1
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Nguyễn Thị Thuý Hằng
Quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong sự phát triển bền vững ở việt nam hiện nay
Luận văn thạc sỹ khoa học triết học
Hà nội - 2006
2
Mục lục
Phần mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 8
6. Đóng góp của luận văn 6
7. ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: Quan niệm của triết học Mác về quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội 9
1.1. Quan niệm của triết học Mác về tự nhiên, về con người 9
1.2. Quan niệm của triết học Mác về phát triển xã hội và phát triển
bền vững 29
1.3 Quan niệm của triết học Mác về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển bền vững.
44
Chương 2: Hiện trạng và giải pháp có tính định hướng về quan hệ giữa con
người và tự nhiên cho sự phát triển bền vững ở việt nam hiện nay 54
2.1 Hiện trạng của quan hệ con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay 54
2.2. Một số giải pháp có tính định hướng về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển
bền vững ở Việt Nam hiện nay 85
Kết luận 97
Danh mục tài liệu tham khảo 99
3
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh
mẽ. Nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu và sự tác
động của chúng đang làm thay đổi sâu sắc sự phát triển mọi lĩnh vực của xã
hội và bản thân con người. Những biến đổi đó đang đặt nhân loại trước thách
thức lớn trên tất cả phương diện - chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường.
Việc chúng ta ứng phó hợp lý hay không trước những thách thức đó có ý
nghĩa quyết định đến tương lai của nhân loại và mỗi dân tộc.
Trong những thập niên vừa qua, sức ép tăng dân số và tăng trưởng kinh
tế cao đi đôi với sự gia tăng khai thác tài nguyên đã để lại hậu quả nặng nề
đối với môi trường tự nhiên của trái đất: sự cạn kiệt tài nguyên, môi trường
suy thoái trầm trọng(mưa axít, ô nhiễm nguồn nước ngọt, tầng ozon bị thủng,
đa dạng sinh học suy giảm, trái đất nóng lên.v.v.). Điều đó đang đe doạ sự
sống trên trái đất. Con người và hành động của con người chính là nguyên
nhân quan trọng của tình trạng nói trên. Con người đang dồn Trái đất đến
những giới hạn của sự cân bằng. Vì vậy, các tổ chức quốc tế và cộng đồng thế
giới đồng loạt đưa ra khẩu hiệu hành động “ Hãy cứu lấy Trái đất”. Trong
mười năm (1992 - 2002) đã có hai Hội nghị Thượng đỉnh quy mô thế giới bàn
về vấn đề đang đặt ra cấp thiết của quan hệ giữa môi trường và phát triển. Tại
những hội nghị này các quốc gia đã thống nhất về việc cần phải chuyển chiến
lược phát triển lấy tăng trưởng kinh tế - xã hội làm trọng tâm sang chiến lược
phát triển bền vững với mục tiêu thiết lập sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường cho hiện tại và cho các thế hệ mai sau.
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước nhằm sớm đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới
chúng ta cũng đang phải đối mặt gay gắt với vấn đề suy thoái môi trường. Vì
vậy, việc nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và những giải pháp cho sự phát
4
triển bền vững, - trong đó thiết lập quan hệ hài hoà giữa con người, sự phát
triển xã hội với môi trường tự nhiên là một trọng tâm lớn, đã trở thành yêu
cầu thúc bách về lý luận và thực tiễn. Nó đòi hỏi không chỉ các quốc gia, cộng
đồng nhân loại, mà mỗi chúng ta với tư cách là cá thể của loài người phải
cùng hành động hướng đến cộng đồng phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là con đường tất yếu Việt Nam đã lựa chọn. Một
trong những minh chứng là Thủ tướng chính phủ ký quyết định số
153/2004/QĐ- TTg (ban hành ngày 17 tháng 8 năm 2004) phê duyệt
“Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam”. Định hướng này được xây dựng
trên 8 nguyên tắc cơ bản và 9 vấn đề ưu tiên mà hội nghị Thượng đỉnh về
môi trường (2002) đã xác định. Trong đó nhấn mạnh những điểm sau đây:
sự phát triển phải lấy con người làm trung tâm; phát triển kinh tế đi đôi với
việc bảo vệ môi trường; quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách
công bằng, hợp lý nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc
sống của các thế hệ tương lai.
Những điều nói trên cho thấy mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
chính là một mắt xích quan trọng nhất của việc giải quyết bài toán về phát
triển bền vững, về chống sự suy thoái môi trường hiện nay. Và đương nhiên
triết học với tư cách là khoa học chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận
cho hoạt động thực tiễn của con người không thể đứng ngoài cuộc.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Con người và tự nhiên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học, cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội - nhân văn.
