Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.31 KB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG





XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học








HÀ NỘI, 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG



XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY


Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình
Hội đồng chấm luận văn: PGS.TS. Dƣơng Văn Thịnh, Chủ tịch
GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phản biện 1
PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt, Phản biện 2
TS. Trần Thị Hạnh, Thƣ ký
TS. Dƣơng Văn Duyên, Ủy viên




HÀ NỘI, 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình. Các số liệu và
nguồn tài liệu đƣợc dẫn trích trong luận văn là trung thực, chính xác và có
nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm trƣớc Nhà trƣờng và
pháp luật về lời cam đoan này của tôi.
Hà Nội, ngày 05 tháng 07 năm 2014
Tác giả


Nguyễn Thị Thu Hƣờng










LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn trân trọng và biết ơn sâu sắc tới PG.TS.

Nguyễn Thanh Bình – Ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn Thạc sỹ này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Triết – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản về triết học để tôi
hoàn thành luận văn Thạc sỹ này trong điều kiện tốt nhất.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5
6. Đóng góp của luận văn 5
7. Ý nghĩa của luận văn 5
8. Kết cấu của luận văn 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và sự biến đổi của nó trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay 6
1.1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và đạo đức cách mạng 6
1.1.2. Sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay 15
1.2. Nội dung, yêu cầu và vai trò của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt
Nam hiện nay 21
1.2.1. Khái niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt 21
1.2.2. Nội dung và yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay 24
1.2.3. Vai trò của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay 42
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY 50
2.1. Thực trạng việc xây dựng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay và nguyên nhân 50
2.1.1. Thực trạng việc xây dựng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở tỉnh Hải Dương hiện nay 50
2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng việc xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở tỉnh Hải Dương hiện nay 64
2.2. Yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 70
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 73
2.3.1. Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cách mạng đối với đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 74
2.3.2. Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở 79
2.3.3. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát của các cấp,
các ngành, các đoàn thể và nhân dân 86
2.3.4. Nâng cao tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở 90
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
KTTT
: Kinh tế thị trƣờng
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
UBND
: Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài
ngƣời và có vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của mỗi chế
độ xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức cho con ngƣời nói chung, cán bộ
lãnh đạo nói riêng là cần thiết đối với mọi chế độ xã hội phải quan tâm.
Đạo đức cách mạng là nền đạo đức kế thừa và phát triển nhiều giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc và đạo đức nhân loại. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng là nhân
tố có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nƣớc ta hơn nửa thế kỷ qua. Nó đã trở thành nền tảng đạo đức xã hội ta, đã và
đang là động lực tinh thần to lớn cho toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới
đất nƣớc, nhằm mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc, đặc biệt là thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nƣớc, hội nhập kinh

tế quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng nhƣ trình độ tƣ duy lý luận để thực hiện thắng
lợi đƣờng lối, chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, cán bộ là gốc của công việc, muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém. Chính đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là ngƣời giữ
vai trò quan trọng, là cấp trực tiếp đƣa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng vào cuộc
sống, biến nó thành hiện thực. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày,
hàng giờ phải đối mặt và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động chỉ
đạo, lãnh đạo, quản lý tại cơ sở.
Để lãnh đạo và quản lý nhà nƣớc, thúc đẩy đất nƣớc phát triển theo mục tiêu
của Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, ngƣời cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn
tài, trong đó đạo đức là gốc. Nhƣ Hồ Chí Minh đã dạy: “Cũng nhƣ sông thì có
nguồn mới có nƣớc, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải


2
phóng cho loài ngƣời là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không
có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” [46, tr.253].
Thực tế cho thấy, sau gần 30 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo, đất nƣớc đang chuyển mình và tiếp tục
đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Góp phần vào những thắng lợi ấy, phải kể đến vai
trò và ý nghĩa của việc xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ cách mạng nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng.
Bởi lẽ, họ là những ngƣời cán bộ trực tiếp tiếp xúc, lãnh đạo và phục vụ nhân dân
và trong việc vận dụng, thực hiện những chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc ở cơ sở. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực thì với ảnh hƣởng của
mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng (KTTT) cùng với sự chống phá của các thế lực
thù địch và sự yếu kém trong công tác giáo dục tƣ tƣởng, lý luận, rèn luyện đạo đức

cách mạng trong những năm vừa qua ở nƣớc ta đã dẫn tới “Tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng” [18, tr.16]. Đáng chú ý là sự suy thoái về phẩm chất
này trong cán bộ vẫn đang có chiều hƣớng gia tăng và đang dần làm xói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, cản trở việc thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng
của Đảng, làm giảm uy tín của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân
dân, ảnh hƣởng xấu đến sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, tạo thành nguy cơ
lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Tình hình tƣ tƣởng, đạo đức cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
của tỉnh Hải Dƣơng cũng không nằm ngoài cái chung đó. Vì vậy, việc tiếp tục
khẳng định vai trò và xây dựng đạo đức cách mạng ở đội ngũ cán bộ nói chung và
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng lại càng nổi lên đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề Xây dựng đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh
Hải Dương hiện nay là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng nói chung và xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng trong điều kiện KTTT ở nƣớc ta đã thu


