Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới vào xây dựng nền văn hóa dân tộc và vận dụng tư tưởng đó trong phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.54 KB, 91 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRỊNH THANH MAI






TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾP THU TINH HOA
VĂN HOÁ THẾ GIỚI VÀO XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ
DÂN TỘC VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG
PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ NƯỚC TA HIỆN NAY


Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHẠM NGỌC ANH





HÀ NỘI - 2009
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
1
MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………
2
NỘI DUNG
7
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu văn hoá thế giới vào xây
dựng văn hoá dân tộc………………………………

7
1.1. Quan niệm tổng quát về văn hoá và giao lưu văn hoá…………….
7

1.1.1. Quan niệm về văn hoá……………………………………………
7

1.1.2. Quan niệm về giao lưu và tiếp thu văn hoá giữa các dân tộc

11
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá
thế giới……………………………………………………………….

13

1.2.1. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………
13

1.2.2. Cơ sở lý luận……………………………………………………
17
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn
hoá thế giới vào xây dựng văn hoá dân tộc…………

23

1.3.1. Nhu cầu khách quan tiếp thu văn hoá thế giới vào xây dựng văn
hoá dân tộc………………………………………………………….

23

1.3.2. Nội dung tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng văn hoá
dân tộc…………………………………………………………

25

1.3.3. Phương châm, nguyên tắc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào
xây dựng văn hoá dân tộc…………………………………………

49

Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá
thế giới vào xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế hiện nay…………………………………………


54
2.1. Giao lưu và tiếp biến văn hoá trong quá trình hội nhập quốc tế hiện
nay…………………………………………………………………

54
2.2. Thực trạng tiếp thu văn hoá thế giới trong xây dựng và phát triển văn hoá
nước ta hiện nay……………………

56
2.3. Phương hướng, quan điểm chỉ đạo việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới vào xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh


65
2.3.1.Phươn hướng tổng quát……………………………………………………
65
2.3.2. Các quan điểm chỉ đạo chủ yếu
68

MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………

2
NỘI DUNG
7
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu văn hoá thế giới vào xây
dựng văn hoá dân tộc………………………………

7
1.1. Quan niệm tổng quát về văn hoá và giao lưu văn hoá…………….
7

1.1.1. Quan niệm về văn hoá……………………………………………
7

1.1.2. Quan niệm về giao lưu và tiếp thu văn hoá giữa các dân tộc
11
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá
thế giới……………………………………………………………….

13

1.2.1. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………
13

1.2.2. Cơ sở lý luận……………………………………………………
17
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn
hoá thế giới vào xây dựng văn hoá dân tộc…………

23


1.3.1. Nhu cầu khách quan tiếp thu văn hoá thế giới vào xây dựng văn
hoá dân tộc………………………………………………………….

23

1.3.2. Nội dung tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng văn hoá
dân tộc…………………………………………………………

25

1.3.3. Phương châm, nguyên tắc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào
xây dựng văn hoá dân tộc…………………………………………

49
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá
thế giới vào xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế hiện nay…………………………………………


54
2.1. Giao lưu và tiếp biến văn hoá trong quá trình hội nhập quốc tế hiện
nay…………………………………………………………………

54
2.2. Thực trạng tiếp thu văn hoá thế giới trong xây dựng và phát triển văn hoá
nước ta hiện nay……………………

56
2.3. Phương hướng, quan điểm chỉ đạo việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới vào xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh


65
2.3.1.Phươn hướng tổng quát……………………………………………………
65
2.3.2. Các quan điểm chỉ đạo chủ yếu
68
KẾT LUÂN…………………………………………………………………….
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………
82
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
1

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng, lãnh tụ vĩ đại và vô cùng kính
yêu của Đảng ta và nhân dân ta. Tư tưởng của Người là sự kết tinh cao nhất
giữa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực
thúc đẩy sự phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của

dân tộc ta, soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc, bảo vệ và thống nhất đất nước, đưa Việt Nam tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh không những thúc
đẩy cách mạng Việt Nam trong quá khứ mà còn cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng cho dân tộc ta hiện nay và tương lai, không
những có giá trị to lớn cho cách mạng Việt Nam mà còn có giá trị to lớn đối
với tiến trình cách mạng thế giới.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ
chức giáo dục, khoa học, văn hoá của Liên hợp quốc - UNESCO đã ghi nhận:
Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn
hoá kiệt xuất”, “một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã
cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”, là người đã có “sự đóng góp quan trọng về
nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật, là kết tinh của
truyền thống văn hoá hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam, và những tư
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
2
tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc
khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn
nhau”. Sự ghi nhận đó của UNESCO chính là sự khẳng định của thế giới đối
với một người Việt Nam ưu tú nhất - Hồ Chí Minh và chính Người đã làm nên
một thời đại vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại Hồ Chí
Minh.
Với tư cách là một “nhà văn hoá kiệt xuất”, tư tưởng văn hoá của Hồ
Chí Minh có giá trị vô cùng to lớn. Người không chỉ để lại cho chúng ta một
hệ thống các quan điểm, tư tưởng toàn diện và sâu sắc về lĩnh vực văn hoá mà
Người còn có công lao rất lớn trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới Việt
Nam. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới

vào xây dựng nền văn hoá dân tộc có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bản
thân Hồ Chí Minh cũng là hiện thân cao đẹp nhất của sự kết tinh các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc với các giá trị văn hoá của nhân loại.
Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, giao lưu và tiếp thu văn hoá
là quy luật tất yếu để mỗi quốc gia, dân tộc phát triển nền văn hoá của mình.
Tuy nhiên, mặt trái của giao lưu và tiếp thu văn hoá đã và đang đặt ra những
vấn đề bức thiết đối với việc phát triển văn hoá phải gắn với giữ vững bản sắc
văn hoá dân tộc. Trong quá trình hội nhập, Đảng ta hiện nay vẫn đang tiếp tục
thực hiện mục tiêu “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy, tư tưởng
của Người về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân
tộc vẫn còn những giá trị to lớn và mang ý nghĩa thời đại sâu sắc, góp phần
thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập với văn hoá quốc tế của văn hoá Việt
Nam. Với ý nghĩa đó, người viết muốn chọn khía cạnh này làm đề tài cho
luận văn, để thêm một lần nữa khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hoá nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế
giới nói riêng đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam trong thời
đại mới.
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
3
2. Tình hình nghiên cứu
Hồ Chí Minh - con người, sự nghiệp và tư tưởng là đề tài rất lớn thu hút
nhiều nhà khoa học và hoạt động chính trị trong nước cũng như trên thế giới
quan tâm nghiên cứu. Sau dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (1990) và đặc biệt là sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) với khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng” thì việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã được tiến
hành một cách tích cực hơn, cả bề rộng lẫn bề sâu.

Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói
chung, về tiếp thu văn hoá nhân loại vào xây dựng văn hoá dân tộc nói riêng,
có thể phân thành các loại:
- Chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở;
- Các luận văn, luận án, giáo trình;
- Các sách chuyên khảo, kỷ yếu Hội thảo khoa học;
- Các bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành ở
trong và ngoài nước.
Lần đầu tiên, một chương trình khoa học- công nghệ cấp Nhà nước
“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh” (Mã số KX.02) gồm 13 đề tài đã được
triển khai trong giai đoạn 1991 - 1995. Đồng thời, Đảng và Nhà nước đã
quyết định triển khai Chương trình biên soạn sách giáo khoa các bộ môn Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đưa tư tưởng Hồ Chí Minh - một bộ môn
khoa học mới ra đời - vào giảng dạy trong hệ thống trường Đảng, trường đại
học, cao đẳng trong cả nước.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Có thể kể
đến đề tài Khoa học xã hội 01 - 04 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn
hoá, xây dựng con người” do GS. Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm; đề tài Khoa
học xã hội 04 - 01 (Chương 5): “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
4
dựng và phát triển văn hoá” của GS. Đỗ Huy, “Hồ Chí Minh, nhà văn hoá kiệt
xuất” của GS. Song Thành (1999), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
văn hoá mới Việt Nam” do TS. Bùi Đình Phong chủ biên (2001), “Hồ Chí
Minh - danh nhân văn hoá” của các tác giả Hoàng Chí Bảo - Trần Đình
Huỳnh (2004), “Văn hoá và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
của GS. Đinh Xuân Lâm - PGS, TS Bùi Đình Phong (2007)… Ngoài ra, còn
rất nhiều công trình, bài viết liên quan đến vấn đề này được công bố trên các

tạp chí chuyên ngành khác.
Các đề tài này đã nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam; trong đó có
một số ít đề tài đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với tiếp thu tinh hoa văn hoá
thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá
dân tộc với tư cách là một đối tượng độc lập.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới
vào xây dựng nền văn hoá dân tộc là một trong những tư tưởng đặc sắc của
Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng đó vẫn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, làm cơ sở, nền tảng để chúng ta vận dụng vào phát triển nền văn
hoá dân tộc. Do đó, người viết muốn hướng đề tài nghiên cứu của mình vào
vấn đề này với mong muốn làm rõ hơn nội dung tư tưởng cũng như giá trị của
nó đối với sự phát triển văn hoá Việt Nam trong thời đại mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích trình bày một cách tổng quát những quan điểm của
Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng văn hoá dân tộc
và vận dụng tư tưởng đó vào phát triển văn hoá ở nước ta trong bối cảnh hiện
nay.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
5
- Làm rõ các khái niệm: Văn hoá, giao lưu và tiếp thu văn hoá giữa
các dân tộc;
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa
văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân tộc;
- Trình bày và phân tích hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về tiếp
thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân tộc và việc vận

dụng tư tưởng đó vào phát triển văn hoá ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quan điểm của Hồ Chí
Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân tộc
và sự vận dụng tư tưởng đó trong phát triển văn hoá ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rộng lớn, bao
quát những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong giới hạn của Luận
văn, người viết chỉ nghiên cứu một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá, đó là sự tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền
văn hoá dân tộc; thời gian vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta, chủ yếu được
tính từ năm 1998 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn
hoá, tiếp thu văn hoá thế giới và phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử mácxit, đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công
trình đã công bố liên quan tới đề tài của Luận văn.
Luận văn sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp lôgíc - lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh…
để làm công cụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của Luận văn
Với công trình nghiên cứu của mình, Luận văn muốn góp phần làm
sáng tỏ, cụ thể hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
6
giới vào phát triển văn hoá dân tộc và khẳng định giá trị của tư tưởng đó đối
với sự phát triển văn hoá ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của Luận văn bao gồm 2 chương, 6 tiết.





NỘI DUNG

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾP THU VĂN HOÁ THẾ GIỚI
VÀO XÂY DỰNG VĂN HOÁ DÂN TỘC

1.1. Quan niệm tổng quát về văn hoá và giao lưu văn hoá
1.1.1. Quan niệm về văn hoá
Văn hoá là một vấn đề rộng lớn, là một trong những lĩnh vực tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau nhưng chưa có sự thống nhất. Cho tới nay, người ta đã
thống kê có khoảng 400 định nghĩa về văn hoá. Điều đó có nghĩa là sự xác định
khái niệm “văn hoá” không đơn giản, bởi mỗi học giả đều xuất phát từ những cứ
liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề mình cần nghiên
cứu.
Ở phương Đông, từ “văn hoá” đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu dịch, quẻ Bi đã có từ “văn” và từ “hoá”: Xem dáng vẻ con
người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ).
Hay Lưu Hướng (thời Tây Hán) viết trong sách Thuyết uyển (bài Chỉ vũ):
Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn đức, rồi sau mới dùng vũ lực.
Phàm dùng vũ lực đều để đối phó với kẻ bất phục tùng. Dùng văn hoá không
thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt. Như vậy, trong cách nghĩ của Lưu
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
7

