xu thế phát triển của lịch
sử. Thị dân, giới quý tộc mới và một số tầng lớp khác, những thành phần đã

định hình và tồn tại bởi một nền sản xuất và giao thương rộng mở, ngày
càng lớn mạnh không những về kinh tế mà cả thế lực chính trị, họ ủng hộ
tài lực để phát triển lãnh địa của nhà vua trong cuộc đấu tranh về kinh tế,
chính trị, quân sự với các lãnh chúa quý tộc, thống nhất quốc gia, xây dựng
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Pháp là một trong những quốc
gia thống nhất sớm nhất Châu Âu, hoàn thành vào năm 1491, dưới triều
Charles VIII.
Các cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, đặc biệt ở Anh (1642 -
1648) báo hiệu giờ cáo chung của chế độ phong kiến Châu Âu đã đến. Tính
chất và sự thắng lợi của cách mạng tư sản Anh có ảnh hưởng to lớn tới thế
giới quan của các nhà triết học như Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ Mặc dù cách
mạng Anh chưa triệt để nhưng “Bắt đầu từ đó, giai cấp tư sản trở thành một
bộ phận khiêm tốn nhưng được thừa nhận của các giai cấp thống trị ở Anh”
[33, 444].
Về văn hoá, lý luận cũng diễn ra quá trình chuẩn bị tư tưởng cho
những chuyển biến xã hội. Mở đầu cho tiến trình đó là phong trào phục
hưng, mà nơi xuất phát và cũng là trung tâm chính là ở Italy. Phục hưng đã
trở thành trào lưu văn hoá tư tưởng trong suốt thế kỷ XIV - XV, và đạt cực
thịnh ở thế kỷ XVI. Những giá trị văn hoá, tinh thần, nhân văn cổ đại, kể cả
Cơ đốc giáo sơ kỳ, sau cả mười thế kỷ bị lãng quên nay được phục hồi.

10
Việc “phá hoại” ý thức hệ phong kiến - tôn giáo và việc đề cao tự do của
con người, khôi phục và phát triển những giá trị nhân văn, có thể xem là
hai thành tựu lớn của văn hoá phục hưng.
Bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVI, phong trào cải cách tôn giáo cũng góp
phần tạo dựng một bộ mặt xã hội mới cho Châu Âu, góp phần làm cho liên
minh nhà nước - nhà thờ ngày một lỏng lẻo hơn. Tân giáo Luther và Tân
giáo Calvin ra đời, chủ trương đơn giản hoạt động của giáo hội, đặt niềm
tin vào con người chứ không phải bằng nghi thức tôn giáo bên ngoài, dân

chủ hơn trong cộng đồng tôn giáo, cũng như phóng khoáng hơn trong quan
hệ tôn giáo - xã hội. Với Tân giáo, Cơ đốc giáo đã bị phê phán ngay từ bên
trong, cả về mặt lý luận lẫn mặt thực tiễn.
Xét về toàn bộ và suy đến cùng thì sự xuất hiện của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới những hệ quả tất yếu về mặt xã hội và sự
phát triển khoa học trên những nét cơ bản dưới đây:
Một là: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thoả mãn với
những kiến thức khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy đủ, chưa sâu
sắc, chưa cụ thể đã có từ trước. Người ta không thể dựa vào kinh nghiệm đi
biển thông thường và dùng thuyền gỗ để chuyên chở khối lượng hàng hoá
lớn vượt các đại dương; trái lại cần phải có kỹ thuật đóng tàu mới, có máy
móc mới để sản xuất và trao đổi được nhiều hàng hoá hơn, tăng được nhiều
lợi nhuận hơn cho các nhà kinh doanh. Thực tế đòi hỏi khoa học tự nhiên
như cơ học, toán học, thiên văn học và về sau cả vật lý học, toán học phải
có bước phát triển mới.
Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học nói trên còn là một bộ
phận trực tiếp trong các hệ thống triết học. Đến thời kỳ này, nảy sinh nhu
cầu các ngành khoa học cụ thể tách ra khỏi triết học và trở thành những
khoa học độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết, thật cụ thể
nhằm phát hiện những thuộc tính, những quy luật của vật chất như tính