3
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở những khía cạnh khác nhau,
với những cách tiếp cận khác nhau.
Trƣớc hết phải kể đến những nghiên cứu về đạo đức cách mạng: Vũ Khiêu:
“Mấy vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,1978; Trần
Thành: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996; “Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976; Nguyễn Ngọc Long:
“Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư
duy”, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 1 – 2/1987; Thang Văn Phúc: “Đạo đức,

phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1998; v.v.
Nội dung nổi bật nhất của những công trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng
nói chung chính là trình bày những phẩm chất đạo đức cần có của ngƣời Đảng viên,
cán bộ. Ngoài ra, các tác giả đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên tắc
rèn luyện đạo đức cách mạng và tầm quan trọng của đạo đức cách mạng.
Về đạo đức cách mạng của ngƣời cán bộ trong điều KTTT hiện nay, có những
công trình nghiên cứu nhƣ: Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc:“Mấy vấn
đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003; “Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới”, (Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1983); Nguyễn Ngọc Long: “Sự hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1982; Phạm Quốc Thành: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về rèn luyện đạo đức cán bộ đảng viên”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004; …
Các tác giả của những công trình trên khẳng định, KTTT đang có những tác
động tích cực và tiêu cực tới đời sống đạo đức xã hội Việt Nam nói chung và đạo
đức của ngƣời cán bộ nói riêng. Tác động tích cực của KTTT là làm cho con ngƣời
chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân không ngừng đƣợc nâng
lên. Những tác động tiêu cực của KTTT đến đời sống đạo đức xã hội Việt Nam nhƣ:
lối sống thực dụng, tệ nạn xã hội gia tăng, v.v.


4
Ngoài những công trình chuyên biệt đề cập đến vấn đề đạo đức và xây dựng
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ ở Việt Nam cũng đƣợc nhiều tác giả đề cập
trong các tạp chí: Nguyễn Văn Lý “Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ đảng viên ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 157, tháng 6 năm
2004. Trong bài viết này tác giả nêu lên sự cần thiết, những biện pháp để nâng cao
đạo đức cho cán bộ các cấp các ngành nhằm đáp ứng đƣợc những yêu cầu của cách

mạng trong giai đoạn hiện nay.
Tạp chí Triết học số 160 tháng 9 năm 2004 có bài “Giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của
tác giả Hữu Cát và Mạc Văn Nam. Trong bài viết của mình, các tác giả đã nêu lên
những yêu cầu khách quan đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện
đạo đức theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề đạo đức cách mạng và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nƣớc
ta hiện nay là vấn đề rộng lớn và phức tạp cần đƣợc tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc
biệt là vấn đề đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hải Dƣơng cũng
chƣa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống dƣới góc độ triết học, vì thế
chúng tôi chọn đề tài “Xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Hải Dương hiện nay” để
nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong điều kiện KTTT hiện nay, tác giả luận văn đề xuất và luận giải một số giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở trong điều
kiện KTTT hiện nay ở tỉnh Hải Dƣơng và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.



5
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xã hội và con ngƣời, về vai trò của

cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử.
- Phƣơng pháp luận: Đề tài sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu của phép biện
chứng duy vật Mácxít và kết hợp với một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
khác nhƣ khái quát hóa, trừu tƣợng hóa, …
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Thực tiễn xây dựng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hải Dƣơng trong những năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng đạo đức và việc xây dựng
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hải Dƣơng hiện
nay. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có nhiều chức danh, nhƣng đề tài chỉ tập
trung vào các chức danh: Bí thƣ, Phó Bí thƣ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân(UBND), Phó
Chủ tịch UBND; Chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND), Phó Chủ tịch HĐND qua
khảo sát thực tế tại tỉnh Hải Dƣơng.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong điều kiện KTTT ở Hải Dƣơng hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch
định chiến lƣợc, kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hải Dƣơng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy các môn khoa học
Mác – Lênin và Đạo đức học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 2 chƣơng, 5 tiết


