ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THÙY DƢƠNG
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
Hà Nội - Năm 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THÙY DƢƠNG
Mã số: 60.22.80
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS. Lê Thị Thủy
Hà Nội - Năm 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN VỀ GIA ĐÌNH TRONG TÁC PHẨM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƢ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƢỚC” 7
1.1. Vị trí vấn đề gia đình trong tác phẩm 7
1.1.1. Giới thiệu chung về tác phẩm 7
1.1.2. Những tiền đề xuất phát tƣ tƣởng về gia đình của Ph. Ăng-ghen trong
tác phẩm 13
1.2. Những nội dung cơ bản về vấn đề gia đình trong tác phẩm 20
1.2.1. Nguồn gốc của gia đình 21
1.2.2. Những hình thức gia đình trong lịch sử 25
1.2.3. Sự biến đổi của gia đình trong tƣơng lai 36
Chƣơng 2. Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN VỀ GIA ĐÌNH TRONG
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 45
2.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề gia đình 45
2.2. Xu hƣớng biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 63
2.2.1. Biến đổi về quy mô, kết cấu gia đình 66
2.2.2. Biến đổi về chức năng của gia đình 69
2.2.3. Vị thế, vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia đình đƣợc nâng cao 78
2.3. Vận dụng tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen trong xây dựng gia đình ở Việt Nam
hiện nay 84
2.3.1. Đẩy mạnh việc tạo lập các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội
thuận lợi cho sự phát triển của gia đình 86
2.3.2. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật, chính sách về xây dựng gia
đình 90
2.3.3. Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trong
gia đình và trong xã hội 93
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển xã hội, gia đình có vị trí đặc biệt, bởi gia đình
chính là tế bào của xã hội; từ gia đình, con ngƣời đƣợc sinh ra và trƣởng
thành cả về thể chất và nhân cách. Xã hội và gia đình có tác động qua lại với
nhau; xã hội phát triển tạo điều kiện cho gia đình phát triển; và ngƣợc lại, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Trong bài nói chuyện tại hội nghị cán bộ thảo luận
dự thảo Luật hôn nhân và gia đình, tháng mƣời năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì
xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình” [dẫn theo: 36, tr. 9].
Là một thiết chế xã hội, gia đình luôn vận động, biến đổi, phát triển
dƣới tác động của nhiều yếu tố khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là
trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trƣớc C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong những kiến giải về lịch sử nhân
loại, sự hiểu biết về vấn đề gia đình còn là một khoảng trống lớn. Những quan
niệm về nguồn gốc và sự biến đổi đa dạng và phức tạp của gia đình thƣờng
đƣợc tuyên truyền qua lăng kính tôn giáo, duy tâm, thiếu căn cứ khoa học. Lý
luận khoa học về gia đình chỉ đƣợc xây dựng trên cơ sở những quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đặc biệt, lần đầu tiên đƣợc trình bày nhƣ một
công trình nghiên cứu trong tác phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” do Ph. Ăng-ghen biên soạn, xuất bản lần thứ
nhất năm 1884. Bằng những cứ liệu khoa học, Ph. Ăng-ghen làm sáng tỏ sự
phụ thuộc của sự thay đổi các hình thức gia đình qua các hình thái kinh tế - xã
2
hội trên cơ sở phát triển lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất tƣơng ứng,
vạch ra những mâu thuẫn vốn có của gia đình trong xã hội có giai cấp. Từ đó,
ông chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình, trong
đó tình yêu và hôn nhân là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia đình hạnh phúc,
bền vững.
Sau hai mƣơi lăm năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, đất nƣớc ta đã đạt
đƣợc những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Đồng thời, sự phát
triển của gia đình cũng chính là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát
triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên, vấn đề gia đình hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
trong giai đoạn mới. Một trong những nguyên nhân của tình hình nói trên là do
nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò và sự phát triển của gia đình. Do đó, trên
cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tƣ tƣởng, thì việc bảo vệ lý luận
về gia đình của chủ nghĩa Mác có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ đó
đòi hỏi chúng ta một mặt phải khắc phục những sai lầm trong nhận thức cũng
nhƣ trong hoạt động thực tiễn; mặt khác, phải bổ sung và phát triển lý luận về
gia đình một cách sáng tạo cho phù hợp với điều kiện mới.
Vì những lý do căn bản và quan trọng đó, tác giả chọn: “Vấn đề gia
đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước” với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong hệ thống tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” là một trong những tác phẩm
kinh điển tiêu biểu của chủ nghĩa Mác, đem lại cho khoa học xã hội và nhân
3
văn nguồn tài liệu hết sức phong phú về lịch sử xuất hiện loài ngƣời ở những
giai đoạn phát triển sớm nhất, về các hình thức gia đình qua các hình thái kinh
tế - xã hội, về giai cấp, về nhà nƣớc… Ở Việt Nam, tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” đƣợc Nhà xuất bản Sự thật xuất
bản bằng tiếng Việt thành cuốn sách riêng hoặc trong các bộ Mác - Ăng-ghen
tuyển tập và toàn tập. Đặc biệt, năm 1995, tác phẩm đƣợc Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia Hà Nội ấn hành tại tập 21 trong bộ C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn
tập, gồm 50 tập. Có thể nói, trải qua hơn 100 năm nay, với bao biến đổi của
lịch sử nhƣng giá trị của tác phẩm không hề bị lạc hậu, những quan điểm khoa
học, tƣ tƣởng cách mạng dẫn đƣờng của nó vẫn mang tính thời sự cấp thiết.