Hướng, văn hoá được hiểu như một phương thức giáo hoá con người, được
dùng đối lập với vũ lực. Văn hoá gần nghĩa với giáo hoá.
Ở Việt Nam, khái niệm văn hoá chỉ mới xuất hiện ở thời hiện đại, gắn
với tư tưởng của GS. Đào Duy Anh và tác phẩm “Việt Nam văn hoá sử
cương” của ông. Trong tác phẩm đó, theo trường phái văn hoá học Pháp, GS.
Đào Duy Anh chỉ quan niệm văn hoá như là tổng hợp các mặt sinh hoạt của
con người trong đời sống xã hội.
Ở phương Tây, khái niệm văn hoá có nguồn gốc từ tiếng La tinh: cultus
animi (trồng trọt tinh thần) nghĩa là muốn nói đến trình độ con người được
phát triển về tinh thần, làm cho con người xa rời trạng thái động vật, trạng
thái nguyên sơ để khẳng định tính người, trình độ người.
Tuy nhiên, phải đến năm 1855, khi Klemm công bố công trình khoa
học chung về văn hoá thì người ta mới coi khoa học về văn hoá hình thành và
phát triển. Năm 1871, E.B.Taylor công bố công trình “Văn hoá nguyên thuỷ”
ở Luân Đôn, lúc đó, ngành khoa học này mới chính thức được khẳng định.
Ông đưa ra khái niệm: Văn hoá là một phức thể bao gồm kiến thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán và mọi khả năng, thói quen
mà con người với tư cách là thành viên xã hội đạt được. Từ đấy, khái niệm
văn hoá được nhiều người đề cập.
Có rất nhiều định nghĩa về văn hoá. Năm 1967, nhà văn hoá học người
Pháp, Abraham Moles cho biết có hơn 250 định nghĩa về văn hoá. Năm 1994,
trong công trình “Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới”, GS. Phan Ngọc
nói “Một nhà dân tộc học Mỹ đã dẫn ngót 400 định nghĩa về văn hoá”.
Tổng thư ký UNESCO, Mayor định nghĩa: “Văn hoá là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ
thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc” [22; tr.95]. Theo UNESCO, văn hoá là tất cả “những
gì làm cho dân tộc này khác dân tộc khác”, bao gồm từ những cái tinh vi, hiện
Trịnh Thanh Mai

Luận văn Thạc sĩ Triết học
8
đại nhất đến những cái truyền thống, cổ điển nhất như phong tục, tập quán, lễ
hội, trang phục Tiếng nói, chữ viết, truyền thống dân tộc, đường nét kiến
trúc, bí quyết tiềm ẩn trong sản xuất là đặc trưng văn hoá của mỗi dân tộc:
“Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt, tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,
những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người khả năng
suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý.
Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân” (Tuyên bố về những chính sách văn
hoá - Hội nghị quốc tế do UNESCO tổ chức tại Mexico năm 1982). Theo định
nghĩa này, văn hoá liên quan tất thảy các giá trị sáng tạo của con người đặt ra
trong mối quan hệ tổng thể con người với tự nhiên, con người với xã hội
(trong đó bao hàm cả quan hệ giữa người với người).
Có nhiều định nghĩa về văn hoá, nhưng tựu trung lại, các định nghĩa
đều xoay quanh một số nội dung cơ bản sau:
- Văn hoá là sự chấn hưng, là trình độ được vun trồng của một con
người, một xã hội, làm cho con người, xã hội ngày càng đổi mới, cách xa rời
trạng thái nguyên sơ, dẫn đến tính “người” của văn hoá.
- Văn hoá là sự kết tinh giá trị của con người, dân tộc, xã hội, là trình
độ “người” trải qua lịch sử, trở thành động lực của cuộc sống.
- Văn hoá là sự phát triển nội tại bên trong của một con người, một dân
tộc, là cách ứng xử để con người và các dân tộc khác nhau hiểu được nhau.
- Văn hoá là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản

chất con người, vươn tới chân - thiện - mỹ, là hoạt động nhằm tạo ra những
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
9
giá trị, những chuẩn mực xã hội, là “thiên nhiên thứ hai”, cái nôi nuôi dưỡng,
hình thành tính cách con người.
Hồ Chí Minh - nhà văn hoá lớn - ngay từ rất sớm đã nhận thấy vai trò, ý
nghĩa to lớn của văn hoá. Tháng 8 năm 1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới
Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa của mình về văn hoá.
Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh rất nhiều điểm gần với quan niệm hiện
đại về văn hoá. Điều đó thể hiện tầm vóc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh.
Trong “Mục đọc sách” viết cùng vào những trang cuối cùng trong cuốn sổ
sáng tác những bài thơ “Nhật ký trong tù” (năm 1942 - 1943), Người viết: “Ý
nghĩa của văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [28, tr.431].
Định nghĩa trên cho thấy, văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao
gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm
đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của con người.
Xây dựng nền văn hoá dân tộc thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính
trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hoá được Hồ Chí Minh
xác định là đời sống tinh thần xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng: “Văn hoá
là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi
văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được” [38, tr.345]. Đây
là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hoá được tiếp thu và truyền bá

theo phương thức của Hồ Chí Minh. Khác với tất cả các quan niệm về văn hoá
trước kia của các nhà nho, các trí thức tư sản đã tách văn hoá khỏi đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội và coi lĩnh vực văn hoá gắn liền với những cách sống
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
10
cao thượng của tầng lớp trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hoá
không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Văn hoá trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của toàn bộ đời sống xã hội. Nó
cùng với kinh tế, chính trị tạo nên đời sống của dân tộc ta. Nhiều lần Hồ Chí
Minh đã nói rằng: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải
chú ý đến cùng, phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”
[37, tr.345].
Khi chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá phải được coi trọng như nhau, Hồ
Chí Minh bao giờ cũng xác định các quan hệ kinh tế, cơ cấu kinh tế là nền tảng
để phát triển văn hoá. Hồ Chí Minh, một mặt, coi trọng ảnh hưởng quyết định
của kinh tế tới văn hoá; mặt khác, còn coi trọng chế độ chính trị, các chế ước xã
hội đã làm nảy sinh tính đa dạng văn hoá và vai trò tác động trở lại của văn hoá
tới việc góp phần thúc đẩy nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của xã hội.
Trong tư tưởng văn hoá, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến bản chất của
mọi hiện tượng văn hoá đó chính là khả năng sáng tạo của nhân dân lao động.
Khi khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hoá, là ngọn
nguồn của mọi giá trị văn hóa, Người nhắc nhở cần tạo cho văn hoá một động
lực, một diện mạo hoàn toàn mới, góp phần vào việc xây dựng và phát triển
một nền văn hoá mới ở Việt Nam.
Tóm lại, “văn hoá” là một khái niệm có nội hàm phong phú và ngoại
diên rất rộng, cho nên tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau. Cho dù hiểu
theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì văn hoá vẫn được coi là tất cả những giá trị
mà nhân loại đã đạt đựơc trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Văn
hoá chính là sự tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Văn hoá đã trở