6

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và sự biến đổi của nó trong điều
kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và đạo đức cách mạng
 Khái niệm đạo đức
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời cho thấy, đạo đức luôn luôn là một
động lực tinh thần to lớn đối với sự phát triển tiến bộ của xã hội. Trong xã hội có
giai cấp, các giai cấp khác nhau đều đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức nhằm
điều chỉnh các hành vi và cách ứng xử của con ngƣời phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con ngƣời trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng đƣợc thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dƣ luận xã hội.
Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là Mos – lề thói (morolia) –
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn danh từ “luân lý” đƣợc xem nhƣ
đồng nghĩa với đạo đức có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos – lề thói, tập tục. Khi nói
đến đạo đức là nói đến lề thói và tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa
ngƣời với ngƣời trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này, ngƣời ta thƣờng
phân biệt hai khái niệm: Mozal là đạo đức, còn ethicos là đạo đức học.
Trong lịch sử tƣ tƣởng của nhân loại, tuy có nhiều quan niệm đạo đức khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau nhƣng đã để lại không ít những giá trị to lớn.
Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những quy tắc,
chuẩn mực rút ra từ những lực lƣợng siêu nhiên, chẳng hạn nhƣ thƣợng đế, ý niệm



7
tuyệt đối, tự ý thức hoặc một bản tính ngƣời trừu tƣợng nào đó, … rồi đem áp đặt
vào đời sống hiện thực của con ngƣời.
Trên cơ sở của những tiến bộ trong đời sống vật chất, phƣơng thức sản xuất và
những thành quả của sự phát triển khoa học, đồng thời kế thừa một cách có chọn lọc
những giá trị đạo đức trƣớc đó, quan điểm Mác xít cho rằng: Đạo đức nảy sinh do
nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã
hội sinh ra và quyết định; quan hệ đạo đức là biểu hiện của quan hệ vật chất xã hội
và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội.
Đạo đức thƣờng đƣợc xét ở ba góc độ: Nhận thức luận, chức năng, hệ giá trị.
- Dưới góc độ nhận thức luận: Đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình
thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Tính đặc biệt
của đạo đức ở đây thể hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức, là do sự
thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa nhận của một giai cấp nhất định.
- Dưới góc độ chức năng: Chức năng cơ bản nhất của đạo đức là điều chỉnh
hành vi của con người bằng chuẩn mực và quy tắc theo yêu cầu của xã hội. Với
chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, đạo đức giúp cho con ngƣời hình thành
những quan điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành vi đạo
đức xã hội và những hành vi đạo đức của bản thân.
- Cách tiếp cận từ hai góc độ trên đây còn đƣợc bổ sung bằng cách thứ ba, đó
là xem xét đạo đức với tính cách là một hệ giá trị. Đạo đức là một trong những hình
thái ý thức xã hội, thƣờng đƣợc khẳng định hay phủ định một lợi ích, một quan
niệm đƣơng thời xác định. Vì vậy đạo đức là một hệ giá trị. Nhƣ vậy, nội hàm của
khái niệm đạo đức không chỉ hạn định ở đặc trƣng là một hình thái ý thức xã hội, là
phƣơng thức cơ bản điều chỉnh hành vi con ngƣời mà đạo đức còn là một hệ giá trị
bao gồm những giá trị chung và những giá trị riêng.
Theo cuốn “Từ điển tiếng Việt” thì: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, quy tắc
đƣợc dƣ luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con ngƣời đối với
nhau và đối với xã hội” [58, tr.2311].

Đạo đức với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.


8
Cấu trúc của đạo đức bao gồm: Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và thực tiễn
đạo đức.
- Ý thức đạo đức là ý thức của con ngƣời về hệ thống những quy tắc, chuẩn
mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Ý thức đạo
đức bao hàm cả các yếu tố tạo thành là tri thức, tình cảm và ý chí đạo đức.
- Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định gữa con ngƣời và con
ngƣời, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Nó là một bộ phận hợp thành của
quan hệ xã hội.
- Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con ngƣời do ảnh hƣởng của niềm tin,
của ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong đời sống của
con ngƣời.
Đạo đức là vấn đề thƣờng xuyên đƣợc đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho
các cá nhân, cộng đồng tồn tại và phát triển. Là một thành viên của xã hội, mỗi con
ngƣời cần phải có suy nghĩ và tìm ra những con đƣờng cách thức và phƣơng tiện về
chuẩn mực, giá trị đạo đức nhất định nhằm kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích cộng đồng, từ đó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và của
cộng đồng. Bởi vậy mà, đạo đức trở thành mục tiêu đồng thời là động lực để phát
triển xã hội.
Đạo đức có các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Loài ngƣời tạo ra nhiều phƣơng thức điều
chỉnh hành vi trong đó có đạo đức, pháp luật và chính trị.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa các hành vi của đạo đức bằng dƣ luận
xã hội và lƣơng tâm.
Pháp luật và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với
cộng đồng bằng biện pháp đặc trƣng là pháp luật và dƣ luận xã hội, lƣơng tâm. Sự