11
năng, tác dụng, độ bền vật liệu Từ đó xuất hiện một phương pháp mới
trong khoa học tự nhiên - phương pháp thực nghiệm của khoa học trên mức
độ nhất định. Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh
tại, không vận động, biến đổi, không phát triển. Đó là hệ quả của điều kiện
lịch sử phát triển lịch sử khoa học ở thế kỷ XVII - XVIII. Hầu hết các nhà
duy vật Anh, Hà Lan, Pháp ở những thế kỷ này đều chịu ảnh hưởng bởi
phương pháp tư duy siêu hình. Những yếu tố biện chứng đôi khi cũng thấy
xuất hiện ở học thuyết của họ, nhưng xét tổng quát thì họ vẫn là những nhà

triết học duy vật siêu hình.
Hai là: Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy rằng cần phải nắm lấy
chính quyền nhằm phá bỏ cát cứ phong kiến, tạo ra và mở rộng thị trường
thống nhất để tăng lợi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản cùng hệ tư tưởng tư
sản với giai cấp địa chủ phong kiến và hệ thống tư tưởng Cơ đốc giáo ngày
càng sâu sắc.
Mặc dù nhu cầu nắm lấy chính quyền đã thôi thúc giai cấp tư sản,
nhưng vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, giai cấp tư sản này vẫn còn
nhỏ bé về số lượng, chưa đủ sức mạnh về kinh tế và tổ chức chính trị để có
thể lật đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến và hệ thống uy quyền của
nhà thờ Thiên chúa giáo. Thực tế lịch sử đó được phản ánh khá rõ nét trong
các quan điểm triết học của các nhà duy vật thế kỷ XVII, nhất là các quan
điểm triết học về xã hội của họ.
Ba là : Thế kỷ XVII - XVIII là thế kỷ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật
đối với chủ nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với
phương pháp tư duy trừu tượng duy lý thời trung cổ; và sau đó là thắng lợi
của chủ nghĩa vô thần đối với hữu thần. Trong bối cảnh lịch sử như vậy,
triết học Pháp không thể không chịu ảnh hưởng của bối cảnh chung Châu
Âu.

12
Có thể nói, cùng với những biến cố của lịch sử khác, những sự kiện
trên cho thấy; bước sang thời kỳ phục hưng và cận đại, sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế của lịch sử
mà không gì có thể ngăn cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế
độ tư bản là nền tảng thực tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời kỳ phục
hưng và cận đại. Quan niệm về con người thời kỳ này, không chỉ đơn thuần
dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục lại các tư tưởng truyền thống, mà còn
phát triển với những mầu sắc riêng của thời đại lịch sử. Ph. Ănggen nhận

xét: “Từ xưa tới nay nhân loại đã trải qua, đó là một thời đại cần có những
con người khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình cách mạng, khổng
lồ về lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng” [32, 459-460]. Thời
kỳ này, sức mạnh vĩ đại của con người đã được coi trọng, ở Italia đã dấy
lên khẩu hiệu “Con người hãy thời phụng chính bản thân mình”. Hình ảnh
bức tượng “người khổng lồ” (Đavít) của nhà điêu khắc Mikelan Gielo đã
trở thành biểu tượng của con người thời phục hưng và cận đại. Đó là con
người đầy sức sống tự do và hoài bão. Giờ đây không phải quan hệ giữa
Chúa và thế giới mà chính là quan hệ con người và thế giới là vấn đề trung
tâm của triết học.
Ngoài những bối cảnh chung của Châu Âu, tình hình kinh tế, chính trị
của nước Pháp cũng diễn ra nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp.
* Bối cảnh nƣớc Pháp
Vạch rõ tình hình kinh tế ở Pháp cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII,
C.Mác đã viết rằng: Trong thời kỳ ấy, kiến trúc thượng tầng của tài chính,
thương nghiệp và công nghiệp, hay nói đúng hơn, bộ mặt của lâu đài xã hội
là một sự chế giễu đối với tình trạng đình đốn của ngành sản xuất chủ yếu
(nông nghiệp) và đối với tình trạng nghèo đói của những người sản xuất.
Thế kỷ thứ XVII, nước Pháp mới chỉ có những mầm mống của chủ
nghĩa tư bản - bắt đầu có sự phân hoá giầu nghèo trong tầng lớp nông dân,