Nghiên cứu di sản của các tác gia kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
chúng ta thấy: quan hệ giữa con người và tự nhiên đối với sự phát triển xã hội
đã được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác quan tâm từ rất sớm, ngay từ
những tác phẩm của những năm 40 - của thế kỷ XIX, và nhiều kiến giải của
các ông cho đến nay vẫn còn có giá trị.
5
Gần đây vấn đề môi trường và sự phát triển bền vững được cộng đồng
thế giới và các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm, vì sự suy thoái môi trường
sống đang là nguy cơ lớn đe doạ trực tiếp cuộc sống của loài người. Đã có
hàng loạt các hội nghị quốc tế (Stockhon-1972, Belgrade-1975, Tbilisi-1977
và Matxcơva - 1987) chuyên bàn về vấn đề này, nhưng đáng chú ý là Hội
nghị Thượng đỉnh Trái đất năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới năm
2002 do Liên Hợp Quốc chủ trì. ở đó có sự tham gia đông đảo các nguyên thủ
quốc gia thành viên LHQ, có tiếng nói thẩm quyền thể hiện sự đồng thuận cao
của cộng đồng quốc tế về vấn đề môi trường và phát triển. Hội nghị của LHQ
về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro (Braxin) diễn ra từ ngày 3-
13/06/1992 có sự tham gia của 179 nước trong đó 108 đoàn do nguyên thủ
quốc gia dẫn đầu và hơn 1.100 tổ chức phi chính phủ trên toàn thế giới. Hội
nghị đã thông qua 5 văn kiện quan trọng trong đó có “Chương trình nghị sự
21” về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ
XXI. Mười năm sau, ở Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Bền
vững tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, có 166 nước tham gia, Hội nghị
đã thông qua kế hoạch thực hiện phát triển bền vững trên cơ sở khẳng định lại
các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ
“Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững”. Sau hai Hội nghị Thượng
đỉnh nói trên, nhiều tổ chức quốc tế như Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên
nhiên (IUCN), Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) đã tập trung các
chiến lược và kế hoạch hành động của mình vào thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ về phát triển bền vững với những chương trình hành động cụ thể.
Chẳng hạn, các chương trình giáo dục phục vụ cho phát triển bền vững được
triển khai trên phạm vi vùng hay quốc tế: Chương trình Thập Kỷ giáo dục vì
phát triển bền vững của LHQ (2005- 2014); Chương trình giáo dục cho phát
triển Bền vững của UNESCO - UNEP. ở phạm vi quốc gia những nước như
Ôxtrâylia, Canada, Trung quốc, Anh, Hungari cũng đã xây dựng và triển
khai tốt các chương trình giáo dục cho sự phát triển bền vững.
Trong những năm qua ở Việt Nam những hoạt động tương tự rất được
chú ý. Chính phủ đã cử các đoàn cấp cao tham gia các hội nghị quốc tế và
6
thực hiện những cam kết về phát triển bền vững. Ngày 17 tháng 8 năm 2004,
Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 153/2004/QĐ- TTg phê duyệt ban
hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung bao gồm những định
hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và các
cá nhân phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước
trong thế kỷ XXI. Năm 1993, Luật Môi trường đã được ban hành cùng với nó
là các văn bản dưới luật, chỉ thị, nghị định về bảo vệ môi trường. Hội thảo về
“Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam” do Ban Khoa giáo
Trung ương, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Đại học
Quốc gia Hà Nội phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 14/8/2001. Hội thảo đã đề
cập tới những vấn đề như: ô nhiễm môi trường, tác động của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đến môi trường, mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở
bảo vệ môi trường tự nhiên
Trong lĩnh vực nghiên cứu triết học đây cũng là đề tài thu hút sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu. Công trình“Một số vấn đề về triết học- con người -
xã hội” do GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên nhân dịp kỷ niệm 40 năm
thành lập Viện Triết học (1962-2002) và công trình nghiên cứu khoa học do
PGS. TS Hồ Sỹ Quý chủ biên “Con người và phát triển con người trong quan
niệm của C,Mác và Ph.Ăngghen” đã đề cập trực tiếp đến vấn đề này trên
phương diện lý luận, phương pháp luận triết học chung. Công trình nghiên
cứu về “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam” của tập thể
các nhà khoa học Nguyễn Hữu Tăng, Đăng Trung Thuận, Nguyễn Hữu Ninh,
Hồ Ngọc Luật đã tập trung làm rõ những thách thức về môi trường trong quá
trình phát triển xã hội, tiếp cận khái niệm phát triển bền vững và chỉ ra hiện
trạng tài nguyên và môi trường của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước. Công trình nghiên cứu cấp Bộ của Trung tâm
KHXH & NV Quốc gia (1997 - 2000) về “Triết lý phát triển ở Việt Nam” do
GS. Phạm Xuân Nam chủ biên, trong đó có đề tài nhánh “Mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong phát triển xã hội”do PGS. TS Hồ Sỹ Quý làm
7
chủ nhiệm. Những đề tài này từ góc độ khác nhau đã đề cập đến cơ sở triết
học chung về quan hệ con người và tự nhiên trong phát triển xã hội.