điều chỉnh này có thể thuận chiều, có thể ngƣợc chiều.
Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp các dân tộc, các quốc gia bằng
các biện pháp đặc trƣng nhƣ: Ngoại giao, hành chính, kinh tế, bạo lực.


9
Nhƣ vậy, chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dƣ luận xã hội và
lƣơng tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con ngƣời đã trở thành đặc trƣng
riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tƣợng xã hội khác.
- Chức năng nhận thức: Với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có
chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh nhận thức xã hội. Đạo đức là phƣơng
thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con ngƣời; là hiện tƣợng xã hội vừa mang
tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm: Nhận thức của đạo đức vừa là quá
trình hƣớng ngoại và vừa mang tính hƣớng nội. Nhận thức hƣớng ngoại lấy những
chuẩn mực, giá trị đời sống đạo đức của xã hội làm đối tƣợng. Đó là hệ thống giá trị
thiện và ác, trách nhiệm, nghĩa vụ và hạnh phúc … Nhờ nhận thức này mà chủ thể
nhận thức đã chuyển hóa đƣợc những chuẩn mực đạo đức của xã hội nhƣ là cái
chung thành ý thức đạo đức của cá nhân nhƣ là cái riêng.
Nhận thức hƣớng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức –
làm đối tƣợng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu
những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của
cộng đồng. Từ đó mà chủ thể hình thành, phát triển thành các quan điểm và nguyên
tắc sống: thụ động hay sáng tạo, hy sinh hay hƣởng thụ, vị tha hay ích kỷ, thiện hay
ác… Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức đƣợc trách nhiệm của mình và sẵn sàng hoàn
thành trách nhiệm đó.
Đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con ngƣời, nó có vai trò rất quan trọng
trong đời sống xã hội, nó là phƣơng thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con ngƣời,
làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển.
 Đạo đức cách mạng

Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản là thành quả phát triển cao trong lịch
sử tiến hóa lâu dài của đạo đức. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản ngày càng trở thành đạo đức
chung của nhân loại.
Theo quan niệm Mác xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách


10
ứng xử con ngƣời trong quan hệ với nhau, bởi truyền thống và sức mạnh của dƣ
luận xã hội.
Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đƣờng tiến lên đạo đức loài ngƣời.
Nó chứa đựng những đặc điểm tốt đẹp của nền đạo đức trong các thời đại trƣớc, đạo
đức của quần chúng nhân dân.
Đạo đức cộng sản biểu hiện sự sáng tạo mang tính quần chúng rộng rãi. Các
giá trị đạo đức cộng sản chủ nghĩa mang đầy ý nghĩa cao cả và vì con ngƣời. Nền
đạo đức ấy vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo và nhân văn, vừa
là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con ngƣời, nó có vai trò rất
quan trọng trong đời sống xã hội, nó là một phƣơng thức cơ bản điều chỉnh hành vi
của con ngƣời, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển. Chính vì thế mà
các giai cấp, các tập đoàn xã hội tiến bộ bao giờ cũng sử dụng đạo đức nhƣ là một
trong những công cụ động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Trên cơ sở tiếp thu quan niệm đạo đức cộng sản chủ nghĩa, kế thừa tinh hoa
văn hóa nhân loại, đạo đức truyền thống dân tộc; Hồ Chí Minh xây dựng lý luận đạo
đức cách mạng. Đồng thời Ngƣời cũng là một tấm gƣơng sáng ngời về đạo đức
cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xƣớng, xây dựng và vun đắp là đạo
đức mang bản chất của giai cấp công nhân kết hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam và tinh hoa đạo đức nhân loại. “Đạo đức cách mạng” trong tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cộng sản.
Nhằm nhấn mạnh vai trò nhân tố của đạo đức mới – đạo đức cách mạng – đạo
đức cộng sản chủ nghĩa trong việc góp phần vào thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, và để phù hợp với thực tiễn cách mạng XHCN trong giai đoạn hiện nay,
trong luận văn này chủ yếu sử dụng khái niệm “Đạo đức cách mạng” theo quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng giữ
vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đƣờng lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của