13
nhưng chưa có những công trường thủ công và một nền thủ công nghiệp
phát triển rộng rãi trong sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chế độ phong kiến với
những đạo luật của nó vẫn giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Đến thế kỷ XVIII, mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản
đã trở nên hết sức gay gắt. Nước Pháp là một nước quân chủ chuyên chế
phong kiến. Nhà vua nắm quyền hành và hầu như không chịu một sự kiểm
soát nào. Vua có quyền quyết định mọi công việc đối nội và đối ngoại, bổ
nhiệm và cách chức các bộ trưởng và nhân viên nhà nước, ban hành và huỷ

bỏ các đạo luật, trừng phạt và ân xá.
Công cụ thống trị của nhà vua gồm có quân đội, cảnh sát và nhà thờ.
Hình tượng duy nhất của nền chuyên chế là nhà tù Ba-xti ở Pari. Đó là một
nhà tù lâu đời và kiên cố dùng để giam người cùng với rắn rết. Nhà thờ
thống trị về mặt tinh thần, lợi dụng ảnh hưởng lớn trong nông dân để thần
thánh hoá nhà vua, khuyên nhủ họ tuyệt đối trung thành với chính thể
chuyên chế.
Tổ chức hành chính trong nước cũng tập trung vào tay nhà vua. Vua
nắm chính quyền trung ương gồm các bộ trưởng và các hội đồng giúp việc.
Vua cử các quan lại thân tín nhất về làm tổng quản có quyền hành rất lớn,
là người thay mặt vua để giải quyết những công việc. Cho nên bọn này
cũng hết sức lộng quyền tha hồ bóc lột quần chúng mà không bị một sự
nghiêm cấm nào. Hầu hết các chức vụ trong bộ máy nhà nước đều được
đem ra mua bán. Người ta chỉ cần bỏ một số tiền là trở thành viên chức và
trên cương vị đó có thể bòn rút của nhân dân những món tiền lớn gấp bội.
Cách tuyển lựa như vậy làm cho nhà nước trở thành một gánh nặng đối với
nhân dân vì tính quan liêu, tham nhũng và bất công của nó. Hơn nữa chế độ
chuyên chế đã duy trì những đạo luật, những nguyên tắc và những tập tục
phong kiến trong các cơ cấu chính quyền, cho nên nó vô cùng phức tạp và
rắc rối. Toàn quốc chia làm nhiều tỉnh nhỏ, mỗi tỉnh chia làm nhiều đơn vị

14
nhỏ hơn. Sự phân chia khu vực đó không dựa trên đặc điểm hoặc yêu cầu
về kinh tế mà thường do những nguyên nhân lịch sử. Phần lớn các tỉnh là
các lãnh địa phong kiến độc lập trước kia, dần dần thống nhất lại trong
vương quốc Pháp. Vì vậy, các tỉnh vẫn duy trì tính chất riêng biệt của nó
với những luật lệ, thuế khoá, giá cả và hệ thống đo lường khác nhau, không
thống nhất. Điều đó gây ra nhiều trở ngại cho việc tổ chức hành chính và
phát triển kinh tế công thương nghiệp.
Sự phát triển công nghiệp Pháp bị kìm hãm bởi những quy tắc điều

chỉnh sản xuất do Nhà nước chuyên chế định ra, bởi chế độ phường hội,
bởi tình trạng cung cấp sức lao động tự do có hạn, bởi các thứ trở ngại về
mặt tiêu thụ và vận chuyển hàng hoá.
Nội thương cũng gặp nhiều khó khăn do chế độ phong kiến gây ra vì
có vô số các loại thuế quan, lại không có tiền tệ thống nhất và cũng không
có những tiêu chuẩn đo lường thống nhất của Nhà nước v.v
Chính vì vậy, ở nước Pháp, giai cấp tư sản và quần chúng lao động
nhận thấy sự cần thiết phải thủ tiêu sự thống trị của giai cấp phong kiến, lật
đổ chế độ phong kiến chuyên chế và cùng với nó xoá bỏ những sự hạn chế
của phường hội, xoá bỏ chế độ thuế quan, chính sách thuế má của chính
quyền nhà vua, đập tan sự thống trị về mặt tinh thần của Giáo hội - nền
tảng tư tưởng và tinh thần của chế độ phong kiến và chế độ quân chủ
chuyên chế.
Đến giữa thế kỷ XVIII, Pháp đã trở thành một nước quân chủ chuyên
chế điển hình ở Tây Âu. Chế độ vương quyền độc đoán là kết quả của
những diễn biến lịch sử đặc thù của quốc gia này. Trải qua cuộc chiến tranh
trăm năm với Anh (1337 - 1452), chiến tranh trong nước giữa các phe Cựu
giáo và phái Calvin (1562 - 1598), và cuộc đấu tranh quyền lực giữa các
phe phái liên miên sau đó đã khiến toàn bộ quyền lực tập trung vào tay vua.