Do vậy, tác phẩm đƣợc rất nhiều các nhà khoa học và tổ chức thực tiễn tìm
hiểu và khảo cứu. Chẳng hạn:
Trong cuốn sách “Tìm hiểu tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tƣ hữu và của nhà nƣớc”, tác giả Lê Trọng Ân đã giới thiệu, định hƣớng cho
ngƣời đọc nghiên cứu một cách toàn diện và có kết quả về tác phẩm kinh điển
quan trọng này; hay phần giới thiệu tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” đƣợc in trong Tập bài giảng Giới thiệu tác phẩm
kinh điển triết học Mác - Lê-nin của Khoa Triết học - Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội của tác giả Lƣu Minh Văn giúp cho các
sinh viên, học viên nắm đƣợc những nội dung, tƣ tƣởng, quan điểm và học
thuyết triết học cơ bản trong tác phẩm. Với bài báo “Quan niệm của Ph. Ăng-
ghen về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”” đăng trên Tạp chí Triết học, số 11
(174), ra tháng 11 năm 2005, tác giả Lê Ngọc Anh đã đƣa ra những ý kiến sâu
sắc về một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với cuộc sống thƣờng nhật
của mỗi chúng ta - đó là vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình mà Ph. Ăng-ghen
4
đã tập trung trình bày trong tác phẩm… Các công trình nghiên cứu đó đều đã
tập trung làm rõ những nội dung khoa học triết học chủ yếu của tác phẩm.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn coi trọng vấn đề gia đình, đặc biệt là từ khi
chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên
cơ sở những tƣ tƣởng cơ bản về hôn nhân và gia đình của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, đồng thời có sự vận dụng sáng tạo và phù hợp vào thực tiễn đất nƣớc,
Đảng và Nhà nƣớc ta đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn cho việc thực
hiện quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dân chủ, tiến bộ.
Tuy nhiên, hiện nay, gia đình Việt Nam và những vấn đề gia đình ở
Việt Nam đang đứng trƣớc những thách thức của tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong xu hƣớng toàn cầu hóa. Sự giao
lƣu, mở cửa hội nhập đã đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội. Song,
bên cạnh những mặt tích cực đó, những ảnh hƣởng tiêu cực của cơ chế thị
trƣờng cũng nảy sinh nhiều vấn đề tác động đến đời sống gia đình Việt Nam,
làm cho gia đình Việt Nam gặp phải những khó khăn, sóng gió. Do vậy,
chúng ta cần có sự quan tâm thỏa đáng đến vấn đề gia đình, đề ra các giải
pháp thiết thực phù hợp hơn nữa để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng kinh tế - xã hội, phát triển con ngƣời Việt Nam lên
một tầm cao mới.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả chỉ tìm hiểu tƣ tƣởng
của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” và vận dụng những tƣ tƣởng đó vào
việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay. Các vấn đề, bài viết mà tác giả
5
vừa nêu ra ở trên sẽ đƣợc kế thừa ở một mức độ nhất định khi tác giả thực
hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Tìm hiểu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”, từ đó rút ra ý
nghĩa phƣơng pháp luận đối với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Khảo cứu những vấn đề lý luận về gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”.
Nghiên cứu quá trình phát triển những quan điểm của Đảng và Nhà
nƣớc ta về vấn đề gia đình, chỉ ra xu hƣớng biến đổi của gia đình Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây
dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lê-nin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh và đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
gia đình.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phƣơng pháp phân tích và tổng hợp,
phƣơng pháp lô-gic - lịch sử, phƣơng pháp hệ thống, xã hội học…
6
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”.
- Vận dụng tƣ tƣởng về gia đình của Ph. Ăng-ghen, khảo sát tình hình,
những vấn đề đặt ra, xu hƣớng biến đổi của gia đình Việt Nam dƣới các góc
độ chính trị, kinh tế, xã hội
5.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”.
- Nghiên cứu những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề gia
đình và thực tiễn vận động của gia đình Việt Nam trong hai mƣơi lăm năm
đổi mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những luận điểm, tƣ tƣởng của Ph. Ăng-
ghen về gia đình và thực tiễn xây dựng gia đình ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu Triết học về vấn đề gia đình ở
các trƣờng đại học, cao đẳng, các trƣờng chính trị, các trƣờng phổ thông và
các đối tƣợng khác quan tâm tới đề tài này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chƣơng, 5 tiết.
7
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN VỀ GIA ĐÌNH
TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH,
CỦA CHẾ ĐỘ TƢ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƢỚC”
1.1. Vị trí vấn đề gia đình trong tác phẩm
1.1.1. Giới thiệu chung về tác phẩm
Hoàn cảnh ra đời
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà
nƣớc” đƣợc Ph. Ăng-ghen viết từ cuối tháng ba đến cuối tháng năm năm
1884; đƣợc xuất bản lần đầu tiên vào tháng mƣời năm 1884 tại Đuy-rich
(Thụy Sỹ). Đây là tác phẩm có giá trị đặc biệt, là một trong những tác phẩm
chủ yếu tiếp tục phát triển quan điểm tƣ tƣởng thiên tài của C. Mác: quan
niệm duy vật về lịch sử.
Ph. Ăng-ghen viết tác phẩm này trong giai đoạn 1883 - 1889. Đây có
thể coi là thời kỳ chủ nghĩa tƣ bản đã phát triển ở trình độ cao và đang chuyển
mạnh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đồng thời cũng là thời kỳ giai cấp vô
sản đang cần tập trung lực lƣợng để chuẩn bị cho những cuộc cách mạng sắp
tới; thời kỳ xuất hiện và phát triển chủ nghĩa cơ hội, cải lƣơng và những quan
điểm chống lại chủ nghĩa Mác.
Từ khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen dành mọi sức lực trí tuệ của mình
vào mục tiêu phát triển hơn nữa học thuyết Mác, đấu tranh chống mọi trào lƣu
tƣ tƣởng cơ hội và cải lƣơng, phi mác-xít, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
xã hội khoa học. Một trong những công việc mà Ph. Ăng-ghen tiến hành trong
thời gian này là nhằm mục tiêu nói trên và tiếp tục hoàn thành các công trình
8
lý luận mà C. Mác còn làm dang dở, phổ biến rộng rãi những di sản tƣ tƣởng
của C. Mác trong phong trào công nhân quốc tế.