thành một trong những thành tố quan trọng đối với sự tồn vong và phát triển
của mỗi một dân tộc.
1.1.2. Quan niệm về giao lưu và tiếp thu văn hoá giữa các dân tộc
Giao lưu văn hoá (Acculturation) là sự tiếp xúc và trao đổi qua lại trong
một quá trình lâu dài, trực tiếp giữa hai nền văn hoá của hai cộng đồng người
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
11
khác nhau. Giao lưu văn hoá là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó
với tiến hoá xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hoá, là sự vận
động thường xuyên của văn hoá. Nó không chỉ là động lực phát triển của văn
hoá mà còn là động lực của sự tiến hoá xã hội.
Ngay từ thời tiền sử, sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá đã diễn ra. Song,
điều đó không phải là bản thân hoạt động văn hoá mang lại mà nó diễn ra nhờ
hoạt động trao đổi kinh tế và nhiều hoạt động trao đổi “phi kinh tế” như trao
đổi tặng phẩm hay vật phẩm tôn giáo; hoặc nhờ những sự tiếp xúc khác như
quan hệ hôn nhân, ngoại giao Ngoài ra, các cuộc thiên di thường xảy ra
trong thời nguyên thuỷ và cổ trung đại làm cho các tập đoàn người có văn hoá
khác nhau đã vô tình đến bên nhau, sống cạnh nhau, xen kẽ nhau cũng dẫn
đến sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá.
Trong quá trình giao lưu văn hoá, một điều tất yếu xảy ra là, bất kể văn
hoá của cộng đồng người này có thể lan truyền đến cộng đồng này kia. Các
yếu tố văn hoá được tiếp biến có khi là cá biệt, rời rạc; nhưng cũng có khi lại
kết thành hệ thống chặt chẽ; có khi lại kết dính với những yếu tố văn hoá
truyền thống; có khi lại đổi mới mạnh mẽ các yếu tố văn hoá cũ. Người ta gọi
những yếu tố văn hoá đó là yếu tố ngoại sinh. Vì vậy, có thể nói, giao lưu văn
hoá vừa là kết quả của trao đổi, vừa là chính bản thân sự trao đổi. Có hiểu như
vậy mới thấy hết tầm quan trọng của giao lưu văn hoá trong lịch sử nhân loại.
Nó là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Như mọi sự vật và hiện tượng khác, giao lưu văn hoá cũng có tính hai

mặt: tích cực và tiêu cực, tốt và chưa tốt, văn hoá và phản văn hoá. Nhưng nếu
vì thế mà chối từ, ngăn cấm một cách cực đoan, thái quá việc giao lưu văn hoá
là điều hết sức sai lầm. Chỉ có việc thực hiện giao lưu văn hoá một cách chủ
động, tích cực và có chọn lựa mới là phương cách thông minh và đúng đắn
nhất.
Việt Nam nằm ở vị trí ngã tư đường của sự giao lưu khu vực Đông
Nam Á và thế giới. Vì thế, trong lịch sử dân tộc đã tiếp xúc và giao lưu văn
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
12
hoá với nhiều nền văn hoá nhân loại. Đầu tiên là sự tiếp xúc và giao lưu văn
hoá giữa Việt Nam và Đông Nam Á. Rồi là sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá
của người Việt Nam với văn hoá Trung Hoa qua cả con đường triều đình hoặc
truyền giáo và cả con đường di dân với nhiều lĩnh vực như kỹ thuật (nghề in,
làm giấy, chế tạo thuốc súng ), văn hoá (chữ viết, Nho giáo, Đạo giáo ), y
học Mặt khác, Việt Nam còn tiếp xúc và giao lưu văn hoá với văn hoá Ấn
Độ. Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam một mặt, phải tiến hành cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, mặt khác, cũng tiếp
nhận nhiều nhân tố văn hoá phương Tây để hiện đại hoá đất nước. Sự tiếp xúc
văn hoá ở giai đoạn này vừa tự nguyện, vừa có tính chất cưỡng bức, áp chế.
Sau này, từ năm 1954 - 1975, văn hoá Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Mỹ cũng
ảnh hưởng tới văn hoá hai miền Bắc, Nam. Trong điều kiện chiến tranh khốc
liệt, sự tiếp xúc này chưa sâu nhưng vẫn để lại những dấu ấn nhất định, vừa
tích cực, vừa tiêu cực. Văn hoá Việt Nam ngày nay mang đầy đủ truyền thống
văn hoá người Việt cổ làm nên cội rễ bền vững và bản sắc của dân tộc, trong
đó những yếu tố ngoại sinh của các dân tộc khác mà văn hoá Việt Nam đã
tiếp nhận và “Việt hoá” trong những cuộc tiếp xúc và giao lưu cũng đã góp
phần làm phong phú, giàu có thêm văn hoá bản địa.
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa
văn hoá thế giới