15
Với quyền lực tập trung như vậy, thì vua thường tự cho rằng, ý muốn của
vua chính là luật pháp và quyền lực của vua là do trời ban cho để trị nước.
Ngoài ra, trong xã hội còn có sự phân chia thành những đẳng cấp có
quyền và nghĩa vụ khác nhau, đối lập nhau.
Đẳng cấp thứ nhất, giới tăng lữ là một thành phần xã hội có đặc
quyền, đặc lợi vô hạn. Nhà thờ Cơ đốc giáo ở Pháp, theo nghĩa đen đã gần
như tồn tại với tư cách một nhà nước bên trong nhà nước, và liên tục giữ vị
thế cho đến trước thế kỷ XVIII. Điều này thể hiện ở những “tác vụ” xã hội
của họ như chứng sinh, chứng tử, chứng nhận thành hôn, thu thuế thân, thu

tô từ quyền sở hữu đối với 10 -15% đất đai, làm công việc của một cảnh sát
đạo đức, kiểm duyệt sách vở, cai quản bệnh viện, trường học
Đẳng cấp thứ hai, quý tộc nắm giữ những chức vụ cao trong nhà thờ,
quân đội và nhà nước. Họ thu từ người nông dân không chỉ là tô tức mà
còn là những khoản phí đã trở thành tập quán (phí đánh) muối, bánh mì,
vải, rượu , rồi phí trả bằng lao dịch. Họ sở hữu khoảng 30% đất đai, và
một số trong đó đã tham gia vào hoạt động sản xuất, tài chính, vận tải biển.
Cũng như giới tăng lữ, đẳng cấp này là những người có quyền trực tiếp thu
thuế nhưng lại được miễn trừ trước bất cứ một khoản thuế nào.
Đẳng cấp thứ ba, tư sản, nông dân, thợ thủ công, trí thức chiếm đa số
trong xã hội, lại là những người không có bất kỳ địa vị chính trị xã hội nào.
Trong số họ, tình cảnh của người nông dân là bi đát nhất. Ngoài những
phần đất manh mún và cằn cỗi sở hữu được, họ hầu hết phải thuê lại đất từ
những nông dân giầu có hơn hay của quý tộc, và cùng những khoản quá lớn
để giao nộp là một cuộc sống bần cùng, bị nhiều tầng áp bức.
Trong cơ cấu xã hội đó, thân phận xã hội của con người là tuyệt đối cố
định, từ sự quy định của nhà nước. Địa vị xã hội không đựa trên phẩm chất
và tài năng mà căn cứ trên dòng dõi và thành tích của gia tộc. Mặt khác, địa
vị kinh tế, địa vị xã hội và địa vị của con người trở thành những phạm vi

16
hoàn toàn tách rời nhau và được thể chế hoá. Lực lượng thống trị ở Pháp
khi đó đã được xem là thành phần quý tộc bảo thủ nhất Châu Âu.
Bối cảnh lịch sử như vậy đã là tiền đề cho sự ra đời của triết học Khai
sáng Pháp nói chung và quan niệm về con người nói riêng.
Các nhà triết học Khai sáng luôn mong muốn đem lại cho con người
khả năng phân định đúng, sai trong suy nghĩ và trong hành động, biết cân
nhắc, biết phản tư, bằng cả tri thức và tâm thức, trước những gì tưởng
chừng là tốt đẹp nhất theo những định kiến cố hữu.
Đối tượng khai sáng ở đây không chỉ là những người dân đã “bị uốn

nắn” theo những định kiến, mà là cả những người mà hơn ai hết họ phải
được “sáng” trước tiên - giới cầm quyền.
1.2. Những tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành quan niệm về con ngƣời
trong triết học Khai sáng Pháp.
Triết học Khai sáng Pháp ra đời không phải từ miếng đất trống mà trên
cơ sở tiền đề tư tưởng triết học Tây Âu trước đó.
Trong đời sống học thuật của Tây Âu trước Khai sáng Pháp đã có sự
hợp tác và liên minh giữa khoa học và triết học. Vào thời đại đó, con người
phải có một nền khoa học mới, cần đến một “trật tự” tư duy mới, một trật
tự xã hội mới mà ở đó là nền khoa học vì con người và của con người.
Người Anh đã đi đầu trong lĩnh vực này. Bêcơn sớm đưa ra lập luận cho
rằng việc nghiên cứu khoa học đối với tự nhiên đã bao hàm một điều mà cả
con người và xã hội cũng là đối tượng của sự nghiên cứu đó. Hệ thống các
quy luật tự nhiên của Niutơn (1642 - 1727), dù ông đã rơi vào bế tắc ở
điểm tận cùng của lý lẽ khi viện đến “cái hích của Chúa”, đã là một minh
chứng mạnh mẽ cho nền khoa học mới như vậy. Thêm vào đó, nhận thức
luận duy vật của Lốccơ đã khẳng định rằng, mọi thứ để tồn tại nhờ cái thực
tồn, thì phải kiểm chứng được bằng kinh nghiệm, bằng trải nghiệm thực.
Có quan điểm cho rằng, ba con người vừa kể là những “vị thánh bảo trợ”

