Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.17 KB, 114 trang )

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1

2

CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON

12

NGƯỜI MỚI

1.1

Cơ sở thực tiễn

12

1.2

Cơ sở lý luận

21

Chương 2

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY



35

DỰNG CON NGƯỜI MỚI

2.1

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và q trình hình thành con

35

người mới
2.2

Quan niệm của Hồ Chí Minh về tiêu chí con người mới và những biện

45

pháp cơ bản xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
Chương 3

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

71

TRONG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

3.1


Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược xây dựng con

71

người mới trong công cuộc đổi mới đất nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
3.2

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phương hướng và những

82

biện pháp cơ bản thực hiện chiến lược xây dựng con người mới trong
công cuộc đổi mới đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

107


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam một giá trị tinh thần
vơ giá. Đó là một hệ thống quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề

cơ bản của cách mạng Việt nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa, một cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư
tưởng Hồ Chí Minh có giá trị nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam dẫn đường cho mọi
thắng lợi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Đánh giá về những di sản lý luận vơ giá của Người, Văn kiện Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là sự tổng kết chính xác và là sự phát triển mới
trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Trong hệ thống lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây dựng con
người mới chiếm một vị trí trung tâm, là chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của Người,
chứa đựng những giá trị khoa học vô cùng to lớn. Điều cốt lõi nhất trong tư tưởng,
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lịng yêu nước
thương dân, thương yêu con người sâu sắc, đấu tranh khơng mệt mỏi vì con người, tất
cả do con người, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để bảo đảm tự do, hạnh phúc cho
con người. Đó là một nhân sinh quan, một triết lý nhân văn sâu sắc - là chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản, bởi trong tư duy hành động của Người luôn luôn xác định: lấythực tiễn
là điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người là mục tiêu, đó là quan điểm
ln ln đề cao vai trị của con người, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết
3


định thành công của các mạng, con người luôn được nhìn nhận với tư cách vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Trước khi từ biệt thế giới này, Người
còn căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải luôn luôn ghi nhớ điều “Đầu tiên là công việc
đối với con người” [2, tr. 41]

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã xây dựng được những thế
hệ con người mới vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên, làm nên những chiến
thắng thần kỳ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và con
người, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đã bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và đang giành được những thắng lợi rực rỡ.
Bối cảnh quốc tế hiện nay đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra sự biến
đổi về chất trong lực lượng sản xuất, đưa nhân loại từng bước quá độ sang một trình độ
văn minh mới - văn minh trí tuệ, mở ra một thời đại kinh tế tri thức và xã hội thơng tin
tồn cầu. Vấn đề con người và xây dựng chiến lược con người, phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội đã trở thành vấn đề bức thiết đối với sự phát triển của mỗi một quốc gia, dân tộc.
ở Việt Nam, ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
cộng sản Việt Nam đã xác định “con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”, con người trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội được Đảng ta xác định vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo hướng đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta
chỉ rõ “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”, nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Để bảo đảm sự nghiệp đổi mới thành công, Đảng ta tiếp tục khẳng định nghiên
cứu, quán triệt sâu sắc và phổ biến rộng rãi tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới nói riêng, vận dụng những tư tưởng, lý
luận đó một cách sáng tạo vào thực hiện chiến lược xây dựng con người mới Việt Nam
nhằm đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước.
4


Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
con người mới khơng chỉ thuần tuý là hệ thống những di sản giá trị lý luận quý báu, mà

điều quan trọng không kém là làm rõ những quan điểm vận dụng và phát triển những lý
luận đó của Đảng cộng sản Việt Nam trong chiến lược xây dựng con người mới ở nước
ta hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
mới và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay” vẫn rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận lẫn phương
diện thực tiễn, vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có ý nghĩa lâu dài của cách mạng Việt
Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới nói riêng đã được Đảng, Nhà nước ta và các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Ngay từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, xuất phát từ lịng kính u đối với lãnh tụ và nhu cầu học tập
rèn luyện theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại, đã có nhiều nhà nghiên cứu viết về cuộc đời,
sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, những nghiên cứu
này chưa mang tính hệ thống, toàn diện và chuyên sâu, chưa phản ánh được hết nội
dung, hệ thống tư tưởng Hồ chí Minh.
Từ năm 1991 đến nay, đã có nhiều chương trình khoa học, đề tài nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực được triển khai thực hiện sâu rộng, nhiều chương
trình đã được cơng bố. Đặc biệt, trong các chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà
nước ( giai đoạn 1991 - 1995) có chương trình KX.02 về tư tưởng Hồ Chí Minh với 13
đề tài, và các đề tài này đều đã được nghiệm thu, tạo nhiều thuận lợi cho việc giảng
dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong các chương trình khoa học xã hội 1996 2000, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh nghiên cứu. Các kết quả nghiên
cứu đã góp phần làm rõ hơn về:
- Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
5


- Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh

- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước ta qua quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trên thế giới cũng xuất hiện những chun gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Đó
là các trường hợp P. Đờvile (Pháp), Cabêlép (Nga), Hoàng Tranh (Trung quốc), Sigo
(Nhật bản)... các chuyên gia nghiên cứu đã đánh giá rất cao tài năng, đức độ và những
đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh đối với phong trào cách mạng thế giới với tư cách là
người anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới.
Như vậy, với các kết quả nghiên cứu trong thời gian qua, đã góp phần tư vấn
cho cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời được đưa vào giáo
trình Quốc gia về tư tưởng Hồ Chí Minh (năm 2003). Sau Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ VII, Bộ chính trị đã quyết định đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thành một mơn học
trong hệ thống các môn học Mác - LêNin. Hiện nay, mơn học này đã được triển khai
rất tích cực và hiệu quả tại các trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [18, tr.21] của Đảng và của dân tộc. Đó là sự tổng
kết của Đảng, vạch rõ nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đó
chính là nguồn lực con người Việt Nam, đồng thời chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thì việc triển
khai, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới nói riêng ngày càng được đẩy mạnh cả về quy mô tổ chức và chất
lượng hiệu quả.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới, đã
có khá nhiều cơng trình khoa học có giá trị nghiên cứu sâu sắc đã được công bố, tiêu
biểu là các công trình của các tác giả:
- Tác giả Lê Sĩ Thắng (1996) (chủ biên) trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và chính sách xã hội”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, đã đi sâu
6



phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về con người, chỉ rõ con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh không phải là con người trừu tượng mà là con người lịch sử - cụ thể, tồn
tại và chịu ảnh hưởng trong nhiều mối quan hệ, trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra những
định hướng cho việc chăm sóc, phát triển con người trong giai đoạn hiện nay.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp với bài “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng con người mới” trong cuốn “Những bài viết và nói chọn lọc thời kỳ đổi mới”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Nxb Quân đội nhân dân, Hà nội 2001 đã khái quát những
quan niệm của Hồ Chí Minh về con người trên các phương diện cá nhân và cộng đồng,
về vai trò của con người với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp
cách mạng, về tư tưởng “trồng người”, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về
biện pháp xây dựng con người phải thông qua giáo dục và đào tạo. Tác giả khẳng định
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và sự nghiệp xây dựng con người là
di sản quý báu đối với công cuộc đổi mới của Đảng, là cơ sở lý luận giúp cho Đảng ta
xây dựng chiến lược xây dựng con người trong giai đoạn cách mạng mới.
- Tác giả Thành Duy (1996) trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, đã chỉ ra giá trị to lớn
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục đạo đức cho con người trong
chế độ xã hội mới, đồng thời nhấn mạnh quan điểm của Đảng xác định tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là nền tảng đạo đức của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta, việc
giáo dục rèn luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.
Và trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
nam phát triển toàn diện” , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2001, tác giả Thành Duy
đã đề cập tới những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng
con người phát triển tồn diện, phân tích khái qt tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai
trị và ý nghĩa của giáo dục đối với việc đào tạo con người qua đó khẳng định giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới đáp ứng được nhu cầu
của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.

7


- Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (2008) (đồng chủ biên) trong Cuốn “Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay”
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội , các tác giả đã khẳng định tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh khơng chỉ biểu hiện ở tình thương u con người, mà còn biểu hiện ở việc chăm
lo, bồi dưỡng, sử dụng, phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân để giải phóng
con người, mang lại hạnh phúc cho con người; tư tưởng xây dựng con người, giải
phóng con người, mang lại hạnh phúc cho con người là bộ phận quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh; để xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có con người xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ tốt, vì cán bộ là gốc của mọi cơng việc, công việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém, do đó huấn luyện và bồi dưỡng cán
bộ là công việc rất quan trọng, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng đất nước thì việc
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân là
nhiệm vụ quan trọng trong cơng tác chính trị, tư tưởng của Đảng.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết tiêu biểu đăng trên các báo, tạp chí với nhiều
cách tiếp cận khác nhau, đã luận giải giá trị, ý nghĩa chỉ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và xây dựng con người mới đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay như:
- Tác giả Đặng Xuân Kỳ trong bài “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và
bản chất con người”, Tạp chí Triết học, số 10, 2002, đã phân tích và nhấn mạnh con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với
một cộng đồng, trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với xã hội, trong đó
con người được làm chủ hay bị áp bức; quan hệ với tự nhiên trong đó con người khơng
tách rời tự nhiên, qua đó làm rõ vai trị của con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với q trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Với bài “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” trong “Di chúc” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Thúy Hạnh đăng trên tạp chí Triết học số 10 năm
2009, đã khẳng định trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vấn đề bồi dưỡng thế hệ

cách mạng cho đời sau là một công việc quan trọng và cần thiết, từ đó tác giả đưa ra và
luận giải quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích, tầm quan trọng, về ý nghĩa lớn lao
8


và về những biện pháp cụ thể của công việc to lớn này nhằm xây dựng được thế hệ
cách mạng vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
- Tác giả Nguyễn Thế Nghĩa với bài viết “Di chúc Hồ Chí Minh và con đường
đổi mới ở Việt Nam hơm nay” đăng trên tạp chí Triết học số 11 năm 2009, đã khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tác giả đã chỉ ra và luận giải vai trị định hướng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, về đoàn kết dân tộc, về rèn luyện đạo
đức cách mạng, đào tạo thế hệ trẻ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đối với
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Trong bài “Quan điểm dân sinh và triết lí nhân sinh Hồ Chí Minh” của tác giả
Đặng Hữu Tồn đăng trên tạp chí Triết học số 3 năm 2009, đã luận giải và khẳng định
điều cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm vì con người và giải phóng con
người - quan điểm dân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân
văn sâu sắc, là triết lí nhân sinh hành động lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát,
lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Tác giả khẳng định với Hồ Chí
Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng chỉ gắn liền với độc lập dân tộc mà còn là con
đường, phương thức để giữ vững độc lập dân tộc nhằm tạo điều kiện để con người
phát triển toàn diện.
- Trong bài “Nghĩ về mùa xuân và tuổi trẻ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh”
của tác giả Đỗ Huy đăng trên Tạp chí Triết học số 3 năm 2010, tác giả đã chỉ ra và
phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xã hội cần phải có chiến lược chăm sóc, bồi
dưỡng và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lịch sử giao phó,
xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
rằng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bản thân thanh niên, thế hệ trẻ cũng phải tự biết tu
dưỡng rèn luyện về đạo đức, về trình độ khoa học, về khả năng thẩm mỹ để sẵn sàng

đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới đã được nghiên
cứu từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau với những nội dung cụ thể. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, việc nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận, tư tưởng của Người về
9


vấn đề xây dựng con người mới vẫn rất cần thiết, đặc biệt là việc làm rõ những quan
điểm vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây con người mới phát triển toàn diện đáp ứng được nhiệm
vụ của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, vẫn mang tính thời sự sâu sắc,
cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Hệ thống hóa, luận giải những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới và những quan điểm vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam để
thực hiện chiến lược xây dựng con người mới trong cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay.
- Nhiệm vụ:
Trình bày và luận giải những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới.
Hệ thống hóa và luận giải những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng con người mới.
Luận giải những quan điểm kế thừa và vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi
mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của
Triết học Mác - Lênin về vấn đề con người, đặc biệt là di sản lý luận của Hồ Chí Minh

về vấn đề xây dựng con người mới. Đồng thời, luận văn tham khảo, kế thừa, tiếp thu
kết quả của các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề con người và xây dựng con người mới.
- Phương pháp nghiên cứu

10


Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phương pháp lôgic và lịch sử. Đồng
thời sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng hóa và khái
qt hóa, phương pháp hệ thống hố...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới và những quan
điểm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng con
người mới trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống những cơ sở hình thành quan điểm, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng con người mới, hệ thống hóa và luận giải những quan niệm về con
người và quá trình hình thành con người mới, về những tiêu chí và những biện pháp cơ
bản xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, luận giải những quan điểm vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược,
phương hướng và những biện pháp xây dựng con người mới hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
6. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
- Hệ thống hoá và luận giải những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng con người mới.
- Luận giải những quan điểm kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng con người mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xác định chiến lược,

phương hướng và những biện pháp cơ bản xây dựng con người mới thời kỳ đổi mới ở
nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới ở các
trường Cao đẳng và Đại học của nước ta. Đồng thời, luận văn có giá trị làm tài liệu

11


tham khảo, phục vụ cho các nhà quản lý hoạch định chính sách xây dựng bồi dưỡng và
phát triển con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương 6 tiết.

12


Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

1.1 Cơ sở thực tiễn
1.1.1 Bối cảnh lịch sử - xã hội thế giới
Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, lịch sử phát triển
của xã hội loài người là lịch sử vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Và như vậy, xét
cho đến cùng, lịch sử phát triển của xã hội lồi người phải thơng qua hoạt động có ý

thức, có mục đích của con người. Q trình phát triển của lịch sử loài người đã chứng
minh rằng sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã
hội mới cao hơn và tiến bộ hơn, chính là do xuất hiện một lực lượng mới, một giai cấp
mới, đại diện cho một phương thức sản xuất mới ngay trong lòng hình thái kinh tế - xã
hội đó, và nó địi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của nó bằng các cuộc cách mạng xã hội.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển từ chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh lên chủ nghĩa tư bản độc quyền - chủ nghĩa đế quốc. Thông qua chiến
tranh xâm lược các nước nhược tiểu, và biến các nước này thành thuộc địa, các nước
đế quốc chủ nghĩa hầu như đã phân chia xong thị trường thế giới. Những mâu thuẫn
lớn của thời đại ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
ở các nước đế quốc; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân; mâu
thuẫn giữa nhân dân lao động mà chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến, trước hết là triều đình phong kiến ở các nước thuộc địa phương Đông; mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa với giai cấp tư sản bản xứ và giai
cấp tư sản thực dân; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau v.v.. Những mâu thuẫn
đó ngày càng gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết bằng những cuộc cách mạng đấu
tranh giải phóng giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc xóa bỏ ách áp bức, nô dịch,
giành độc lập dân tộc trong những năm đầu thế kỷ XX.
13


Trong bối cảnh thế giới phức tạp đó, cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại
năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích và LêNin nổ ra và giành được thắng
lợi, đã mở ra một thời đại mới đó là thời đại đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân loại, giải phóng con người. Thời đại mới sản sinh ra những
con người mới, chính quần chúng nhân dân lao động đông đảo, khi đã được giác ngộ
mục tiêu lý tưởng của cách mạng, đã làm nên những thắng lợi vĩ đại, xóa bỏ mọi ách
áp bức, bóc lột, địi lại những quyền lợi và giá trị đích thực của con người, đồng thời,
trong quá trình đấu tranh đó cũng tự xây dựng mình thành những con người mới của

thời đại.
Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga đã chỉ ra rằng: ở những năm đầu của
thế kỷ XX, chỉ có những phong trào cách mạng nào, xác định được mục tiêu giải quyết
đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại và ở nước mình thì mới có thể đi đến
thắng lợi. Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có thể do giai cấp công nhân - giai cấp đại
diện cho con người mới của thời đại và Đảng cộng sản ở nước đó đứng ra lãnh đạo và
tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - LêNin thì mới đánh đổ được sự áp bức, bóc
lột và nơ dịch của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tháng mười Nga đã vạch ra con đường
cách mạng đúng đắn cho phong trào cách mạng thế giới, đó là độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Con người sáng tạo ra lịch sử của mình, nhưng đồng thời cũng chính là sản
phẩm của lịch sử. Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga đã tạo ra một mẫu người
hoàn toàn mới. Từ sau cách mạng tháng mười Nga, những thành tựu xuất sắc về xây
dựng cơ sở vật chất và tinh thần, về phát triển khoa học - kỹ thuật ở các nước xã hội
chủ nghĩa, đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng tốt đẹp
hơn khi sống dưới ách thống trị của các giai cấp bóc lột, tạo điều kiện hình thành và
phát triển những con người mới, những con người đại diện cho phương thức sản xuất
xã hội chủ nghĩa, có đầy đủ những năng lực để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và
làm chủ chính bản thân mình trong cơng cuộc xây dựng một xã hội khơng có tình trạng
áp bức, bóc lột, một xã hội mà “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [55, tr.628]
14