Vào nửa đầu tháng hai năm 1884, trong khi sắp xếp các tài liệu, giấy tờ
của C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã tìm thấy bản thảo do C. Mác biên soạn trong
những năm 1880 - 1881, tóm tắt tỉ mỉ cuốn sách “Xã hội cổ đại, hay là sự
nghiên cứu những tuyến tiến bộ của loài ngƣời từ mông muội, dã man đến
văn minh” của Luy-xơ H. Moóc-gan, một nhà bác học, nhà dân tộc học, khảo
cổ học, sử học và là nhà nghiên cứu lịch sử xã hội nguyên thủy nổi tiếng,
đồng thời cũng là nhà duy vật tự phát tiến bộ ngƣời Mỹ. Trong đó, C. Mác ghi
chép một cách hết sức cẩn thận, vừa có sự đánh giá, vừa có sự nhận xét các
quan điểm của L.H. Moóc-gan, đồng thời có sự bổ sung những tƣ tƣởng của
mình. Khi biên soạn tóm tắt cuốn sách “Xã hội cổ đại” này, C. Mác dự định
sẽ phát biểu công khai trên báo chí thời đó những nhận xét của mình về cuốn
sách và nhân đó, tiếp tục khẳng định và truyền bá những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử trong học thuyết của mình. Ý định này vì nhiều lý do, C.
Mác chƣa thực hiện đƣợc.
Do vậy, Ph. Ăng-ghen quyết định tiếp tục hoàn thành ý nguyện của C.
Mác là viết một tác phẩm với tính cách là “thực hiện di chúc” của C. Mác qua
bản tóm tắt nói trên.
Khi viết tác phẩm này, Ph. Ăng-ghen sử dụng những nhận xét và đánh
giá trong bản tóm tắt của C. Mác; những tài liệu thực tế và những kết luận
trong cuốn sách của L.H. Moóc-gan, đồng thời cũng dựa trên những tƣ liệu
phong phú do bản thân tự tìm tòi, nghiên cứu để biên soạn cuốn khảo luận về
lịch sử xã hội nguyên thủy và nguồn gốc của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc
trên lập trƣờng của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
9
Cuối tháng ba năm 1884, Ph. Ăng-ghen bắt tay vào viết và đến cuối
tháng năm năm 1884, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu
và của nhà nƣớc” ra đời bao gồm 9 chƣơng. Đầu tháng mƣời năm 1884, tác
phẩm đƣợc xuất bản lần đầu tiên tại Đuy-rích.
Sau đó, tác phẩm đƣợc tái bản lần thứ hai vào năm 1886 và lần thứ ba
vào năm 1889. Và ngay từ thời đó cuốn sách đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng
nhƣ I-ta-li-a, Ru-ma-ni, Đan Mạch, Pháp… Năm 1890, Ph. Ăng-ghen tổng
hợp và tích lũy thêm đƣợc nhiều thành tựu mới về vấn đề này, cho nên Ph.
Ăng-ghen tiến hành sửa đổi nhiều chỗ trong tác phẩm, nhƣng những sửa đổi
này không thay đổi kết luận đã khẳng định mà chỉ bổ sung thêm các dữ liệu
khoa học nhằm chứng minh cho các luận điểm đã đƣợc nêu, đặc biệt chƣơng
về gia đình đƣợc bổ sung nhiều nhất. Tác phẩm đƣợc xuất bản lần thứ tƣ, có
sửa đổi, bổ sung tại thành phố Stút-gát (Đức) vào cuối năm 1891 và từ đó
cuốn sách không có sự sửa đổi nào nữa. Ở lần xuất bản thứ tƣ này, Ph. Ăng-
ghen đã viết Lời tựa mới cho cuốn sách. Lời tựa này đƣợc công bố dƣới hình
thức một bài báo riêng có tên “Về lịch sử gia đình nguyên thủy”.
Khi Ph. Ăng-ghen còn sống, cuốn sách đƣợc tái bản lần thứ năm (năm
1892), lần thứ sáu (năm 1894), theo đúng bản in xuất bản lần thứ tƣ. Sau này,
cuốn sách đã đƣợc in lại nhiều lần bằng tiếng Đức và đƣợc dịch ra nhiều thứ
tiếng khác.
Kết cấu tác phẩm
Tác phẩm gồm hai lời tựa và chín chƣơng. Trong lời tựa viết cho lần
xuất bản thứ nhất, tháng mƣời năm 1884, Ph. Ăng-ghen nêu rõ mục đích của
tác phẩm là hoàn thành nhiệm vụ của C. Mác để lại, dùng tài liệu của L.H.
Moóc-gan để chứng minh quan điểm lịch sử mà hai ông xác lập, đặc biệt
chứng minh cho xã hội nguyên thủy bởi vì theo Ph. Ăng-ghen vấn đề xã hội
10
nguyên thủy chƣa đƣợc cắt nghĩa rõ. Trong lời tựa này Ph. Ăng-ghen khẳng
định một nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử là phải dựa vào cơ sở kinh
tế để luận chứng những vấn đề lịch sử loài ngƣời: “nhân tố quyết định trong
lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhƣng
bản thân sự sản xuất đó lại có hai mặt. Một mặt là sản xuất ra tƣ liệu sinh
hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra
những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con ngƣời, là sự truyền nòi
giống” [5, tr. 44]. Ngoài việc khẳng định công lao của L.H. Moóc-gan, Ph.
Ăng-ghen đồng thời cũng phê phán một số những tác giả đƣơng thời đã sử
dụng tác phẩm của L.H. Moóc-gan nhƣng lại có ý xem thƣờng, chê bai.
Trong lời tựa cho lần xuất bản thứ tƣ năm 1891, Ph.Ăng-ghen giới thiệu
kỹ những cống hiến của những nhà nghiên cứu lịch sử phát triển của gia đình
nhƣ Bắc-hô-phen, Mắc-Len-nan, đồng thời một lần nữa khẳng định công lao
của L.H. Moóc-gan, đặc biệt là quan điểm lịch sử về xã hội nguyên thủy: “Sự
phát hiện mới đó - tức là sự phát hiện ra thị tộc nguyên thủy tổ chức theo chế
độ mẫu quyền, coi đó là giai đoạn đi trƣớc thị tộc theo chế độ phụ quyền ở
các dân tộc văn minh – đối với lịch sử nguyên thủy, cũng có ý nghĩa nhƣ
thuyết tiến hóa của Đác-uyn đối với sinh vật học, và nhƣ lý luận của Mác về
giá trị thặng dƣ đối với khoa kinh tế chính trị” [32, tr. 26]. Trong lời tựa này,
Ph. Ăng-ghen còn nói về cách sử dụng tƣ liệu của L.H. Moóc-gan, nói rõ
những điểm mà Ph. Ăng-ghen tán thành và những hạn chế của L.H. Moóc-
gan cùng những nguyên nhân của những hạn chế ấy.