17
cho Khai sáng thế kỷ XVIII. Những nhận định như vậy có lẽ còn hơi thiếu
sót vì nếu không có nền tảng của một tinh thần duy lý mà Đêcáctơ và
Spinôza (1632 - 1677) thể hiện trước đó, thì có lẽ thế kỷ XVIII đã không
được mệnh danh là thời đại của lý tính. Chính sự hoà hợp một cách hoàn
toàn tự nhiên giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm, mà các nhà
Khai sáng đã đòi hỏi tất cả , không trừ bất cứ một thứ gì, phải được đặt
trước lý tính, phải chịu sự phán xét của lý tính; tất cả, bất kể là điều gì cũng
phải được minh chứng bằng thực tế, chứ không phải bằng niềm tin mù
quáng và những định kiến phi lý như Ăngghen đã viết: “Những vĩ nhân ở

Pháp đã soi sáng đầu óc mọi người để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp
bùng nổ, chính họ là những người hết sức cách mạng. Họ không thừa nhận
bất kỳ một thứ quyền uy bên ngoài. Tôn giáo, quan niệm về tự nhiên, xã
hội, tổ chức Nhà nước, tất cả đều bị phê phán hết sức nghiêm khắc, tất cả
mọi cái đều phải ra trước toà án của lý tính và chứng minh lý tính tồn tại
hoặc là không tồn tại của mình” [34, 26].
Quan niệm về con người trong triết học khai sáng Pháp không tách
khỏi dòng lịch sử mà nó được hình thành dựa trên sự kế thừa và phát triển
của tư tưởng triết học trước đó về con người. Trong các thời kỳ lịch sử,
quan niệm về con người đã được các nhà triết học đặt ra và giải quyết theo
những cách thức khác nhau trên cơ sở sự kế thừa.
Thứ nhất, triết học Khai sáng Pháp đã kế thừa tư tưởng đề cao con
người từ triết học Hilạp cổ đại. Triết học thời kỳ này, coi vũ trụ vừa là đối
tượng vừa là nội dung nghiên cứu chủ yếu. Định hướng chung của nó trong
việc xác định con người được quy định bởi tư tưởng về tiểu vũ trụ như là
cái phản đại vũ trụ: con người là một bộ phận của vũ trụ bên cạnh những bộ
phận khác của vũ trụ. Thực hiện bước ngoặt triệt để, đưa tư duy người
Hylạp quay lại với con người, Xôcrát kêu gọi: “Con người hãy tự nhận
thức chính bản thân mình”. Lời kêu gọi đó đã thể hiện tư tưởng đề cao con

18
người. Ông đã thu hẹp triết học thành đạo đức học duy tâm - tôn giáo,
thành học thuyết về linh hồn. Theo ông, thánh thần điều khiển thế giới,
sáng tạo ra thế giới và con người nhưng lại hướng mục đích làm lợi cho
con người. Điểm nổi bật nhất là định nghĩa về con người của Aristốt: “Con
người là động vật chính trị (xã hội)”. Triết học cổ đại không đem con người
và thế giới đối lập nhau.
Các nhà triết học Hy Lạp còn cho rằng, các quy tắc trong quan hệ
giữa người với người như các quy luật bắt nguồn từ “bản chất của các sự
vật”. Do vậy họ xem đạo đức như là sự kế tục các quy luật tự nhiên trong