1.2.1. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam với đặc điểm vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của sự giao
lưu văn hoá Bắc - Nam và Đông - Tây nên đã sớm có truyền thống giao lưu và
tiếp xúc văn hoá với các dân tộc khác. Có thể nói đây là cơ sở thực tiễn đầu tiên
để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Theo các nhà nghiên cứu, ngay từ rất sớm, văn hoá Việt Nam đã mang
những đặc điểm chung của cơ tầng văn hoá Đông Nam Á. Điều đó cho thấy
sự tiếp xúc đầu tiên của văn hoá Việt Nam chính là sự tiếp xúc với văn hoá
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
13
khu vực. Nhưng nổi bật hơn cả là sự giao lưu và tiếp biến của văn hoá Việt
Nam với văn hoá Trung Hoa.
Do điều kiện lịch sử mà sự giao lưu, tiếp biến giữa văn hoá Việt Nam và
văn hoá Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp biến rất dài trong nhiều thời kỳ của lịch
sử Việt Nam. Cho đến nay, không một nhà văn hoá nào lại phủ nhận ảnh hưởng
của văn hoá Trung Hoa đối với văn hoá Việt Nam. Quá trình giao lưu tiếp biến
ấy diễn ra ở cả hai trạng thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu không cưỡng bức.
Trước hết là giao lưu văn hoá một cách cưỡng bức. Việc này xảy ra vào
những giai đoạn lịch sử mà người Việt bị đô hộ, bị xâm lược. Đó là thời kỳ
Bắc thuộc (từ thế kỷ I đến thế kỷ X) và thời kỳ nhà Minh xâm lược (từ 1407
đến 1427). Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, người Hán tổ chức được nền đô hộ,
ngoài việc bóc lột ở Giao Châu về mọi phương diện, bộ máy cai trị của người
Hán thực hiện chính sách đồng hoá; tiêu diệt văn hoá của cư dân bản địa. Tuy
nhiên, người Hán đã không dễ dàng thực hiện được mưu đồ đó bởi đã vấp
phải sự chống cự quyết liệt của cư dân người Việt.
Sau một nghìn năm Bắc thuộc, người phương Bắc không cai trị Đại Việt
nữa nhưng sự giao lưu, tiếp biến văn hoá vẫn xuất hiện và đó là giao lưu văn hoá
tự nguyện. Các triều đại của nhà nước quân chủ Đại Việt đều được xây dựng mô
phỏng theo mô hình của Trung Hoa; Nho giáo bắt đầu có sự ảnh hưởng mạnh

mẽ và chính thức được coi là ý thức hệ chính thống trong một thời gian dài.
Như vậy, cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hoá cưỡng bức và
tự nguyện của mối quan hệ giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Hoa đều
là nhân tố cho sự vận động của văn hoá Việt Nam trong diễn trình lịch sử.
Trong quá trình giao lưu văn hoá này, người Việt đã tạo ra khá nhiều thành
tựu văn hoá nhờ sự tiếp nhận kỹ thuật trong sản xuất, đặc biệt là việc tiếp
nhận chữ Hán đã trở thành yếu tố góp phần quan trọng vào sự phát triển của
văn hoá Việt Nam trong giai đoạn sau này.
Bên cạnh việc giao lưu và tiếp biến với văn hoá Trung Hoa, văn hoá
Việt Nam còn giao lưu và tiếp biến với văn hoá Ấn Độ. Mặc dù Việt Nam và
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
14
Ấn Độ là hai quốc gia cách xa nhau về mặt địa lý nhưng văn hoá Ấn Độ lại có
ảnh hưởng sâu đậm đến văn hoá Việt Nam. Quá trình giao lưu và tiếp biến
giữa hai nền văn hoá này diễn ra từ rất sớm mà đầu tiên là thông qua con
đường buôn bán. Biểu hiện đầu tiên cho sự ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ ở Việt
Nam chính là mô hình tổ chức xã hội của văn hoá Óc Eo và chế độ vương
quyền của văn hoá Chămpa. Và nổi bật hơn cả là sự tiếp nhận các tôn giáo Ấn
Độ của người Việt là đạo Phật và đạo Bàlamôn. Từ những năm đầu công
nguyên, Giao Châu đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á (Luy
Lâu). Người Việt đã dễ dàng thích ứng và tiếp biến đạo Phật một cách dung dị
vào cơ tầng văn hoá bản địa, bởi đạo Phật vốn có tinh thần bình đẳng và bác
ái, chủ trương dân chủ, không phân biệt đẳng cấp.
Ngoài ra, văn hoá Việt Nam còn có sự giao lưu và tiếp biến với văn hoá
phương Tây. Sự giao lưu và tiếp xúc này bắt đầu từ thế kỷ XVI thông qua con
đường truyền giáo của các linh mục phương Tây và nó thực sự diễn ra mạnh
mẽ khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị lên đất nước ta. Có thể nói,
đây là thời kỳ biến động lớn về tư tưởng và chính trị, đồng thời văn hoá Việt
Nam cũng có sự thay đổi căn bản. Nhìn ở phương diện tính chất, giao lưu văn

hoá ở thời kỳ này có cả hai dạng thức: giao lưu một cách cưỡng bức, áp đặt và
tiếp nhận một cách tự nguyện.
Về phía người Pháp, họ luôn có ý thức dùng văn hoá như một công cụ
cai trị. Với chiêu bài “khai hoá văn minh” cho người dân An Nam nhưng thực
chất là khai thác thuộc địa, người Pháp đã vấp phải sự phản ứng quyết liệt của
người Việt. Có thể thấy thái độ ấy ở các nhà nho yêu nước ở Nam Bộ hồi cuối
thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn Trung
Trực Vì vậy, người Việt chống lại cả văn hoá mà đội quân đi xâm lược định
áp đặt cho họ. Số phận của chữ quốc ngữ trong giai đoạn này cũng nằm trong
thái độ ấy. Tuy nhiên, với người Việt, vận mệnh dân tộc là thiêng liêng nhất,
bằng thái độ cởi mở, họ đã tiếp nhận những giá trị, những thành tố văn hoá
mới, miễn sao chúng có tác dụng hữu ích trong công cuộc chống ngoại xâm
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
15
giành lại độc lập cho dân tộc. Kết quả là, nền văn hoá Việt Nam giai đoạn này
đã bắt đầu thay đổi cấu trúc, đi vào vòng quay của văn minh phương Tây giai
đoạn công nghiệp. Diện mạo văn hoá Việt Nam thay đổi trên nhiều phương
diện: chữ quốc ngữ từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo được
dùng như chữ viết của một nền văn hoá; xuất hiện các phương tiện văn hoá như
nhà in, máy in; xuất hiện báo chí, nhà xuất bản; xuất hiện một loạt các thể loại,
loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội hoạ
Như vậy, sự giao lưu, tiếp biến giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá
phương Tây diễn ra trong hoàn cảnh nhân dân ta một mặt phải tiến hành cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, mặt khác phải tiếp
nhận nền văn hoá phương Tây để hiện đại hoá đất nước. Nơi đây, tiếp biến văn
hoá được diễn ra trên bình diện tiếp xúc Đông - Tây với hai hệ quy chiếu dường
như đối lập. Cuộc gặp gỡ ấy tỏ ra rất “trái khoáy” không có gì là thú vị, ấy thế
mà chỉ trong thời gian tương đối ngắn (so với sự tiếp xúc văn hoá giữa các nước
Đông Nam Á với Trung Hoa và Ấn Độ) nền văn hoá của các quốc gia tại đây đã