Sự xuất hiện những con người mới của thời đại mới, đã tạo những cơ sở thực
tiễn rất quan trọng cho Hồ Chí Minh học tập, vận dụng xây dựng con người mới Việt
Nam phù hợp với đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.1.2 Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam
Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước, xã hội Việt Nam là một xã hội phong kiến, với

nền kinh tế nông nghiệp nhỏ và lạc hậu. Trong điều kiện đất không rộng, người không
đông, lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến đấu và chiến thắng oanh liệt các thế lực ngoại
xâm. Từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến thời Quang Trung, dân tộc ta đã đánh bại
mọi kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp bội lần. Điều đó chứng tỏ con người Việt
Nam truyền thống là con người anh hùng có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng
cảm, sức mạnh quật cường và ý chí quyết chiến, quyết thắng chống kẻ thù và tinh thần
lao động sáng tạo để xây dựng cuộc sống của cộng đồng. Trong công cuộc dựng nước
và giữ nước đã tạo nên con người Việt Nam có tinh thần đồn kết, tình thương u
đùm bọc lẫn nhau trong những lúc nguy nan, đặc biệt là trong thử thách ác liệt của
những cuộc chiến tranh chống quân xâm lược. Tinh thần đoàn kết và sự đùm bọc này
lại càng được nhấn mạnh, được nâng lên thành lý luận sắc bén khi nhân dân ta phải
đứng trước một kẻ thù lớn mạnh hơn gấp nhiều lần và phải tiến hành chiến đấu trường
kỳ gian khổ.
Như vậy, trong trường kỳ lịch sử, dân tộc ta đã có những con người anh hùng
xuất hiện với hai giá trị cơ bản là anh dũng trong chiến đấu và thông minh sáng tạo
trong lao động sản xuất để tồn tại trên mảnh đất luôn luôn bị giặc ngoại xâm và thiên
tai đe dọa, hình ảnh về con người anh hùng, con người lý tưởng thường gắn liền với
những chiến công đánh giặc giữ nước, với cơng cuộc giải phóng dân tộc.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, vấn đề đạo làm người trong quan
niệm của giai cấp thống trị đã được hệ thống hóa và có cơ sở lý luận nhằm phục vụ cho
việc xây dựng và duy trì chế độ phong kiến. Nó là một bộ phận khơng thể tách rời của
ý thức hệ phong kiến. Theo quan điểm của giai cấp thống trị phong kiến thì trong phẩm
chất của con người, phải lấy đạo trung hiếu làm đầu, lấy lễ để ràng buộc bản thân. Và ở
15


mỗi con người, việc tu thân theo những quy tắc đó là tiêu chuẩn số một của cuộc đời.
Con người phải coi tiêu chuẩn ấy là nền tảng cho mọi hoạt động xã hội, kể cả hoạt
động chính trị. Các triều đại phong kiến ở Việt Nam coi việc xây dựng con người theo
những tiêu chuẩn đó, thành một hoạt động có chủ trương cụ thể, có tổ chức chặt chẽ

của triều đình. Những con người được xây dựng theo những khn mẫu đó ngày càng
xuất hiện đơng đảo trong đời sống kinh tế - xã hội phong kiến thông qua các kì thi
tuyển. Nhưng với quan niệm về xây dựng con người theo khn mẫu như vậy, mục
đích là chỉ nhằm duy trì trật tự của chế độ phong kiến và củng cố quyền uy tối thượng
của nhà vua, hay nói một cách khác là nó chỉ phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
Do đó, về cơ bản, nó đối lập với lợi ích của đơng đảo quần chúng nhân dân bị bóc lột.
Nó khơng hề đề cao đến giá trị lao động của con người, mà chỉ đề cao đạo tu thân, trị
nước, đề cao việc học hành thi đỗ để làm quan, để phục vụ cho triều đình phong kiến.
Nó coi thường những tri thức cụ thể về sinh hoạt kinh tế và tri thức khoa học tự nhiên.
Vì vậy, những con người được xây dựng đào tạo ra theo khuôn mẫu ấy, không những
trở thành vật chướng ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thời kỳ phong
kiến, mà tàn dư của nó cịn ảnh hưởng xấu đến công cuộc đổi mới hiện nay.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, sau khi lật đổ triều đại Tây Sơn, triều đình nhà
Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động: trong nước
thì tăng cường đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nơng dân, bóc lột nhân dân thậm tệ, làm
đời sống của quần chúng nhân dân lao động ngày càng cùng cực, đối với bên ngồi thì
thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, đóng cửa, khép kín.
Về vấn đề con người triều đình nhà Nguyễn vẫn chủ trương xây dựng con người
theo khuôn mẫu cũ đã lỗi thời, nên đã không mở ra được khả năng cho con người Việt
Nam có cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp được với sự phát triển của thời đại. Không kết hợp
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vì vậy, đã khơng phát huy được những
thế mạnh truyền thống của dân tộc, không tạo ra được tiềm lực vật chất và tinh thần đủ
sức bảo vệ Tổ quốc trước sự de dọa xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Điều đó đã phải trả một cái giá quá đắt cho vận mệnh của cả một quốc gia, dân tộc. Khi
thực dân Pháp dùng vũ lực xâm lược nước ta, thì đạo làm người phong kiến vẫn được
16