xã hội loài người. Theo quan điểm này thì, các quy tắc đạo đức thực chất là
tính tất yếu của tự nhiên mà con người phải phục tùng, vì trong trường hợp
ngược lại, con người trở thành nguyên nhân của những tai hoạ và những trở
ngại của bản thân mình. Thượng đế trong quan niệm của những nhà triết
học Hylạp không hơn gì sự nhân cách hoá của những quy luật tự nhiên và
bản thân Thượng đế cũng phải phục tùng những quy luật này.
Ở thời trung cổ, điển hình là kinh thánh lại quan niệm khác: con người
không đơn giản là bộ phận của vũ trụ, là đối tượng, sự vật bên cạnh những
đối tượng khác, mà nó hoàn toàn đứng tách biệt, đứng trên mọi sinh thể, vì
nó được tạo ra “theo hình ảnh và sự tương tự của Chúa”. Luận điểm này đã
hết sức đề cao con người theo nghĩa trao cho nó một sứ mệnh và trách
nhiệm đặc biệt. Năng lực tự do thừa nhận ý Chúa sẽ nâng con người lên
một độ cao chưa từng thấy, sẽ đề cao nó so với những sinh thể trần tục.
Con người trở thành trung tâm của thế giới trần tục. Như Tomát Đacanh
quan niệm rằng, giới tự nhiên là do Chúa sáng tạo ra từ hư vô, con người
chỉ là hình ảnh của Chúa và linh hồn bất tử là bản chất của nó. Linh hồn
không tồn tại trước đời sống trần thế, nó được Chúa tạo ra cùng với sự tạo
ra con người.

19
Những yêu cầu về đạo đức của con người được ghi nhận trực tiếp
trong kinh thánh. Việc con người không tuân theo những lời răn của Chúa
có nghĩa là con người có ý muốn vượt lên trên, đứng lên đầu những người
khác, vươn lên ngang hàng với Chúa và chiếm cho mình quyền của Chúa.
Hậu quả sinh ra từ thói kiêu ngạo, ngu dốt của con người được kinh thánh
vạch ra trong câu truyện ngụ ngôn về tội tổ tông.
Có thể nói ở thời kỳ này, các nhà triết học cũng đã đưa ra một hệ
thống những quan điểm về con người, về sự sáng thế của Chúa trời, về tội
tổ tông của con người và sự buộc tội, về sự chăn dắt của Chúa trời đối với
con người, về sự phục sinh sau khi chết ở thế giới bên kia Con người ở

đây không phải là con người hiện thực mà con người ở đây là con người
trừu tượng có nguồn gốc từ Thượng đế, bản chất của con người cũng là cái
có sẵn do Thượng đế ban cho. Nhưng, những tư tưởng này phần nào đã
khẳng định rằng, những quan niệm về con người cũng đã được các nhà triết
học quan tâm và bàn đến, con người cũng có những vị trí quan trọng trong
thế giới. Ở đây, ta cũng phải thấy rõ một điều rằng, có nhiều nhà triết học
cho rằng thời kỳ trung cổ là bước thụt lùi của lịch sử và hầu như không có
đóng góp nhiều trong tiến trình lịch sử triết học. Điều đó không hoàn toàn
đúng, vì thời kỳ phục hưng có liên quan mật thiết với thời kỳ trước đó. Cần
phải xem xét những đặc điểm, đặc trưng của nó trong khuôn khổ một
truyền thống văn hoá mà triết học kinh viện trung cổ cũng thể hiện với tư
cách một bộ phận hữu cơ [23, 284].
Thứ hai, quan niệm về con người của triết học Khai sáng Pháp còn
chịu ảnh hưởng to lớn bởi những tư tưởng nhân văn thời kỳ phục hưng –
thời kỳ được coi là khỏi nguồn của thời kỳ Khai sáng Pháp.
Thời kỳ này, với sự phát triển về nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác,
trong lĩnh vực tư tưởng xuất hiện nhiều nhà triết học tiếp tục xu thế tiến bộ
của thời kỳ trước đó. Một loạt các nhà khoa học đã đứng dậy đấu tranh

20
chống lại sự chuyên chế về tinh thần và giáo hội để dọn đường cho khoa
học và giáo dục phát triển. Như Ăngghen nói, bây giờ khoa học đã vùng
dậy để giành lại vị trí xứng đáng của mình, cái quyền độc lập của mình
thông qua những khối óc tiên tiến nhất, những con người “khổng lồ” về tư
tưởng, về tính cách và tài năng, bất chấp mọi sự truy nã, giam cầm, kể cả
những giàn lửa thiêu người của toà án tôn giáo. Đó là những đại biểu tư
tưởng của một giai cấp mới đã được hình thành trong xã hội phong kiến -
những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những đại biểu của một giai
cấp mới tiêu biểu cho chiều hướng phát triển của lịch sử loài người. Các
nhà triết học thời kỳ phục hưng đã đặt cá nhân con người vào trung tâm thế