Ý nghĩa của tác phẩm
Thứ nhất, nghiên cứu tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ
hữu và của nhà nƣớc” của Ph. Ăng-ghen giúp chúng ta có những căn cứ khoa
học để chỉ ra những quan điểm phản khoa học và lỗi thời, xây dựng cho giai
11
cấp công nhân và nhân dân lao động những quan điểm đúng đắn nhằm lật đổ
trật tự tƣ sản, xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng quan hệ sản xuất mới,
xây dựng nhà nƣớc mới - nhà nƣớc của giai cấp công nhân, cũng nhƣ xây
dựng một quan hệ hoàn toàn mới trong gia đình.
Trong tác phẩm kinh điển này, lần đầu tiên, việc giải thích xã hội loài
ngƣời ở các giai đoạn sớm nhất một cách khoa học, trên lập trƣờng của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đã đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Ph. Ăng-ghen
chỉ rõ lịch sử phát triển của gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau; phân tích quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình
hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản
xuất; đặc biệt đã giải thích một cách xác đáng, có căn cứ khoa học nguồn gốc
và bản chất của nhà nƣớc, đồng thời chứng minh tính tất yếu lịch sử của sự
tiêu vong của nhà nƣớc trong xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn sự phân
chia giai cấp.
Thứ hai, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của
nhà nƣớc” đã bổ sung, làm phong phú những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Tác phẩm đã chỉ ra rằng, cuộc cách mạng vô sản tất yếu sẽ xảy ra trên
cơ sở sức sản xuất trong lòng chế độ tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển cao. Cuộc
cách mạng vô sản sẽ xóa bỏ quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đang là vật cản
sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, xóa bỏ chế độ tƣ hữu và sự phân chia
giai cấp trong xã hội. Cuộc cách mạng vô sản là cuộc cách mạng thực sự giải
phóng con ngƣời, xây dựng xã hội mới bình đẳng và bác ái.
Về những điều kiện kinh tế xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, tác phẩm đã cho chúng ta thấy rõ vai trò của sản xuất trong
tiến trình phát triển xã hội nói chung, xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ
12
nghĩa nói riêng; vai trò của việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ
nghĩa xã hội; vai trò của công nghiệp hóa đối với toàn bộ nền kinh tế và đời
sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tác phẩm giúp chúng ta xây dựng
những quan điểm đúng đắn về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong chủ nghĩa
xã hội, không những thế, tác phẩm còn giúp chúng ta xây dựng những quan
điểm đạo đức mới về lao động, về bình đẳng, bác ái giữa các dân tộc; xây
dựng quan điểm đúng đắn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng
đƣợc tình cảm cách mạng, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân.
Thứ ba, đọc tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và
của nhà nƣớc” chúng ta học tập đƣợc một mẫu mực về phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học. Ph. Ăng-ghen đã kết hợp nhuần nhuyễn phƣơng pháp lô-gích
với phƣơng pháp lịch sử, sử dụng tài liệu một cách chính xác để dựng lại hết
sức tài tình, sinh động quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời qua các thời
đại trên cơ sở của sự phát triển của sản xuất.
Ph. Ăng-ghen còn cho chúng ta một mẫu mực về thái độ khách quan
trong nghiên cứu khoa học. Đó là sự trân trọng đối với thành quả của các nhà
khoa học đƣơng thời (nhƣ Bắc-hô-phen, Mắc-Len-nan, L.H. Moóc-gan…),
tiếp thu có phê phán những kết quả của họ.
Cũng nhƣ C. Mác, Ph. Ăng-ghen không bao giờ coi những quan điểm lý
luận của mình là tuyệt đích, là hoàn hảo. Khi có những phát hiện mới về khoa
học, ông đã nghiên cứu nghiêm túc và không ngần ngại bổ sung và sửa chữa
những thiếu sót của mình. Đó là một mẫu mực về đạo đức của ngƣời làm
công tác khoa học. Ph. Ăng-ghen viết: “Từ lần xuất bản đầu tiên đến nay, bảy
năm đã qua rồi; trong thời gian đó việc nghiên cứu các hình thức nguyên thủy
của gia đình đã đạt đƣợc những thành tựu lớn. Vì vậy, ở đây cần phải sửa lại
13
và bổ sung một cách cẩn thận, nhất là việc dự định đúc khuôn chữ các trang
sách này sẽ không cho phép tôi sửa đổi gì đƣợc nữa trong một thời gian” [32,
tr. 9].
Trong giai đoạn hiện nay, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tƣ hữu và của nhà nƣớc” vẫn là một tài liệu quý đối với chúng ta. Nó khẳng
định con đƣờng phát triển tất yếu của lịch sử là: chế độ mới - chế độ xã hội chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa văn minh nhất định sẽ đƣợc thiết lập, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp giải phóng loài ngƣời, phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử, xây dựng lòng tin vào sự tất thắng của sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc
ta do Đảng ta lãnh đạo. Đúng nhƣ Lê-nin đã khẳng định: Tác phẩm này là
“cuốn sách gối đầu giƣờng” của những ngƣời cộng sản giác ngộ.