triều đình nhà Nguyễn duy trì và bảo vệ một cách ngoan cố. Nhà vua và quần thần vẫn
lấy đạo làm người ấy để giáo dục và làm khuôn mẫu thước đo phẩm chất cho con

người, mà không biết rằng đạo làm người ấy đã hết sức lạc hậu và phản động khơng
cịn phù hợp với thời đại mới, cho nên sản phẩm của nó chỉ là sự hèn nhát và mu muội
của giai cấp thống trị trong tình huống phải đối phó với sự tấn cơng của kẻ thù. Còn
những chiến sỹ đại biểu cho tinh thần chiến đấu anh dũng, bất khuất của dân tộc ta lúc
bấy giờ, thì hành động chiến đấu chống sự quân xâm lược cũng chỉ do sự thúc đẩy của
những giá trị truyền thống của con người Việt Nam anh hùng.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chống lại sự
đơ hộ, bóc lột dã man của thực dân Pháp liên tiếp nổ ra mạnh mẽ nhưng lần lượt đều
thất bại và bị kẻ thù đàn áp dã man. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ ngọn
cờ phong kiến đã lỗi thời, chế độ phong kiến đã suy tàn khơng cịn đủ sức để tập hợp
lực lượng dân tộc. ý thức hệ phong kiến đã hoàn tồn phá sản và hết vai trị lịch sử.
Điều này khẳng định: “việc chúng ta mất nước vào cuối thế kỷ XIX không phải
là một định mệnh lịch sử. Dân tộc Việt Nam, trong quá khứ đã từng đọ sức với những
kẻ thù hùng mạnh hơn mình gấp bội mà vẫn chiến thắng oanh liệt. Tri thức đánh giặc,
giữ nước vốn là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là
sức mạnh thần kỳ của nhân dân Việt Nam. Nếu những người cầm quyền sáng suốt, biết
nhìn xa trơng rộng, trong dựa vào nhân dân, ngoài cải thiện bang giao, chuẩn bị thực
lực, quyết tâm lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ đất nước thì mười nghìn quan
Pháp lúc bấy giờ khơng phải là một lực lượng bất khả chiến thắng” [46, tr. 22]
Sau khi hoàn thành sự xâm lược nước ta bằng vũ lực, thực dân Pháp đã thâm
nhập nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vào xã hội phong kiến Việt Nam. Cơ cấu kinh tế và
quan hệ giai cấp xã hội, do đó có những thay đổi rõ rệt. Xã hội Việt Nam cũng tồn tại
hầu hết các mâu thuẫn lớn của thời đại, trong đó nổi bật lên mâu thuẫn giữa một bên là
toàn thể dân tộc Việt Nam với một bên là chủ nghĩa thực dân đế quốc xâm lược và
phong kiến tay sai.
Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc ở Việt nam đã trở thành một vấn đề có
tính chất sống cịn đối với vận mệnh dân tộc và sự phát triển của đất nước. Đánh đuổi
17



thực dân Pháp, khơi phục chủ quyền quốc gia, đó là điều nung nấu nhất, biểu hiện
thành lý tưởng và đạo đức cao cả nhất của con người Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, phong trào dân chủ tư sản nổi lên ở châu á, nổi bật là ở Trung
Quốc, Nhật Bản với các cuộc vận động dân tộc dân chủ tư sản. Khuynh hướng này ảnh
hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam. Các tầng lớp sỹ phu yêu nước thời kì này
đã nhận thấy sự lỗi thời và phá sản triệt để của đạo làm người phong kiến là đã không
thể tổ chức, động viên được nhân dân trong cuộc chiến đấu mới, nhằm lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Đến đây, địi hỏi phải có sự
thay thế quan niệm đạo làm người phong kiến cổ hủ bằng một quan niệm mới về con
người mới.
Xây dựng con người mới trong quan niệm của các sĩ phu yêu nước thời kì này là
những con người có lịng u nước, căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần chiến đấu hy
sinh cho sự nghiệp cứu nước.
Phan Bội Châu, nhà cách mạng tiêu biểu của thế hệ con người mới đương thời,
đã làm sống dậy ở những con người mới ấy truyền thống yêu nước cao đẹp của con
người Việt Nam anh hùng. Đối với ơng, tiêu chuẩn để bình xét con người trong lịch sử
chính là lịng u nước, và những chiến công trong sự nghiệp cứu nước, xây dựng một
chế độ xã hội duy tân đảm bảo cho nước nhà giàu mạnh và văn minh với tất cả các
ngành văn hóa, giáo dục, cũng như cơng, nơng, thương nghiệp đều phát triển. Và đây
cũng là những yêu cầu cho việc xây dựng con người mới thời kì này.
Phan Chu Trinh, một sỹ phu yêu nước thì đề cao những nguyên tắc tự do, bnh
đẳng, dân quyền của con người. Theo các sỹ phu của nước ta hồi bấy giờ thì con người
mới khơng chỉ có những phẩm chất chính trị mà cịn phải có những tri thức về kinh tế,
khoa học kỹ thuật, có tầm mắt nhìn xa trơng rộng, phải có một trình độ tân học và
những đức tính cần thiết cho cơng cuộc xây dựng đất nước, làm cho dân giàu nước
mạnh.
Quan niệm về con người mới này, chính là sản phẩm của phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân ta trong suốt những năm đầu thế kỷ XX. ở đây, việc giải
phóng con người gắn liền với việc giải phóng dân tộc. Do vậy, vấn đề con người thời
18