giới và thực tiễn cuộc sống của mình, họ ca ngợi sức mạnh và vẻ đẹp của
con người. Con người không còn lấy Thượng đế, mà lấy chính bản thân
con người làm trung tâm. Lêona Đờvanhxi đã phê phán mạnh mẽ những
quan điểm của thần học và giáo hội, đã tìm cách xây dựng hệ thống thế giới
quan khoa học thật sự dựa trên cơ sở kinh nghiệm và thực nghiệm. Ông
khẳng định, con người là vũ khí vĩ đại nhất của tạo hoá, con người dựa trên
những sinh vật tự nhiên có thể tạo ra những sự vật mới phục vụ cho cuộc
sống của mình.
Vấn đề về con người và con người cá nhân và về sự tự do cá nhân đã
trở thành vấn đề được tập trung chú ý và là vấn đề trung tâm của các nhà tư
tưởng tiên tiến thời kỳ này. Những vấn đề đó được triết học Khai sáng
Pháp kế thừa và phát triển thành những tư tưởng về quyền tự do, dân
quyền, dân chủ, bác ái của con người và xã hội. Tuy nhiên, đây là nói đến
những quyền tự do cá nhân, đến sự tôn trọng con người, giải phóng con
người tư sản chứ chưa phải con người lao động, nhưng dù sao đây cũng là
sự tiến bộ rất lớn trong việc nhận thức về con người.
Có thể nói, những tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn thời kỳ phục
hưng đã mở đầu khuynh hướng đề cao con người trong triết học Tây Âu

21
mà triết học Khai sáng Pháp chính là sự phát triển đến đỉnh cao của phong
trào này.
Thứ ba, những quan niệm về con người trong triết học Khai sáng
Pháp còn chịu ảnh hưởng trực tiếp những tư tưởng triết học thời kỳ cận
đại. Thời cận đại, triết học vẫn tiếp tục khuynh hướng của triết học thời kỳ
phục hưng là coi trọng vấn đề con người và giải phóng con người. Ở thời
kỳ này, chủ nghĩa tư bản đã hình thành và bắt đầu thời kỳ cách mạng ở
Châu Âu, khoa học tự nhiên đã khẳng định tính vững chắc của mình, với
chủ nghĩa duy lý dựa trên cơ sở phương pháp so sánh, thực nghiệm, phân
tích Nhiều ngành khoa học tự nhiên đã đi sâu vào nghiên cứu giới tự

nhiên và con người, giải thích thế giới và sự vật hiện tượng có căn cứ khoa
học. Việc tìm thấy kết cấu tế bào, sự lưu thông máu của động vật và
người đã giúp cho việc giải thích con người được rõ ràng hơn. Đối với
vấn đề con người, các nhà tiên tiến thời kỳ này đã nói rất nhiều đến quyền
tự nhiên, những yêu cầu (bản chất) của con người đòi hỏi phải thay đổi
những quan hệ sản xuất cho phù hợp với yêu cầu ấy, không phải Chúa trời
mà khoa học, lý trí của con người cùng với giáo dục mới là những động cơ
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Trong thời kỳ này, những người có ảnh hưởng sâu sắc đối với triết học
khai sáng Pháp trong quan niệm về con người có thể kể đến ở đây là:
Hốpxơ, Lốccơ, Đềcáctơ.
Quan niệm của Hốpxơ về con ngƣời
Hốpxơ quan niệm con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên
và tính xã hội. Về bản tính tự nhiên thì mọi người khi sinh ra đều như nhau.
Ông viết: “Giới tự nhiên đã tạo ra mọi người là như nhau cả về thể xác và
tinh thần. Nhưng sự khác nhau nhất định về thể xác và tinh thần giữa họ
không lớn tới mức để cho bất kỳ người nào dựa trên điều đó để kỳ vọng

22
kiếm lợi được điều gì cho bản thân mình mà những người khác lại không
thể làm được” [52, 282].
Con người ai cũng có những khát vọng, nhu cầu riêng của mình. Và
đây là tiền đề để con người làm điều ác. Mỗi người điều ích kỷ vì quyền lợi
riêng của mình mà có thể chà đạp tất cả. Hốpxơ khẳng định: “Con người là
độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn” [Trích theo 52, 83]. Đây
cũng là điều đẩy loài người tới cuộc chiến tranh liên miên gây bao đau khổ,
chết chóc v.v Mỗi người hành động trước hết là “vì ích kỷ yêu bản thân
mình chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của người khác”
[Trích theo 52, 283]. Công lý và khoa học về pháp quyền, bởi vậy, luôn
luôn bị bác bỏ bởi những ngòi bút và thanh kiếm. Theo nhận xét của