11
Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gƣơng mẫu trong mọi
việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê
bình để nâng cao tƣ tƣởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến
bộ” [49, tr.285].
Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những phẩm chất chung nhất của đạo đức cách
mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
- Trung với nƣớc, hiếu với dân: Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm
nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha
mẹ” trong đạo đức truyền thống, Hồ Chí Minh đƣa vào đó một nội dung mới, phản
ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn, đó là “trung với nƣớc, hiếu với dân”. Đó là một
cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung” và “hiếu” là hai khái niệm cơ bản, đứng đầu trong “tam cƣơng” và
“ngũ luân” của đạo đức Nho giáo. Với Hồ Chí Minh, “Trung” là trung với nƣớc, là
trung thành với sự nghiệp dựng nƣớc, giữ nƣớc của nhân dân, của Đảng; “Hiếu” là
hiếu với dân, là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, thƣơng
dân, gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và lễ phép với dân, học tập dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao

hơn là “tận trung với nƣớc, tận hiếu với dân”, vì theo Ngƣời, cán bộ đảng viên vừa
là ngƣời lãnh đạo, ngƣời “dẫn dắt”, vừa là “ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”. Trung với nƣớc, hiếu với dân có quan hệ chặt chẽ với nhau, càng “trung với
nƣớc” bao nhiêu thì càng “hiếu với dân” bấy nhiêu và ngƣợc lại, càng “hiếu với
dân” bao nhiêu thì càng “trung với nƣớc” bấy nhiêu.
“Trung với nƣớc, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Ngƣời vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hƣớng chính trị - đạo đức cho mỗi ngƣời Việt Nam không
phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trƣớc mắt, mà còn lâu dài về sau.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ.


12
Theo Hồ Chí Minh, “Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng; mọi ngƣời cần
phải có đức tính cần cù, chủ động, tích cực và sáng tạo để mang lại hiệu quả cao
trong công việc mà mình đảm nhận. Cán bộ, đảng viên phải chuyên cần, phải say
mê công việc của Đảng, của nhân dân giao phó nhƣ chính công việc của gia đình
mình; phải tìm tòi, sáng tạo, vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả; phải thấy rõ “lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm” tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nƣớc, của bản thân mình; không xa xỉ, hoang phí. Mục đích của tiết kiệm
là nâng cao hiệu quả của lao động sản xuất, vì vậy mọi ngƣời phải thực hành tiết
kiệm, phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to,
không phô trƣơng hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
“Liêm” tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nƣớc, của nhân dân”; không tham lam
tiền của, địa vị, danh lợi, không tham ăn ngon, mặc đẹp, v.v. Do vậy, theo Hồ Chí
Minh, cán bộ, đảng viên phải giữ lấy chữ “Liêm” làm đầu, phải thƣờng xuyên rèn
luyện phẩm chất liêm khiết trƣớc nhân dân, trƣớc Đảng. Cán bộ, đảng viên phải

thực hành chữ “Liêm” trƣớc để làm kiểu mẫu cho nhân dân.
Chính “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không tự
cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với ngƣời: không nịnh hót ngƣời trên,
không xem khinh ngƣời dƣới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật
thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trƣớc việc tƣ,
việc nhà.
Ngƣời cán bộ, đảng viên không chỉ nỗ lực rèn luyện mình theo chính nghĩa
cách mạng mà phải đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, không chân chính;
không chỉ tích cực xây dựng đức “chính” cho ngƣời khác mà phải thực sự phê bình
và tự phê bình một cách thẳng thắn để chiến thắng sự cám dỗ của các thế lực đen
tối.


13
Về chí công vô tƣ, nhƣ Ngƣời nói: “Đem lòng chí công vô tƣ mà đối với
ngƣời, với việc” và “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trƣớc, khi
hƣởng thụ thì mình nên đi sau”; “phải lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Chí công vô tƣ là chăm lo việc nƣớc nhƣ chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập
thể nhƣ việc gia đình. Nhƣ vậy, chí công vô tƣ không phải là không chăm lo đến lợi
ích riêng, Ngƣời chỉ yêu cầu là trong quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng
phải hài hòa, khi nghĩ đến lợi ích riêng phải tính đến và ƣu tiên đến lợi ích chung.
Chí công vô tƣ là phải chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh lƣu ý, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên
lợi ích cá nhân. Vì theo Hồ Chí Minh, mỗi ngƣời đều có tính cách, sở trƣờng riêng,
đời sống riêng, nếu lợi ích cá nhân mà không trái với lợi ích tập thể thì không phải
là xấu.
Cần, kiệm. liêm, chính, chí công vô tƣ là những phẩm chất căn bản của
ngƣời cán bộ, đảng viên.
- Tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà

Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề: “Bốn phƣơng vô sản đều là anh em”; là tinh
thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nƣớc trong cuộc
đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, vì CNXH và chủ nghĩa
cộng sản, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực
tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
- Thƣơng yêu, quý trọng con ngƣời.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời rất toàn diện và độc đáo. Ngƣời
đã xác định; tình yêu thƣơng con ngƣời là một trong những phẩm chất đạo đức cao
đẹp nhất. Ngƣời cách mạng, ngƣời có lý tƣởng XHCN không thể là ngƣời không có
tình yêu thƣơng con ngƣời. Rộng lƣợng, khoan dung với ngƣời, biết cách nâng đỡ
con ngƣời, thái độ tôn trọng con ngƣời luôn gắn liền với yêu thƣơng, quý trọng con
ngƣời và đồng thời nghiêm khắc với bản thân mình.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thƣơng rộng lớn cho những ngƣời
cùng khổ, những ngƣời lao động bị áp bức bóc lột; Ngƣời viết: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta


14
đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành”
[49, tr.267].
Cũng theo Hồ Chí Minh, yêu thƣơng con ngƣời là không phân biệt họ ở miền
xuôi hay miền ngƣợc, là trẻ hay già, trai hay gái … không phân biệt một ai, không
trừ một ai hễ là ngƣời Việt Nam yêu nƣớc.
Đạo đức cách mạng “là gốc, là nền tảng của ngƣời cách mạng”, là nguồn
nƣớc làm cho tinh thần cách mạng không bao giờ cạn. Cần phải nhấn mạnh rằng,
đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhƣ: Trung với nƣớc hiếu với dân;
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ; tinh thần quốc tế trong sáng … là một động
lực giúp cho con ngƣời vƣợt qua cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân, vƣợt qua những
khó khăn thử thách, gian khổ để phấn đấu cho lợi ích của Đảng, của cách mạng, của
giai cấp, của dân tộc và của loài ngƣời. Vì đạo đức cách mạng luôn gắn liền với việc

thực hiện mục tiêu của Đảng nên một ngƣời cách mạng vừa phải có đức, vừa phải
có tài. Có đức mà không có tài không thể phục vụ tốt nhiệm vụ cách mạng. Cán bộ
đảng viên nếu không đƣợc học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin, không
hiểu biết về khoa học kỹ thuật, không có trình độ văn hóa … thì không thể nói tới
việc xây dựng thành công CNXH. Ngƣợc lại, ngƣời có tài lại phải có đức, có tài
năng, trí tuệ, sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật nhƣng phải có đức để phục vụ đúng
mục đích, cống hiến cho nhân dân, cho Đảng. Có nhƣ vậy mới đem lại đƣợc hiệu
quả. Tài và đức là hai mặt cấu thành nhân cách ngƣời đảng viên nói chung, ngƣời
đảng viên là cán bộ nói riêng, chúng phải thống nhất gắn bó với nhau. Nếu tách rời,
bản thân mỗi thành tố sẽ tự làm suy yếu nó. Nói về sự thống nhất này, Hồ Chí Minh
viết: “Có tài mà không có đức ví nhƣ một anh làm kinh tế rất tài giỏi nhƣng lại đi
đến thụt kết thì chẳng những không đƣợc gì lợi ích cho xã hội, mà còn làm hại cho
xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví nhƣ ông Bụt không làm hại gì, nhƣng
cũng không lợi cho loài ngƣời” [50, tr.126].
Đạo đức cách mạng không ngừng đƣợc củng cố và phát triển cùng với sự
thắng lợi ngày càng to lớn của cách mạng XHCN, của phƣơng thức sản xuất
XHCN, trở thành nền đạo đức chung của loài ngƣời. Tuy nhiên nó cũng không phải
là nền đạo đức tuyệt đối, chân chính, cuối cùng, nhƣng hiện nay nó đang tiêu biểu


15
cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tƣơng lai … là hình thái đạo đức có
một số lƣợng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài.
Tóm lại, đạo đức cách mạng là đạo đức đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là sự thống nhất hữu cơ giữa
phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của ngƣời cán
bộ, đảng viên; là động lực thúc đẩy ngƣời cán bộ - đảng viên trong quá trình hoạt
động cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm thực hiện mục tiêu cơ bản của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH; là dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.