1.1.2. Những tiền đề xuất phát tư tưởng về gia đình của Ph. Ăng-
ghen trong tác phẩm
Một trong những vấn đề vô cùng quan trọng mà Ph. Ăng-ghen dành tác
phẩm của mình để bàn đến là lịch sử của gia đình, vị trí và vai trò của nó trong
đời sống xã hội. Những vấn đề lý luận về gia đình đó đƣợc Ph. Ăng-ghen trình
bày tập trung trong chƣơng 2 của tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”. Ph. Ăng-ghen đi sâu vào thời kỳ thơ ấu của loài
ngƣời, ông giải thích một thời kì lịch sử mà trƣớc đó chƣa ai có thể lý giải
đƣợc, thông qua nghiên cứu lịch sử của các hình thức gia đình, Ph. Ăng-ghen
cho thấy quá trình đấu tranh của con ngƣời thoát khỏi giới động vật, ông vẽ lên
một bức tranh về sinh hoạt của con ngƣời trong xã hội nguyên thủy.
Theo Ph. Ăng-ghen, cùng với sự phát triển của sản xuất, gia đình cùng
các hình thức tổ chức của gia đình là những nhân tố có tác dụng quyết định
đối với sự phát triển của loài ngƣời. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài ngƣời
hay còn gọi là xã hội nguyên thủy ban đầu, quan hệ gia đình là quan hệ xã hội
14
duy nhất, đầu tiên. Chỉ đến khi chế độ tƣ hữu ra đời thì chế độ gia đình mới bị
chi phối. Vì vậy, để hiểu xã hội nguyên thủy, phải nghiên cứu gia đình và các
hình thức tổ chức gia đình trong lịch sử.
Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ sự vận động, phát triển của các hình thức tổ
chức gia đình là do sự phát triển các quy luật khách quan, nhƣng xét đến cùng
là do yếu tố kinh tế, do trình độ phát triển của sản xuất quyết định.
Những tƣ tƣởng về gia đình đó của Ph. Ăng-ghen có giá trị vô cùng
quan trọng trong việc vạch trần những quan điểm phản khoa học và lỗi thời về
gia đình thời kỳ bấy giờ. Bởi, cho đến giữa thế kỷ XIX, khoa học chƣa có đủ
những điều kiện để giải thích đƣợc giai đoạn tiền sử của thời đại văn minh;
và, ngay cả đến những năm 60 của thế kỷ này, những công trình khoa học
nghiên cứu về lịch sử gia đình chƣa có những quan điểm, nhận thức đúng đắn,
khoa học về vấn đề gia đình. Lúc này, ngƣời ta lấy phạm trù “gia đình gia
trƣởng” làm phạm trù xuất phát. Họ coi đó là hình thức gia đình cổ xƣa nhất
của sự phát triển xã hội, lịch sử loài ngƣời và đƣợc đồng nhất với gia đình tƣ
sản ngày nay - trừ chế độ nhiều vợ, do đó gia đình hình nhƣ không trải qua sự
phát triển lịch sử nào cả. Tuy nhiên, quan điểm này không thể giải thích đƣợc
nhiều hiện tƣợng liên quan đến thời kỳ nguyên thủy, chẳng hạn chế độ nhiều
vợ ở phƣơng Đông và chế độ nhiều chồng ở Ấn Độ và Tây Tạng. Theo đó,
giai cấp tƣ sản tuyên truyền rằng gia đình tƣ sản là hình thức gia đình vốn có
từ khi có xã hội loài ngƣời và đó là gia đình bình đẳng, hạnh phúc, tự do và sẽ
tồn tại mãi mãi [xin xem: 10, tr. 155].
Trong những thập niên 60, 70 của thế kỷ XIX, hàng loạt những công bố
mới, dồn dập về xã hội học thời nguyên thủy đã cung cấp nhiều tài liệu khoa
học về thời kỳ nguyên thủy của loài ngƣời trên cơ sở cái nhìn duy vật tự phát
về sự phát triển của nhân loại. Những công trình nghiên cứu đó là những cứ
15
liệu quan trọng để Ph. Ăng-ghen hoàn thành cuốn sách “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”. Và đồng thời đó cũng chính là
những căn cứ, tiền đề xuất phát tƣ tƣởng về gia đình của Ph. Ăng-ghen. Do
vậy, có thể nói, trong tác phẩm này Ph. Ăng-ghen đã hoàn chỉnh học thuyết
duy vật của chủ nghĩa Mác về lịch sử.
Theo Ph. Ăng-ghen, việc nghiên cứu lịch sử gia đình chỉ thực sự có từ
năm 1861 khi Bắc-hô-phen xuất bản cuốn “Mẫu quyền”. Trong đó, ông đã
kiến giải lịch sử thông qua xem xét sự tiến triển của hình thức hôn nhân: tạp
hôn - huyết thống đƣợc xác định theo mẹ - gia đình cá thể theo các luận điểm
sau: “1. Loài ngƣời thoạt tiên sống trong những quan hệ tính giao bừa bãi mà
tác giả gọi bằng một danh từ không thỏa đáng là “tạp hôn”; 2. Những quan hệ
nhƣ thế làm cho không thể nào biết đƣợc chắc chắn ai là cha đẻ, nên huyết tộc
chỉ có thể tính theo nữ hệ, - theo mẫu quyền, - và tất cả các dân tộc cổ đại lúc
đầu tiên đều ở trong tình trạng nhƣ thế; 3. Vì vậy, những ngƣời đàn bà, với tƣ
cách là mẹ, tức là ngƣời duy nhất chắc chắn đã sinh ra thế hệ trẻ, đã đƣợc tôn
kính và có uy tín đến cao độ; theo ý kiến của Bắc-hô-phen, thì sự tôn kính và
uy tín đó đạt đến mức trở thành sự thống trị hoàn toàn của nữ giới
(gynécocratie); 4. Bƣớc chuyển sang chế độ hôn nhân cá thể, tức là chế độ mà
ngƣời đàn bà chỉ thuộc về một ngƣời đàn ông thôi, - đã chứa chấp trong nó sự
vi phạm điều răn tôn giáo của thời cổ (tức là sự vi phạm, trên thực tế, quyền
cổ truyền của những ngƣời đàn ông khác đối với ngƣời đàn bà này), vi phạm
nhƣ thế ắt phải bị trừng phạt, hoặc nếu muốn đƣợc tha thứ thì ngƣời đàn bà
phải chuộc tội bằng cách hiến thân cho nhiều ngƣời khác trong một thời gian
nhất định” [32, tr. 12].