Hốpxơ; “ngay cả một chân lý khẳng định tổng ba góc của một tam giác
bằng hai vuông mà mâu thuẫn với lợi ích của một ai đó đang nắm quyền,
thì tất cả các cuốn sách về hình học cũng sẽ bị đem đốt” [Trích theo 52,
283]. Tóm lại, bản tính tự nhiên của con người là ích kỷ. Trạng thái xã hội
mà con người đang sống là “một cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất
cả”.
Nhưng theo Hốpxơ, “trạng thái tự nhiên” trên đây của con người hiện
nay không còn nữa. Nó tồn tại một cách trọn vẹn ở một thời kỳ lịch sử xa
xưa, khi mà con người còn ở thời kỳ mông muội. Theo Mác quan niệm
này, đã sai lầm ở chỗ coi tính ích kỷ cũng như nhiều tính cách khác nhau
mang tính xã hội của con người là những tính cách thuộc về bẩm sinh của
tạo hoá. Mặc dù, chưa đánh giá đúng mức đặc trưng riêng của loài người so
với loài vật, quan điểm trên đây của Hốpxơ thể hiện lập trường duy danh
của ông, chưa thấy được bản tính xã hội, tính nhân loại của con người. Tuy
nhiên, quan niệm này cũng mang yếu tố hợp lý nhất định. Một mặt, nó cho
thấy sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài vật. Mặt khác, chính lợi
ích cá nhân là một trong những động lực cơ bản trực tiếp của hoạt động con

23
người và phát triển xã hội. Ở điểm này của Hốpxơ, ta thấy có sự tương
đồng trong triết học Khai sáng Pháp, khi các ông cho rằng, nhu cầu của con
người là cái thúc đẩy xã hội phát triển.
Xuất phát từ quan niệm trên đây về trạng thái tự nhiên của con người,
Hốp xơ khẳng định khả năng bẩm sinh của con người là: càng bình đẳng
bao nhiêu thì người ta càng bất hạnh bấy nhiêu, vì cuộc đấu tranh sinh tồn
của mỗi người càng khó khăn và phức tạp. Ai cũng lo sợ cho tính mạng và
cuộc sống của mình bị đe doạ, do vậy cần có một bộ máy để giữi gìn trật tự
xã hội, để mọi người được sống trong hoà bình. Và chính điều đó thúc đẩy
mọi người đi đến ký kết khế ước xã hội, và đây là cơ sở nhà nước xuất
hiện. Tư tưởng này về sau được Rútxô bổ sung như sau: ở giai đoạn đầu

tiên, tức trạng thái tự nhiên, con người sống bên ngoài chỉnh thể xã hội và
do đó có vô số quyền tự do tuyệt đối. Tuy nhiên, ngay lập tức họ đã hiểu
rằng tự do như vậy là không cần thiết và việc tự nguyện hạn chế những kỳ
vọng vô lý của mình là có lợi hơn việc tham gia vào cuộc chiến chống lại
nhau của mọi người. Như vậy thói ích kỷ hợp lý đã thúc đẩy con người đến
việc ký kết khế ước xã hội.
Trong chừng mực nào đó phải thừa nhận rằng, Hốpxơ đã chỉ ra con
người không phải là sinh vật thần thánh, mà cũng chỉ là một sinh vật khác
nên nó cần phải được thoả mãn những nhu cầu sinh vật để sinh tồn và
Hốpxơ cũng đã nhận thấy, không thể xem thường lợi ích cá nhân của con
người, nó là một trong những động lực trực tiếp của hoạt động con người
và phát triển xã hội. Tuy vậy, cái quyết định con người là con người chính
là bản tính xã hội thì Hốpxơ lại không nhận thấy. Ông chịu ảnh hưởng
nhiều của quan niệm tự nhiên trong việc xem xét các hiện tượng xã hội.
Song nó cũng thể hiện xu hướng tư sản tiến bộ trong cuộc đấu tranh đòi
phá bỏ thần quyền và chế độ đẳng cấp phong kiến, đòi mở rộng dân chủ và
tiến bộ xã hội.

×