được tái cấu trúc lại dẫn tới việc các nước này từng bước chối bỏ “phương thức
sản xuất Châu Á”, tức là nền văn minh nông nghiệp truyền thống để đi vào quỹ
đạo của nền văn minh công nghiệp phương Tây. Kết quả là văn hoá Việt Nam
giai đoạn này thay đổi diện mạo nhưng văn hoá Việt Nam không mất đi bản sắc
vốn có của mình.
Rõ ràng, giao lưu và tiếp biến văn hoá đã trở thành quy luật phát triển của
văn hoá, quy luật tất yếu của đời sống. Một dân tộc muốn phát triển nền văn hoá
của mình thì không thể đứng ngoài quy luật ấy. Do đặc điểm địa lý và lịch sử mà
ngay từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống giao lưu văn hoá và qua
từng thời kỳ lịch sử, sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá được biểu hiện ở các
phương thức và mức độ khác nhau.
Hồ Chí Minh sinh ra trong bối cảnh sự giao lưu và tiếp xúc giữa văn hoá
Việt Nam và văn hoá phương Tây diễn ra hết sức mạnh mẽ. Bản thân Hồ Chí
Minh cũng được thừa hưởng những thành quả của cuộc tiếp xúc, giao lưu đó
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
16
đem lại. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ, Người đã được hấp thụ
một nền Hán học và Quốc học khá vững vàng. Năm 1905, Hồ Chí Minh vào
trường tiểu học bản xứ Pháp - Việt; đây là trường tiểu học do thực dân Pháp mở
để dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ với mục đích đào tạo những “công chức bản
xứ”, phục vụ lợi ích cho chúng. Chính từ môi trường này, lần đầu tiên Hồ Chí
Minh đã được tiếp xúc với văn hoá phương Tây, cho dù mới chỉ là sự tiếp xúc,
tìm hiểu những giá trị cơ bản nhưng đó lại là cơ sở để sau này Hồ Chí Minh tiếp
tục tìm hiểu, khám phá và tiếp thu trong quá trình đi tìm đường cứu nước.
Năm 1911, Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước
cho dân tộc. Cuộc hành trình dài trong nhiều năm, qua năm châu bốn biển, đặt
chân tới những nước Âu, Phi, Mỹ, là một trường học lớn để Hồ Chí Minh tìm
hiểu, nhận xét, đánh giá và học tập. Đó cũng là một quá trình chọn lọc, tiếp
nhận tinh hoa văn hoá phương Tây, trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ tự

do, tiến bộ với một tầm nhìn và tấm lòng rộng mở. Ba mươi năm hoạt động ở
nước ngoài, chủ yếu là ở trung tâm văn minh Châu Âu và ngọn nguồn tinh hoa
của những cuộc cách mạng tư sản, Nguyễn Ái Quốc có đủ thời gian và điều
kiện để tiếp nhận những gì cần cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và
của các dân tộc cùng cảnh ngộ. Chính ở đây, Người đã có điều kiện tham gia
và hoà mình vào phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Người còn viết
văn, làm báo để tuyên truyền cho dân tộc và cách mạng. Việc phải dùng ngôn
ngữ nước ngoài để đáp ứng yêu cầu và trình độ của công chúng đã thúc đẩy Hồ
Chí Minh phải nhanh chóng làm chủ được ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài.
Như vậy, cùng với hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc của
người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chúng
ta thấy đã diễn ra một quá trình tiếp thu tinh hoa văn hoá vô cùng độc đáo và
đặc sắc. Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới này đã được thực hiện
trong mối quan hệ chặt chẽ với dân tộc, gắn bó với dân tộc, không xa rời bản
sắc chân chính của văn hoá dân tộc. Trên nền tảng vững bền đó, sự tiếp nhận
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
17
văn hoá bên ngoài của Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp thu tốt hơn, đi xa hơn
để vươn tới chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
1.2.2. Cơ sở lý luận
Có thể nói, truyền thống tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới của dân tộc
Việt Nam là cơ sở lý luận đầu tiên để Hồ Chí Minh hình thành nên tư tưởng
và tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân tộc.
Việt Nam là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa
đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến
tư tưởng văn hoá phương Tây. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của
sự giao lưu văn hoá Bắc - Nam và Đông - Tây, người Việt Nam từ xưa đã rất
xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ
vững bản sắc văn hoá dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến

nhiều cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của riêng mình.
Ngay từ rất sớm, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa
và Ấn Độ, tiếp nhận và biến đổi những giá trị văn hoá đó cho phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử dân tộc mình. Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
được du nhập vào Việt Nam, tuỳ vào từng thời kỳ lịch sử mà mỗi học thuyết
có vị trí khác nhau hoặc được dung hoà với nhau trong cùng một nền văn hoá
dân tộc và đều trở thành những thành tố cấu thành nên nền văn hoá Việt Nam.
Trước hết là Nho giáo. Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất
sớm bởi những người Trung Hoa mà phần lớn là quan lại của chính quyền đô
hộ, cho nên trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, thái độ tiếp nhận của người Việt rất
dè dặt. Nhưng khi nước Đại Việt bước vào thời kỳ tự chủ, Nho giáo được giai
cấp phong kiến Việt Nam sử dụng như một công cụ xây dựng chính quyền và
quản lý xã hội thì Nho giáo ngày càng phát triển và dần dần chiếm vị thế độc
tôn. Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội và trở
thành một thành tố của văn hoá Việt Nam. Với tư cách là một học thuyết
chính trị, đạo đức, Nho giáo có vai trò như một tố chất trong nho sĩ. Tâm tư,
tình cảm, tư tưởng và lối sống của nhà nho Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
18
giáo là lẽ đương nhiên. Và qua tầng lớp nho sĩ, Nho giáo đã đến được với đại
đa số quần chúng nhân dân. Một điều đáng lưu ý là, trong xã hội Việt Nam từ
thế kỷ XV trở về sau, tầng lớp trí thức trong xã hội chính là các nhà nho. Do
vậy, sáng tạo văn hoá của họ chứa đựng tư tưởng Khổng Mạnh là lẽ tự nhiên.
Từ Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn ,
trước tác của những nhân vật văn hoá tiêu biểu của đất nước, đều thể hiện tư
tưởng Nho giáo. Trong suốt quá trình lịch sử phát triển ở Việt Nam, Nho giáo
có “độ khúc xạ” (chữ dùng của PGS. Phan Ngọc), do những điều kiện xã hội,
lịch sử và con người Việt Nam có khác với những điều kiện này ở Trung Hoa.
Do vậy, Nho giáo ở Việt Nam có những nét khác biệt với Nho giáo ở Trung

Quốc. Những khái niệm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của nhà nho Việt Nam khác
với chính các khái niệm ấy ở nhà nho Trung Quốc. Chữ dân của Mạnh Tử
cũng khác với chữ dân của các nhà nho Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn
Trãi. Vì thế, theo tác giả Trần Đình Hượu: “Ta gặp trong thực tế một thứ Nho
giáo không thuần nhất, đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm Dương, Phật,
Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương nên khi tác
động đến từng mặt của đời sống ở Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó
không nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau” [48, tr.84].
Cũng giống Nho giáo, Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất
sớm. Ngay từ đầu, Phật giáo đã được nhân dân ta tiếp nhận một cách dễ dàng
chính là bởi triết lý của Đạo phật rất gần gũi với tư tưởng của người dân Việt
Nam. Phật giáo nhanh chóng ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý, phong tục và
nếp sống của đông đảo người dân Việt. Phật giáo đã được dung hội với tín
ngưỡng dân gian, được Việt hoá cho phù hợp với hoàn cảnh. Phật giáo đã trở
thành một thành tố văn hoá có ảnh hưởng đậm nét đến các thành tố văn hoá
khác của văn hoá Việt Nam như kiến trúc, điêu khắc, thơ văn, hội hoạ Có
thời kỳ, Phật giáo giữ vị trí độc tôn, tồn tại với tư cách là một tác nhân của
khối đại đoàn kết, là chỗ dựa tinh thần của dân tộc.
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
19
Ở Việt Nam, Đạo giáo cũng có sự ảnh hưởng nhưng chủ yếu là ảnh hưởng
của Đạo giáo phù thuỷ trong đời sống, còn ảnh hưởng Đạo giáo triết học chủ yếu
diễn ra trong tầng lớp nho sĩ nhưng không đậm nét. Đạo giáo phù thuỷ đã kết
hợp với tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Theo PGS. Nguyễn Tài Thư: “Người
Việt Nam lúc bấy giờ thì vẫn chịu ảnh hưởng của Đạo giáo phù thuỷ vì nó phù
hợp với tín ngưỡng dân gian và nó bổ sung những tín điều cần thiết mà tín
ngưỡng dân gian không có, vì đó là con đường hi vọng để khắc phục những khổ
đau xã hội và bệnh tật của con người đương thời, trong hi vọng đó chỉ có tác
dụng an ủi. Tin theo Đạo giáo thần tiên vì người Việt vốn có tinh thần lãng mạn,

muốn có cuộc đời dài lâu, muốn có cuộc sống tốt đẹp” [48, tr.89].
Như vậy, diễn trình văn hoá Việt Nam trong lịch sử có sự ảnh hưởng của
nhiều tư tưởng học thuyết khác nhau nhưng tiêu biểu nhất là Nho – Phật - Đạo.
Người Việt đã tiếp thu những tư tưởng đó trên tinh thần chọn lọc, tiếp thu những
gì phù hợp với điều kiện xã hội và hoàn cảnh lịch sử, Việt hoá chúng làm cho
chúng trở thành những thành tố của văn hoá Việt Nam. Một đặc điểm nổi bật là,
khi Nho - Phật - Đạo vào Việt Nam, người Việt đã có sự thích ứng và dung hoà
các tư tưởng đó cho phù hợp với các giá trị truyền thống dân tộc. Điều đó làm
cho văn hoá Việt Nam không bị mất đi bản sắc dân tộc mình mà còn được bổ
sung, làm phong phú thêm bởi các hệ giá trị đó.
Đầu thế kỷ XVI, văn hoá phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt Nam.
Đầu tiên là Kitô giáo. Có thể nói, ảnh hưởng lớn của Kitô giáo với văn hoá
Việt Nam phải được nhìn nhận ở khía cạnh chữ Quốc ngữ. Với mục đích
truyền đạo, các giáo sĩ đã dùng bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt, tạo ra
chữ Quốc ngữ. Ban đầu người dân Việt Nam phản ứng không dùng chữ này;
về sau các trí thức đã hiểu được cái lợi của chữ Quốc ngữ trong việc nâng cao
dân trí đã ra sức cổ động cho việc dùng chữ Quốc ngữ. Từ chỗ là chữ lưu
hành trong nội bộ đạo Kitô, chữ Quốc ngữ đã là chữ viết của cả dân tộc sử
dụng.
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
20
Đến giữa thế kỷ XIX, văn hoá Việt Nam bắt đầu chuyển động nhanh
hơn do tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Từ thái độ từ chối, người Việt đã
chuyển dần sang tiếp thu một cách tự nguyện các phát minh, sáng chế công
nghiệp cũng như các tư tưởng dân chủ của cách mạng phương Tây và của các
nhà triết học Khai sáng khi nhận thấy sự cần thiết phải canh tân, đổi mới văn
hoá dân tộc. Chính sự tiếp thu đó mà văn hoá Việt Nam có sự thay đổi lớn về
cơ cấu và phát triển đa dạng, phong phú hơn.
Kế thừa truyền thống tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới của dân tộc, Hồ