1.1.2. Sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay
KTTT là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, là một hình thức tổ
chức xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển của xã hội hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện, triệt để và sâu sắc dƣới sự lãnh đạo của Đảng đã
đƣa đất nƣớc ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội hết sức nặng nề và kéo dài trong
nhiều năm trƣớc đổi mới. “Sự hoài nghi về khả năng dung hợp giữa KTTT và
XHCN, có thể nói, về cơ bản đã kết thúc với việc những kết quả to lớn do KTTT
mang lại thực tế đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nƣớc” [9, tr.10]. Đại hội
lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định mạnh mẽ rằng: “Đảng và Nhà nƣớc ta
chủ trƣơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc theo
định hƣớng XHCN, đó chính là nền KTTT định hƣớng XHCN” [18, tr.86].
Tuy nhiên, trong bất cứ nền KTTT nào, tính hai mặt của nó là một đặc điểm
vốn có. Cơ chế thị trƣờng kích thích sự phát triển kinh tế, nâng cao tổng sản phẩm
xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển con ngƣời về mọi mặt, trong đó có đạo đức.
Con ngƣời tham gia vào hoạt động kinh tế thị trƣờng về nhân cách đƣợc độc lập, tự
do có quyền bình đẳng trong cạnh tranh, giữ chữ tín trong trao đổi và tăng cƣờng
quan tâm phát triển lợi ích chung của toàn xã hội.


16
Tham gia vào KTTT, con ngƣời có điều kiện phát triển nhân cách cá nhân:
Tính quyết đoán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính năng động sáng tạo trong lập
thân, lập nghiệp đƣợc khẳng định.
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, cơ chế thị trƣờng cũng gây ra hàng loạt
những hiện tƣợng tiêu cực đối với đạo đức và tiến bộ xã hội. Đó là, sự phân hoá
giàu nghèo một cách sâu sắc, từ đó làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội.
Kinh tế thị trƣờng dễ nảy sinh những tệ nạn xã hội: tham nhũng, tội phạm, bạo
lực. Nó kích thích lòng tham lợi, dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên

nhiên cũng nhƣ sức lực của ngƣời lao động. KTTT còn kích thích chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý.
Đặc biệt, đối với những nƣớc mới bƣớc vào kinh tế thị trƣờng, sự đụng độ giữa
KTTT và các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng trở thành một vấn đề
nan giải.
Nhƣ vây, KTTT vừa có ảnh hƣởng tích cực, vừa có ảnh hƣởng tiêu cực đối với
đạo đức. Là một phƣơng diện của nhân tính, đạo đức rất nhạy cảm trƣớc tác động
của KTTT, nó trở thành vấn đề cấp bách gây ra mối quan tâm không chỉ trên bình
diện lý luận mà cả trên bình diện thực tiễn. Vì thế, việc lựa chọn nội dung và hình
thức giáo dục thích hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc định hƣớng phát triển đất
nƣớc theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thƣợng tầng, của ý thức xã hội, một mặt
bị quy định bởi cơ sở hạ tầng và tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính độc lập
tƣơng đối và tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Vì vậy
trong điều kiện phát triển KTTT định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đạo đức có vai trò rất
to lớn.
Ý nghĩa của quá trình chuyển sang KTTT định hƣớng XHCN ở nƣớc ta là ở
chỗ nó đã góp phần to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất của xã hội, tăng năng
suất lao động, tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống của nhân dân. KTTT kích
thích tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của con ngƣời, hình thành một cách phổ
biến các nhân cách độc lập, phát triển tính tự chủ của cá nhân. Thế nhƣng, nền
KTTT dù là thị trƣờng định hƣớng XHCN, bên cạnh việc tạo ra những điều kiện tối


17
ƣu cho sự phát triển, vẫn thể hiện sự tác động tiêu cực nhất định tới tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Tuy KTTT vừa mới bắt đầu
hình thành, nhƣng trong xã hội Việt Nam hiện nay đã xảy ra những biến động về
mặt đạo đức, lối sống rất đáng lo ngại. Cụ thể nhƣ:
Thứ nhất, sự phát triển KTTT ở nƣớc ta hiện nay đã dẫn đến những biến đổi