Ph. Ăng-ghen đánh giá những quan điểm của Bắc-hô-phen về lịch sử
gia đình mặc dù chƣa thoát khỏi thế giới quan thần bí, nhƣng vào thời điểm
16
đó đã là một cuộc cách mạng trong cách nhìn về lịch sử. Theo Bắc-hô-phen,
không phải sự phát triển của những điều kiện sinh hoạt hiện thực của con
ngƣời, mà chính sự phản ánh có tính tôn giáo của những điều kiện ấy vào
trong đầu óc con ngƣời, đã gây ra những biến đổi lịch sử trong địa vị xã hội
giữa hai giới. Bắc-hô-phen đã tìm ra những bằng chứng cho quan điểm đó
trong vô số đoạn trong văn học cổ điển thời cổ mà ông đã tập hợp lại một
cách hết sức công phu. Ông tin rằng cuộc đấu tranh giữa chế độ mẫu quyền
đang suy tàn với chế độ phụ quyền mới xuất hiện và đang thắng thế - tại Hy
Lạp, trong thời đại anh hùng là kì tích của các vị thần. Chính vì vậy, Bắc-hô-
phen đã bị thế giới quan thần bí cản trở khi ông giải thích những vấn đề xã
hội. Tuy nhiên, những quan niệm mới mẻ về lịch sử gia đình của Bắc-hô-phen
chính là một trong những tiền đề quan trọng của tƣ tƣởng về gia đình của Ph.
Ăng-ghen trong tác phẩm. Với tƣ cách là ngƣời tiên phong, Bắc-hô-phen đã
chỉ ra sự tồn tại phổ biến của chế độ nhiều vợ nhiều chồng ở Hy Lạp và châu
Á trƣớc khi xuất hiện gia đình cá thể. Đồng thời, Bắc-hô-phen đã khẳng định
sự thống trị của ngƣời phụ nữ ở giai đoạn tiền sử, mà kể từ đó trở đi họ không
bao giờ có đƣợc nữa.
Ngƣời kế tục trực tiếp Bắc-hô-phen là một nhà khoa học ngƣời Anh -
Mắc-Len-nan. Những tƣ tƣởng của Mắc-Len-nan cũng là một trong những
tiền đề quan trọng xây dựng tƣ tƣởng về gia đình của Ph. Ăng-ghen trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”. Tuy
nhiên, ông là ngƣời đối lập hoàn toàn với Bắc-hô-phen. Bởi những tƣ tƣởng
của ông cho thấy, thay cho một nhà thần bí thiên tài Bắc-hô-phen, là một luật
gia khô khan; và do đó, thay cho trí tƣởng tƣợng dồi dào của một thi sĩ, là
những lí lẽ khôn khéo của một luật sƣ bào chữa. Ba tác phẩm lớn của Mắc-
Len-nan trong giai đoạn này là “Nhân chủng học mô tả, 1859”, “Hôn nhân
nguyên thủy, 1876”, “Nghiên cứu lịch sử cổ đại, 1880”, đã đánh dấu một
17
bƣớc tiến nữa trong việc khẳng định sự tồn tại của chế độ mẫu quyền [xin
xem: 10, tr. 155].
Khi nghiên cứu xã hội nguyên thủy, Mắc-Len-nan thấy ở nhiều dân tộc
mông muội, dã man và cả văn minh, ở cả thời cổ đại và hiện đại, có một hình
thức kết hôn; trong đó chú rể, một mình hay cùng bạn bè, phải giả vờ cƣớp
lấy cô dâu từ tay những ngƣời họ hàng của cô ta. Đó chính là một di tích của
tục hôn nhân cƣớp đoạt trƣớc đây. Mắc-Len-nan đã lý giải tục lệ xa xôi đó là
do sự đối lập gay gắt giữa một số tập đoàn cấm kết hôn trong nội bộ, nên
ngƣời ta buộc phải dựng vợ gả chồng ở ngoài tập đoàn đó; trong khi một số
tập đoàn khác lại chỉ cho phép kết hôn trong nội bộ. Và ông gọi loại tập đoàn
thứ nhất là “ngoại hôn”, loại thứ hai là “nội hôn”. Theo đó, các bộ lạc ngoại
hôn chỉ có thể lấy vợ ở bên ngoài; và trong tình trạng chiến tranh liên miên
của thời mông muội, thì chỉ có thể lấy vợ bằng cách cƣớp đoạt. Để tìm ra
nguồn gốc của tục ngoại hôn, Mắc-Len-nan đã nghiên cứu một tục lệ phổ biến
khác ở các dân mông muội là giết những bé gái sơ sinh. Nó dẫn đến việc thừa
đàn ông trong mỗi bộ lạc; hậu quả là nhiều đàn ông phải lấy chung một vợ: đó
là chế độ nhiều chồng. Hậu quả tiếp theo là ngƣời ta chỉ biết mẹ chứ không
biết cha đứa bé, do đó huyết tộc chỉ tính đƣợc theo nữ hệ: đó là chế độ mẫu
quyền. Hậu quả tiếp theo của việc thiếu đàn bà mà chế độ nhiều chồng chỉ có
thể giảm bớt nó là việc thƣờng xuyên cƣớp đoạt đàn bà của các bộ lạc khác.
Do vậy, công lao của Mắc-Len-nan là chỉ rõ tính phổ biến và ý nghĩa to lớn
của chế độ ngoại hôn, dù ông không phát hiện ra đƣợc sự tồn tại, vận động và
phát triển của chế độ đó. Nhƣng đây là một quan niệm tiến bộ về gia đình. Nó
chỉ ra sự tiến hóa của giống nòi theo quy luật đào thải tự nhiên: đó là những
ngƣời cùng huyết thống không đƣợc thực hiện hôn nhân. Một công lao khác
của Mắc-Len-nan là thừa nhận sự tồn tại trƣớc tiên của chế độ huyết tộc mẫu
hệ. Tuy nhiên hạn chế của ông là luôn thừa nhận “quan hệ huyết tộc chỉ về nữ
18
hệ” ngay cả ở giai đoạn phát triển sau này, khi mà quan hệ huyết tộc theo nam
hệ cũng đƣợc xác định và thừa nhận [xin xem: 32, tr. 17-22].