Chí Minh đã chắt lọc và tiếp thu các nhân tố tích cực của văn hoá phương
Đông và phương Tây, kết hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc để hình
thành nên hệ thống quan điểm sâu sắc về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam cũng xuất hiện những nhà tư tưởng có xu
hướng tiến bộ, muốn cải cách, canh tân văn hoá nhằm đưa đất nước thoát khỏi
tình trạng nô lệ. Nhưng do điều kiện Việt Nam lúc bấy giờ chưa thoát khỏi ý
thức hệ phong kiến nên những tư tưởng canh tân văn hoá không được triều
đình nhà Nguyễn chấp nhận. Nhà Nguyễn vẫn sử dụng Nho giáo là hệ tư
tưởng quan phương nhưng hệ tư tưởng đó đã tỏ ra bất lực trước những vấn đề
lớn của thời đại đặt ra. Những phong trào Văn thân, Cần vương dưới ánh sáng
tư tưởng Nho giáo không giúp các nho sĩ tìm được con đường cứu nước. Vì
vậy, các nho sĩ thế hệ sau với tấm lòng yêu nước của mình tổ chức cuộc vận
động giải phóng dân tộc theo một hệ tư tưởng khác. Trào lưu tư tưởng dân
chủ tư sản qua tân thư và tân văn Trung Quốc của Lương Khải Siêu, Khang
Hữu Vi, các thuyết về nhân đạo, dân quyền của các nhà tư tưởng Pháp như
Rútxô, Môngtexkiơ, Vônte được truyền vào Việt Nam. Tự cảnh tỉnh để đổi
mới, tìm một con đường đi khác, các nhà nho đã từ biệt hệ tư tưởng quen
thuộc của bao nhiêu thế hệ trước, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền. Tiếp nhận tư tưởng văn hoá phương
Tây qua “máy lọc” tư tưởng và văn hoá Trung Hoa, các nhà nho của phong
trào Đông Kinh nghĩa thục đã từ bỏ sự lạc hậu, đến với sự cách tân. Họ vận
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
21
động học chữ Quốc ngữ, hô hào thực nghiệp, bài trừ mên tín dị đoan Phong
trào Đông Kinh nghĩa thục đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng của các nhà nho
Việt Nam, khẳng định Khổng Mạnh không còn là tư tưởng của một lớp người
như giai đoạn trước. Sự thay đổi này đưa đến những nét mới của đời sống văn
hoá tư tưởng. Trong quan niệm của các nhà nho “canh tân”, yêu nước gắn liền
với yêu dân, gắn liền với đoàn kết dân tộc, thống nhất đất nước.

Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, thứ hai của thực dân Pháp
khiến cho xã hội Việt Nam có thêm tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Được tiếp xúc
với những sách báo có nội dung yêu nước và tiến bộ, nhiều trí thức, học sinh,
sinh viên đã nhận ra những cảnh áp bức, miệt thị của thực dân Pháp đối với
người dân Việt Nam. Câu hỏi lớn nhất của thời đại khiến tầng lớp này đi tìm một
hệ tư tưởng có thể giúp họ cứu được dân, được nước. Tư tưởng “tam dân” của
Tôn Trung Sơn không phải không có lúc họ đã tìm đến. Nhưng rồi tầng lớp này
cũng không trả lời được câu hỏi lớn nhất của thời đại.
Mặc dù bị thất bại nhưng những tư tưởng canh tân, tiến bộ, muốn
hướng Việt Nam ra với thế giới bên ngoài để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại nhằm mục đích cuối cùng là cứu nước, cứu dân của các nhà tư tưởng
đầu thế kỷ XX đã tác động rất lớn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thôi thúc Hồ Chí Minh tìm ra một
hướng đi mới để giải phóng dân tộc.
Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào cách mạng Việt Nam. Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở
lý luận quan trọng nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó văn hoá
mácxit có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, với nghĩa, học thuyết cách mạng và khoa
học đó đã trang bị cho Người thế giới quan, phương pháp luận để giao lưu
và tiếp biến văn hoá, làm giàu trí tuệ của mình và văn hoá dân tộc.
Trịnh Thanh Mai
Luận văn Thạc sĩ Triết học
22
Văn hoá mácxit nằm trong nền văn hoá chung của nhân loại và nó là một
trong những dòng tinh tuý nhất, dòng chủ lưu hướng nhân loại đi trên con đường
văn minh. Hồ Chí Minh gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và đã chính thức tin theo học
thuyết đó bằng sự kiện tham gia Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở
Tua vào tháng 12 năm 1920, rồi tiếp tục cảm nhận thêm và vận dụng, làm phong

phú thêm học thuyết đó về sau.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền
tảng của những tri thức văn hoá tinh tuý được chắt lọc, hấp thụ và một vốn
chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được tích luỹ qua thực tiễn hoạt động đấu
tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng
cao khả năng độc lập tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng những nguyên
lý cách mạng của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Người đã khẳng định: “chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của
Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam
ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn” [37, tr.
476].
Hồ Chí Minh tiếp nhận và tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ quả tất
yếu đi tới văn hoá mới, bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách
mạng và khoa học, đem lại nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn, chỉ dẫn
cho con người đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
văn hoá để rồi cuối cùng đi đến giải phóng cho con người.
Như vậy, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Tiếp nhận để luôn luôn phát triển các giá trị văn hoá, đó là nét đặc
sắc của Hồ Chí Minh. Chính vì là một người năng động, biết chắt lọc những giá
trị tinh tuý của văn hoá Đông - Tây mà Hồ Chí Minh là một con người hiện thân
của quốc tế nhưng rất Việt Nam. Tất cả những nền văn hoá đều có và đều hoà
vào trong một con người. Rất tinh nhạy, chỉ một lần trò chuyện với Hồ Chí Minh
mà nhà thơ Xôviết, Ôxip Manđenxtam, đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra

×