kỳ này đã mang nội dung phản đế và phản phong khá rõ ràng và mang tính chất tiến bộ
so với thời kỳ trước đó.
Tuy nhiên, quan niệm về con người và xây dựng con người của các sỹ phu yêu
nước thời kỳ này có những nhược điểm cơ bản là chưa xem xét con người trong tổng
hòa của các quan hệ xã hội, mà trong đó quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp là cơ sở
của mọi quan hệ xã hội khác. Bởi vậy, con người mới thời kì này được xây dựng khơng
xuất phát từ bản chất giai cấp của những lực lượng xã hội và những con người cụ thể,
từ đó, họ khơng nhận thức được vai trò to lớn của mỗi lực lượng xã hội trong phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc, đặc biệt là vai trò làm cách mạng kiên quyết nhất,
triệt để nhất là giai cấp công nhân và nông dân. Đồng thời, họ cũng không thấy được
bản chất giai cấp thực sự của thực dân Pháp thống trị, do vậy đã không xác định mâu
thuẫn cần phải giải quyết triệt để là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân
phong kiến tay sai. Cuối cùng, cũng phải thấy rằng quan niệm về con người trong
phong trào yêu nước thời kỳ này vẫn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của ý thức hệ tư
sản đã lỗi thời, cho nên vẫn chưa thốt khỏi cái vịng luẩn quẩn trước đó, khơng tránh
khỏi hạn chế, hồn tồn bất lực rồi lại rơi vào bế tắc, thất bại.
Với những nhược điểm như vậy, quan niệm về con người mới của các sỹ phu
yêu nước đầu thế kỷ XX không thể đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển của cách
mạng nước ta. Cách mạng Việt Nam địi hỏi phải có một quan niệm khoa học và cách
mạng về xây dựng con người mới, với những phẩm chất cách mạng phù hợp với tính
chất mới của thời đại để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.
Trong bối cảnh lịch sử - xã hội ấy của thời đại và của đất nước, Hồ Chí Minh
sinh ra và lớn lên, đảm nhận sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ,
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường cách mạng tháng Mười Nga đã
vạch ra. Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng ấy là nguồn gốc đầu tiên quy định
mục tiêu, khơi dậy động lực cho việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và tư tưởng về xây dựng con người mới của Hồ Chí Minh nói riêng.


19


Hồ Chí Minh sinh ra ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - một vùng
đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước thương dân, là nơi đã sản sinh ra rất
nhiều vị anh hùng cách mạng trong lịch sử dân tộc. Ông và cha của Hồ Chí Minh ở cả
hai bên nội, ngoại đều đỗ đạt cao trong các kì thi Nho giáo mà triều đình nhà Nguyễn
tổ chức. Họ đều là những nho sĩ tiến bộ, có ý nguyện an dân dựng nước, mà tiêu biểu
là Cụ Nguyễn Sinh Sắc, người cha đáng kính của Người với tư tưởng thân dân, lấy dân
làm hậu thuẫn của cách mạng, đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng con người mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam sau này.
Ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh được ơng ngoại, cha và các cụ đồ nho nổi tiếng, rèn
dũa lịch sử dân tộc, hun đúc truyền thống bất khuất, yêu nước thương dân, căm ghét sự
bất công, tàn bạo. Hồ Chí Minh cũng được học tập kỹ lưỡng những tri thức phù hợp
với truyền thống dân tộc của Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo, Pháp gia, Mặc gia,... cùng
nhiều triết thuyết phương Đông khác.
Cuộc sống vất vả ở quê hương đã ni dưỡng những tình cảm ban đầu của Hồ
Chí Minh. Đó là lịng hiếu thảo với ơng bà, cha mẹ, thương yêu và giúp đỡ mọi người,
tin vào con người; căm ghét bọn thực dân Pháp xâm lược và bọn quan lại phong kiến
ươn hèn, bạc nhược tay sai.
Sang tuổi thanh niên, phần lớn thời gian Hồ Chí minh sống với cha ở kinh thành
Huế, và theo học ở trường Quốc học Huế, tại đây, Người chủ yếu được tiếp nhận sự
truyền bá văn minh Pháp của nhà trường. Hồ Chí Minh cịn được theo cha đi đến một
số vùng thuộc miền trung và miền bắc Việt Nam. Ở đâu, Người cũng thấy sự bóc lột
dã man, tàn bạo của thực dân Pháp, sự thối nát, hèn hạ, bạc nhược của triều đình nhà
Nguyễn. Ở đâu, Người cũng thấy cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột đến cùng
cực của đồng bào mình, thấy nỗi đau mất nước của mỗi người việt Nam yêu nước.
Người còn tận mắt chứng kiến sự thất bại liên tiếp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
chống Pháp lúc bấy giờ.

Từ sự chứng kiến đó, đã đặt ra một loạt câu hỏi trong Hồ Chí Minh: tại sao dân
tộc Việt nam có bề dày lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với lòng yêu
nước nồng nàn, anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất mà giờ đây
20