Bằng những nghiên cứu của mình, Mắc-Len-nan đƣợc xem nhƣ nhà
sáng lập ra ngành lịch sử gia đình, và là ngƣời có uy tín bậc nhất về lĩnh vực
đó ở Anh. Nhƣng sự phát triển của xã hội cho thấy nhiều sự kiện không phù
hợp với khuôn khổ thuyết của Mắc-Len-nan. Khi mà ông chỉ biết đến ba hình
thức hôn nhân: nhiều vợ, nhiều chồng và cá thể; cũng nhƣ quan điểm về sự
đối lập hoàn toàn sai lầm về những “bộ lạc” ngoại hôn và nội hôn của ông đã
gây hại nhiều hơn là làm lợi.
Những lý thuyết ấy của Mắc-Len-nan đã bị phá hủy hoàn toàn trƣớc
tác phẩm “Xã hội cổ đại” của nhà khoa học ngƣời Mỹ - L.H. Moóc-gan xuất
bản vào năm 1877. Tác phẩm “Xã hội cổ đại” của L.H. Moóc-gan chính là
cơ sở cho tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà
nƣớc” của Ph. Ăng-ghen. Đặc biệt, những quan điểm của L.H. Moóc-gan
trong tác phẩm này chính là tiền đề xuất phát trực tiếp tƣ tƣởng về gia đình
của Ph. Ăng-ghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ
hữu và của nhà nƣớc”.
Với tác phẩm chủ chốt của mình, L.H. Moóc-gan đã chỉ ra không có
mâu thuẫn nào giữa nội hôn và ngoại hôn cả, và cho đến nay thì sự tồn tại của
các “bộ lạc” ngoại hôn vẫn không đƣợc chứng minh ở bất kỳ đâu. Ở thời mà
chế độ quần hôn còn thịnh hành thì bộ lạc đã đƣợc chia thành các tập đoàn
huyết tộc mẫu hệ, tức là thành các thị tộc; trong thị tộc, ngƣời ta tuyệt đối cấm
kết hôn nội bộ, nên ngƣời đàn ông dù có thể lấy vợ trong cùng bộ lạc, lại bị
buộc phải lấy vợ ở thị tộc khác. Nhƣ vậy, đối với thị tộc thì quan hệ hôn nhân
diễn ra theo chế độ ngoại hôn, còn đối với bộ lạc thì quan hệ hôn nhân lại diễn
ra theo chế độ nội hôn.
19
Không chỉ dừng lại ở đó, nhờ có thị tộc của ngƣời In-di-an châu Mỹ,
vốn đƣợc tổ chức theo chế độ mẫu quyền, L.H. Moóc-gan đã phát hiện ra hình
thức nguyên thủy của thị tộc; nó đã phát triển thành những thị tộc mới, đƣợc
tổ chức theo chế độ phụ quyền, là các thị tộc mà ta gặp ở các dân tộc văn
minh thời cổ đại. Sự phát hiện lại thị tộc mẫu quyền nguyên thủy, trong thời
kì trƣớc khi có thị tộc phụ quyền ở các dân tộc văn minh, có ý nghĩa vĩ đại đối
với nhân loại học. Nó cho phép L.H. Moóc-gan phác ra, lần đầu tiên, lịch sử
của gia đình; và từ đó, các giai đoạn phát triển điển hình của gia đình cũng
đƣợc xác định. Điều này đã mở ra một thời đại mới trong nghiên cứu lịch sử
nguyên thủy. Do đó, theo Ph. Ăng-ghen, từ khi có cuốn “Xã hội cổ đại”,
những bƣớc tiến trên lĩnh vực đó đã diễn ra nhanh hơn nhiều [xin xem: 32, tr.
25-26].
Mặc dù Ph. Ăng-ghen không trực tiếp đọc tác phẩm “Xã hội cổ đại” của
L.H. Moóc-gan, nhƣng ông đã có trong tay tập bút ký đƣợc ghi chép một cách
hết sức cẩn thận của C. Mác về tác phẩm đó. Do vậy, Ph. Ăng-ghen thấy rằng,
quan điểm duy vật của L.H. Moóc-gan về xã hội nguyên thủy có nhiều điểm
tƣơng đồng với chủ nghĩa duy vật của C. Mác.
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến
cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nó bao gồm quá trình
sản xuất vật chất và sản xuất ra con ngƣời. Đồng thời, quá trình phát triển của
lao động và trình độ phát triển của gia đình có ảnh hƣởng, chi phối, quy định
sự phát triển của một hình thái xã hội nhất định. Khi sản xuất vật chất ở trình
độ thấp kém thì quan hệ gia đình sẽ ảnh hƣởng và chi phối rất lớn đến xã hội.
Tuy nhiên, năng suất lao động ngày càng phát triển lên, xuất hiện chế độ tƣ
hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa đƣợc, sẽ dẫn đến một xã hội
20
mới đƣợc thay thế xã hội cũ không còn thích ứng với những điều kiện mới.
Lúc này, chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối.
Ph. Ăng-ghen đánh giá công lao vĩ đại của L.H. Moóc-gan là đã phát
hiện và khôi phục lịch sử phát triển của gia đình. Điều đó có ý nghĩa rất lớn
trong việc nghiên cứu sự phát triển của lịch sử nhân loại.
Ngoài ra, khi viết tác phẩm và nhận thấy việc chỉ dựa vào những tài liệu
của L.H. Moóc-gan là không đủ, Ph. Ăng-ghen đã sử dụng cả những công
trình nghiên cứu của các nhà bác học khác, sử dụng rộng rãi những tác phẩm
văn học nghệ thuật cổ đại, đặc biệt là những trƣờng ca của Hô-me, những tác
phẩm của sáng tác dân gian. Khi bổ sung để hoàn chỉnh tác phẩm cho lần xuất
bản thứ tƣ năm 1891, Ph. Ăng-ghen còn sử dụng cả công trình nghiên cứu về
lịch sử chế độ công xã nguyên thủy, về sự phát sinh và phát triển của gia đình
và chế độ tƣ hữu của nhà bác học ngƣời Nga M.M. Cô-va-lép-xki. Nhờ đó,
Ph. Ăng-ghen đã chứng minh đƣợc rằng: “công xã gia đình gia trƣởng ở các
dân tộc Xla-vơ và các dân tộc phƣơng Đông đã tạo thành một bƣớc quá độ từ
gia đình do chế độ quần hôn đẻ ra và dựa trên chế độ mẫu quyền, tới gia đình
cá thể hiện đại” [9, tr. 216].