tƣơng ứng trong thang giá trị đạo đức.
Hiện nay nƣớc ta đang thực hiện quá trình đổi mới toàn diện đất nƣớc. Từ đổi
mới kinh tế, đến đổi mới chính trị, đổi mới văn hóa xã hội, đổi mới quan hệ quốc tế.
Do đó, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đang có sự chuyển đổi sâu sắc và tác động
đến đời sống tinh thần, trong đó các nhân tố tác động chủ yếu đến đạo đức là:
Nƣớc ta chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển sang nền KTTT định hƣớng
xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta đang từng bƣớc làm thay đổi các điều kiện kinh tế theo
các hƣớng:
Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp hiện vật sang kinh tế hàng hóa, trao đổi lao
động cho nhau qua thƣớc đo giá trị là tiền.
Chuyển từ kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở, gắn với phân công lao động
trong nƣớc và quốc tế, chuyển từ nền kinh tế trên phạm vi hộ gia đình, làng xóm, ít
tính cạnh tranh sang kinh tế hàng hóa cạnh tranh quyết liệt trên phạm vi trong nƣớc
và thế giới. Tác động của môi trƣờng kinh tế vào giá trị đạo đức truyền thống, đặc
biệt lối sống là rất đáng kể. Chuyển sang cơ chế kinh tế mới, sự phân hóa xã hội là
không tránh khỏi. Cạnh tranh tạo ra sáng kiến và nâng cao năng suất lao động, đồng
thời cũng làm cho sự rủi ro ngày càng cao, sự phân hóa thu nhập có chiều hƣớng gia tăng.
Do tác động của lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, “có cầu sẽ cung”,
trong xã hội xuất hiện những tệ nạn xã hội mới, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến những
chuẩn mực giá trị đạo đức truyền thống. Đó là những điều kiện khách quan không
thể tránh khỏi đang tác động trực tiếp vào những giá trị đạo đức truyền thống, nhất
là vào tính cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm.
Nƣớc ta đang mở cửa giao lƣu với thế giới, tham gia vào quá trình hợp tác
phân công lao động quốc tế trong bối cảnh quốc tế và trong nƣớc có nhiều diễn biến


18
phức tạp, tuy có nhiều thời cơ và thuận lợi, nhƣng cũng rất nhiều khó khăn và thử
thách tác động đến nền tảng đạo đức dân tộc. Những tƣ tƣởng tƣ sản nhƣ chủ nghĩa

thực dụng, chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa đa nguyên chính trị và các thứ văn hóa
phẩm đồi trụy cũng xâm nhập vào nƣớc ta. Mặt khác, lợi dụng nƣớc ta mở cửa nền
kinh tế, các thế lực phản động quốc tế đang thực hiện chiến lƣợc “diễn biến hòa
bình”, tập trung vào lĩnh vực tƣ tƣởng, văn hóa và đạo đức nhằm xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Sự biến động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội, tất yếu không thể
không có sự chuyển đổi thang giá trị đạo đức. Vấn đề là chuyển đổi theo hƣớng nào,
tiến bộ hay thoái hóa, thăng hoa hay sa đọa. Phải chăng kinh tế phát triển thì trình
độ đạo đức xã hội tự nhiên sẽ đƣợc nâng cao ? Phải chăng quan niệm hiệu quả kinh
tế đồng nghĩa với chủ nghĩa sùng bái đồng tiền? Thực tế ở Việt Nam cho thấy,
thang giá trị đạo đức xã hội đang thay đổi cực kỳ nhanh chóng, phức tạp, có cả tích
cực và tiêu cực, thậm chí có cả đảo lộn, sự biến động diễn ra nhiều chiều chƣa ổn định.
Trong điều kiện mới, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đang có
những chuyển biến phức tạp, có đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa thiện
và ác, giữa lối sống lành mạnh, trung thực, thủy chung với lối sống thực dụng, dối
trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền. Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ
thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh để tự đổi mới, tự khẳng định mình trong
điều kiện mới, trên cơ sở kế thừa và đổi mới cho thích ứng với tình hình mới.
Sự du nhập các giá trị phƣơng Tây do mở cửa, hội nhập kinh tế trong quá trình
phát triển KTTT đã khiến một số ngƣời có cách nghĩ và lối sống không thích hợp
với cả hiện trạng kinh tế lẫn truyền thống văn hóa của con ngƣời Việt Nam. Những
tƣ tƣởng vọng ngoại, sùng ngoại ấy đang làm suy giảm các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, của gia đình Việt Nam truyền thống.
Với sự phát triển của KTTT, tƣ tƣởng và lối sống chạy theo lợi ích là cái đƣợc
đề cao, đã hình thành và nảy sinh lối sống hám lợi. Với lối sống này, từng cá nhân,
mỗi gia đình hay sự liên kết giữa chúng thành êkíp làm giàu bằng mọi cách, thậm
chí còn bất chấp luật pháp, đạo lý, tình nghĩa. Vì lợi nhuận, mà đã có gia đình trong
đó cha mẹ, con cái, anh chị em cùng làm ăn bất chính hay lừa đảo lẫn nhau, đẩy cả

×