phải chịu sống cảnh kiếp trâu ngựa của thân phận nơ lệ mất nước? Vì sao các phong
trào cách mạng chống Pháp của nhân dân ta liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại? tất cả
những câu hỏi đó đã thơi thúc Hồ Chí Minh phải tìm ra lời giải đáp, phải đi tìm một
con đường mới để cứu dân, cứu nước.
Vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước cùng thời, vào tháng 6-1911,
Hồ Chí Minh đã lựa chọn một hướng đi tìm đường cứu nước mới, đó là về phía
phương Tây, sào huyệt của chủ nghĩa tư bản, trong đó có kẻ thù trực tiếp của dân tộc
mình là thực dân Pháp.
Thu nhận đầu tiên từ trong quá trình hoạt động thực tiễn lao động ở các nước tư
bản phương Tây, là Hồ Chí Minh đã nhận thấy những người nghèo khổ lao động ở
khắp nơi đều chung một cảnh ngộ, cùng chịu chung một sự bóc lột của chủ nghĩa đế
quốc. Cảnh ngộ chung ấy đã cho thấy, họ có chung một kẻ thù là chủ nghĩa thực dân,
có chung một khát vọng giải phóng dân tộc và giải phóng chính mình.
Năm 1920, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận Luận cương của Lênin về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa, tìm ra được con đường cứu nước, cứu dân, đã mở ra một tiền đề mới
của lịch sử tư tưởng giải phóng dân tộc Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản. Và cũng chính từ đó Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan niệm về con
người và xây dựng con người mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình thành nên trong
Người tư tưởng về xây dựng con người mới và ngày càng phát triển cùng với sự phát
triển của cách mạng Việt Nam.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - LêNin, vấn đề xây dựng con người mới
trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã kết hợp tính khoa học sâu sắc với tính cách mạng triệt
để, kết hợp lịng u nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, mặt khác

vẫn kế thừa được tất cả những tinh hoa trong lịch sử nhận thức về vấn đề con người
của dân tộc Việt Nam, xây dựng nên những thế hệ con người mới đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội.

21


1.2 Cơ sở lý luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh có những tư tưởng xây dựng con người rất phong phú,
sâu sắc và độc đáo, được thể hiện trong nhiều bài viết của Người. Những tư tưởng xây
dựng con người mới của Hồ Chí Minh có thể được xem xét ở nhiều góc độ và cách tiếp
cận khác nhau, nhưng dù ở góc độ nào, cách tiếp cận nào chúng ta cũng thấy những tư
tưởng đó vừa mang sắc thái thâm thúy của tư tưởng triết học phương Đơng, vừa mang
tính khúc triết, duy lý, hiện đại của triết học phương Tây, vừa hiện nên rất rõ những giá
trị nhân văn đặc sắc của dân tộc Việt Nam, cũng vừa thấy tính cách mạng, khoa học tư
tưởng nhân văn, nhân đạo cao cả của triết học Mác - LêNin.
1.2.1 Triết lí về con người của tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt nam
Dân tộc Việt Nam có những tư tưởng, triết lí về con người và xây dựng con
người rất sâu sắc và độc đáo, được hình thành sớm, được bổ sung và tích lũy qua nhiều
thế hệ cùng với sự phát triển thăng trầm của lịch sử, quá trình đấu tranh dựng nước và
giữ nước trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, đã hun đúc nên những giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân nghĩa, tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái, truyền thống lạc quan yêu đời, có niềm tin vào sức mạnh của
bản thân, của chính nghĩa, ý chí anh dũng bất khuất cho độc lập tự do, cho hạnh phúc
của con người. Triết lý của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, đều hướng con
người vào thực hiện những nhiệm vụ cơ bản xuyên suốt bao trùm trong đời sống sinh
hoạt vật chất và tinh thần đó là: làm người, dựng làng, giữ nước. Xuất phát từ nhiệm vụ
trung tâm đó, triết lí về đạo làm người của dân tộc Việt Nam là hướng tới giáo dục, xây
dựng con người luôn luôn phải tu dưỡng rèn luyện xây dựng nhân cách, đạo đức trọn

đời, sống hịa thuận, đồn kết, u thương đồng bào, đồng loại “thương người như thể
thương thân”, yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do cho Tổ quốc.
Khi đánh giá về con người Việt Nam, về các giá trị truyền thống văn hoá lâu đời
của dân tộc Việt Nam, một người Pháp là Đờ Puvuốcvin đã viết đó là những con người
“Yêu mến q hương, quyến luyến gia đình, tơn kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn
22


trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng lời nói thánh hiền, thương u nịi
giống, tơn kính lẽ phải; ghét xa hoa, không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, khơng sợ
gian khổ, hy sinh; đó là những đức tính răn dạy trong sách thành hiền, lưu lại trong cổ
phong và ghi thành luật pháp; hiện nay đó cũng là những đặc điểm về bản tính của
người An Nam hình thành từ bao thế hệ, những thế hệ ln luôn cố gắng thực hiện dạo
đức ấy một cách thành kính; người An Nam bình thường mà người ta bắt gặp bất cứ ở
đâu cũng đều như vậy cả.” [60, tr. 425,426]
Triết lí về con người của tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt nam đã ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh trong vấn đề xây dựng con người mới Việt Nam.
Người đã nhận thức sâu sắc truyền thống đó, biết ni dưỡng phát huy, phát triển, và
nâng chúng lên ở trình độ mới, với hình thức mới trong cơng cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước. Đó là sự kế thừa tư tưởng trời, đất và con người hịa
hợp, mà trong đó vai trò của con người được đề cao, với sức mạnh đồn kết, con người
có thể đội đá vá trời, dời núi, lấp sông, lấn biển, nhân định thắng thiên, đức năng thắng
số. Tư tưởng này càng được củng cố và ổn định khi được bổ sung bởi tư tưởng “thiên
nhân hợp nhất” trong triết học về con người của Nho, Phật, Lão khi du nhập vào Việt
Nam.
Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người, gắn con người với gia đình,
với dân tộc, với quê hương đất nước, tiến tới khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân loại, Người viết: “chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng ra nữa là cả loài người”. [64, tr.644]