Trên cơ sở những tƣ liệu của Bắc-hô-phen, Mắc-Len-nan, và đặc biệt là
những quan điểm duy vật của L.H. Moóc-gan về gia đình, đồng thời bổ sung
chúng bằng những tƣ liệu mới, sử dụng những nhận xét phê phán và những ý
kiến của C. Mác trong bản ghi chép và những tài liệu của riêng mình về lịch
sử nhân loại, Ph. Ăng-ghen đã đƣa ra những tƣ tƣởng duy vật biện chứng về
gia đình khi xem xét lịch sử hình thành và phát triển, cũng nhƣ vị trí và vai trò
của gia đình trong đời sống xã hội.
21
1.2. Những nội dung cơ bản về vấn đề gia đình trong tác phẩm
1.2.1. Nguồn gốc của gia đình
Căn cứ vào những tài liệu thực tế của L.H. Moóc-gan, Ph. Ăng-ghen đã
phân tích sự phát triển của các loại hình gia đình trên cơ sở quan điểm duy vật
biện chứng về lịch sử đó là sự biến đổi các hình thức gia đình phụ thuộc vào
sự biến đổi của trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Từ đó, Ph. Ăng-
ghen đƣa ra những quan điểm khoa học, đúng đắn nhất, hoàn thiện nhất về
nguồn gốc của gia đình.
Những tài liệu của L.H. Moóc-gan cho thấy ông sống phần lớn cuộc đời
mình với những ngƣời I-rô-qua và ông đã nhận thấy những ngƣời I-rô-qua có
một hệ thống thân tộc mâu thuẫn với những hình thức gia đình thực tế của họ.
Ở ngƣời I-rô-qua, đang thịnh hành hình thức hôn nhân đối ngẫu, mà L.H.
Moóc-gan gọi là “gia đình cặp đôi”. Ở đó, đôi bên có thể dễ dàng ly hôn và vị
trí của bố mẹ, con cái… đƣợc xác định rất rõ ràng. Nhƣng trong thực tế, những
quan hệ huyết thống đang tồn tại của họ lại không tƣơng xứng. Cụ thể là:
“Ngƣời đàn ông I-rô-qua không phải chỉ gọi con của mình mà còn gọi cả con
của anh em trai mình là con trai, con gái, và con của anh em trai ngƣời đó cũng
lại gọi ngƣời đó là cha. Nhƣng ngƣời đó lại gọi con của chị mình, em gái mình
là cháu trai và cháu gái; và những ngƣời cháu này gọi ngƣời đó là cậu. Ngƣợc
trở lại, ngƣời đàn bà I-rô-qua không những gọi con mình, mà còn gọi cả con
của chị mình, em gái mình là con trai, con gái,… Con của những ngƣời anh em
trai với nhau gọi là anh em và chị em, con của những chị em gái với nhau cũng
gọi nhau nhƣ thế. Ngƣợc lại, con của một ngƣời đàn bà và con của anh em trai
ngƣời đàn bà đó gọi nhau là anh em họ và chị em họ” [5, tr. 55].
22
Những quan niệm đó đƣợc dùng làm cơ sở cho một hệ thống họ hàng
đã hoàn toàn đƣợc xác định, có thể biểu thị hàng trăm mối quan hệ họ hàng
khác nhau của một cá nhân. Hơn nữa, hệ thống họ hàng này còn chi phối
trong những thổ dân cổ xƣa của Ấn Độ, cũng nhƣ trong những bộ lạc ở nhiều
nơi. Và ở đó, những quan hệ họ hàng do hình thức gia đình hiện hành sản sinh
ra, đều trái ngƣợc với hệ thống họ hàng.
Những hệ thống họ hàng và những hình thức gia đình nêu trên khác với
những hệ thống và hình thức thịnh hành ngày nay ở chỗ là mỗi ngƣời con đều
có nhiều cha nhiều mẹ. Điều này cho thấy còn có một hình thức gia đình cổ
xƣa hơn nữa, hình thức gia đình mà hiện nay chúng ta không thể tìm thấy ở
một nơi nào nữa, nhƣng nhất định nó đã tồn tại, vì nếu không thế thì hệ thống
họ hàng phù hợp với hình thức gia đình đó không thể nảy sinh đƣợc.
Giải thích về hệ thống họ hàng mâu thuẫn với những quan hệ gia đình
thực tế của thời kỳ tiền sử, Ph. Ăng-ghen đã dẫn lời L.H. Moóc-gan nói: “Gia
đình là một yếu tố năng động; nó không bao giờ đứng nguyên ở một chỗ, mà
chuyển từ một hình thức thấp lên một hình thức cao, khi xã hội phát triển từ
một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao. Trái lại, những hệ thống họ hàng thì
thụ động; chỉ có trải qua những thời kỳ lâu dài, những hệ thống đó mới phản
ánh đƣợc những tiến bộ do gia đình đã đạt đƣợc trong những thời kỳ đó, và
chỉ khi nào gia đình đã hoàn toàn thay đổi thì những hệ thống ấy mới hoàn
toàn thay đổi” [5, tr. 57]. Đây là một kết luận vô cùng quan trọng trong việc
bác bỏ quan điểm của giai cấp tƣ sản cho rằng gia đình gia trƣởng là hình
thức gia đình cổ xƣa nhất; và nó có hình thức giống nhƣ gia đình tƣ sản đang
tồn tại hiện nay!
Khôi phục lại lịch sử nhƣ vậy, quan điểm của L.H. Moóc-gan nhất trí
với phần đông các đồng nghiệp của mình, đã đi ngƣợc về trạng thái nguyên