Tư tưởng nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt nam với những triết lý về con người
được thể hiện rất nhiều trong ca dao, tục ngữ, trong lối sống của con người Việt Nam
như: “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “người trong một
nước phải thương nhau cùng”, “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “lao động là tiêu
chuẩn đạo đức” “một dân tộc độc lập là một dân tộc có chủ quyền” v.v... ln ln
được Hồ Chí Minh trân trọng, kế thừa và vận dụng trong xây dựng con người mới với
những phẩm chất mới, dưới những hình thức mới, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng,
như xác định con người lao động là con người vẻ vang nhất, là con người có đạo đức
23


nhất: “Lao động là vẻ vang” [ 67, tr.296 ] Người thấy được mẫu số chung của con
người Việt Nam là “Nhân dân Việt nam có truyền thống yêu nước nồng nàn” [68,
tr.313] để từ đó xây dựng khối “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, thành cơng, thành
cơng, đại thành công”, nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện được một chân lý tưởng
chừng rất đơn giản nhưng đúng với mọi dân tộc, mọi thời đại và đúng với mỗi một con
người là “khơng có gì q hơn độc lập tự do”.
Có thể nói, những tư tưởng triết lí về con người truyền thống của dân tộc Việt
Nam, đặc biệt là những đạo lý làm người, là cội nguồn, là yếu tố nội sinh được tích tụ
một cách “tự nhiên” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Điều đó giúp cho Người dễ dàng
tiếp thu và kế thừa tất cả các giá trị triết học của nhân loại, kể cả triết học Mác - LêNin
về vấn đề con người và xây dựng con người mới, hơn thế nữa, tất cả những tư tưởng,
học thuyết khác nhau đó, lại khơng hề mâu thuẫn, triệt tiêu nhau mà kết hợp hài hịa
biện chứng, bổ sung cho nhau trong q trình xây dựng con người mới trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
1.2.2 Triết lí nhân văn của văn hóa nhân loại
* Triết lí về con người trong Nho giáo
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng những tư tưởng dạy và học làm người
(hay nói một cách khác là đạo làm người) của Nho giáo có lẽ là nhiều hơn so với các
trường phái khác của phương Đơng. Điều này cũng hồn tồn dễ hiểu, bởi Hồ Chí

Minh xuất thân từ một gia đình nho giáo.
Khi kế thừa và vận dụng tư tưởng “chính danh” của nho giáo, Hồ Chí Minh đã
loại bỏ tính chất duy tâm thiên mệnh, khơi phục lại quan hệ bình đẳng hai chiều tự
nhiên trong quan hệ giữa người với người trong xã hội. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã
dạy cán bộ, đảng viên rằng, dù là Chủ tịch nước, Bộ trưởng, công nhân, nông dân, bộ
đội hay người phục vụ nấu ăn, quét rác v.v. đều là người tồi nếu khơng hồn thành
được nhiệm vụ của mình, cịn nếu làm tốt hơn người khác thì đều là anh hùng, chiến sỹ
thi đua, là những “thánh nhân” của ngày nay, "Việc của dân, của nước việc gì có ích
cho xã hội là làm". [69, tr.466] Nếu như chính danh của Nho giáo quy định đạo làm
người là phải “trung với vua”, “hiếu với cha mẹ”, “Nhà vua khiến quan lại chết, quan
24


lại không chết là bất trung; cha khiến con chết, con không chết là bất hiếu” (Quân sử
thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu” [82, tr. 99], thì Hồ
Chí Minh lại phát triển tư tưởng này lên một tầm cao mới, với một nội hàm mới cách
mạng, Người cho rằng, không phải chỉ có hiếu với cha mẹ, mà cịn trung với nước,
hiếu với dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng, hơn thế nữa cịn phải tận trung, tận
hiếu. Chính danh nho giáo có sự phân biệt đẳng cấp hà khắc, bỏ quên vai trò của phụ
nữ, người phụ nữ trở thành con người phụ thuộc trong xã hội phong kiến. Trong suốt
cuộc đời, họ khơng có quyền độc lập nào cả. Hồ Chí Minhh đã phê phán tư tưởng ấy và
khơi phục lại quyền và vai trị to lớn của phụ nữ trong xã hội mới với tư tưởng “nói
phụ nữ là nói phần nửa xã hội” [68, tr.523].
Trong Nho giáo, xây dựng con người với những phẩm chất nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín nhằm phục vụ cho chế độ chuyên chế quân chủ Phong kiến hà khắc; học thi đỗ làm
quan nhằm để thực hiện chức năng là “cha mẹ của dân”, “chăn dắt dân”; thì ở Hồ Chí
Minh, chính danh đó đã được vận dụng rất nhuần nhuyễn với nội hàm mới trong việc
xây dựng và rèn luyện đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân lao động là “chớ làm cho người những điều mà mình khơng muốn
người làm cho mình”, trong phương châm: mình vì mọi người, mọi người vì mình;

Đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Những tiêu chuẩn: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, tự phê bình và phê bình .v.v. mà Hồ Chí Minh nêu ra, về cơ bản là gần với
tiêu chuẩn của Nho giáo. Nhưng ở Nho giáo những tiêu chuẩn ấy là do “thiên phú” thì
ở Hồ Chí Minh thì là do quá trình hoạt động thực tiễn của con người trong cuộc sống
hàng ngày mới có và mang nội dung mới của đạo đức cách mạng. Người viết: “Đạo
đức cách mạng khơng phải ở trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố...” [68, tr.293]
Trong tư tưởng của Nho giáo còn nhiều vấn đề về con người như: tư tưởng lấy
dân làm gốc, tư tưởng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, tư tưởng giáo dục làm
gương, tư tưởng đào tạo con người là sự nghiệp trăm năm. Đã được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát triển. Và như vậy, cả một hệ thống những tư tưởng về đạo làm người của
Nho giáo đã được Hồ Chí Minh vận dụng có chọn lọc, phát triển những nội dung mới,
25


×