Trên tạp trí triết học có những bài viết của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc
Trầm, Đỗ Thị Ngọc Lan đã xem xét vấn đề mối quan hệ con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội từ góc độ đạo đức môi trường, đạo đức sinh
thái.
Tuy nhiên, khung cảnh học thuật nói trên cũng cho thấy đây là đề tài
hãy còn nhiều khoảng trống về lý luận và khái quát thực tiễn. Vì vậy, trong
chừng mực nhất định, có thể nói “Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài vừa có ý nghĩa lý
luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Trong các nghiên cứu triết học đây cũng là
mảng đề tài vẫn còn ít được nghiên cứu ở nước ta mà sự thiếu vắng những
công trình nghiên cứu sâu sẽ là trở ngại lớn cho hoạch định chính sách, chiến
lược phát triển bền vững của đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Lý giải về mặt triết học quan hệ giữa con người và tự nhiên và phân
tích thực trạng mối quan hệ này trong sự phát triển xã hội nước ta hiện nay, từ
đó đưa ra những giải pháp có tính định hướng về phát triển bền vững của xã
hội Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ quan niệm của triết học Mác về mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên đối với sự phát triển xã hội.
Phân tích hiện trạng của sự tương tác giữa con người và tự nhiên ở Việt
Nam hiện nay.
Đề ra những giải pháp có tính định hướng cho việc giải quyết mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên vì sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội Việt
Nam.
8
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Lý luận: Khảo cứu quan niệm của các tác giả kinh điển của triết học
Mác về vấn đề con người, tự nhiên, xã hội và phát triển xã hội, mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội.
Thực tiễn: Khảo cứu hiện trạng sự tương tác giữa con người và tự
nhiên ở Việt Nam từ khi đổi mới (1986) cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của các tác gia kinh điển Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về con người, tự nhiên, môi trường, phát triển xã hội và phát triển bền vững
và kế thừa những thành tựu đã có của các công trình đi trước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong
đó, chú trọng nguyên tắc kết hợp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, khái
quát hoá và trừu tượng hoá Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương
pháp khác: đối chiếu, so sánh, thống kê.
6. Đóng góp của luận văn
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên dưới góc
độ triết học, luận văn đưa ra những giải pháp có tính định hướng cho sự phát
triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy và
nghiên cứu các vấn đề liên quan tới con người, môi trường, phát triển xã
hội.v.v.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
9
Chương 1
Quan niệm của triết học Mác về quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong sự
phát triển xã hội
1.1. Quan niệm của triết học Mác về tự nhiên, về con người
1.1.1. Tự nhiên
Trong những năm gần đây, vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên
đặc biệt thu hút sự chú ý của các nhà khoa học thế giới thuộc nhiều lĩnh vực.
Điều này có lý do của nó: những rủi ro con người đang phải gánh chịu do sự ô
nhiễm môi trường, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự mất cân bằng sinh
thái… Và đó cũng là chủ đề quan tâm của các nhà chính trị, các nhà quản lý
và của người dân. Dù ở những vị trí, lĩnh vực khác nhau họ đang chung sức
tìm cách cải thiện tình trạng khủng hoảng sinh thái, bằng những giải pháp về
khoa học - kỹ thuật, công nghệ, về chính trị - xã hội và quản lý, văn hoá.v.v.
nhằm khắc phục, ngăn ngừa những tác động xấu đối với môi trường thiên
nhiên, khôi phục sự cân bằng, hài hoà mối quan hệ con người và tự nhiên.
Khảo cứu lịch sử triết học, chúng ta thấy, từ rất sớm “Tự nhiên” đã là
chủ đề rất được quan tâm từ những khía cạnh khác nhau: bản thể luận, nhận
thức luận. Nhưng quan trọng hơn đó là những kiến giải về quan hệ giữa con
người và tự nhiên, con người cần có thái độ như thế nào với tự nhiên.v.v. Câu
trả lời của các nhà triết học, các học thuyết dĩ nhiên không giống nhau. Trong
những di sản triết học Mác quan niệm về tự nhiên đã được quan tâm rất sớm,
khảo cứu của các ông cho đến ngày nay vẫn có giá trị định hướng cho những
kiến giải về chủ đề này.
Trong các tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Biện
chứng của tự nhiên, Hệ tư tưởng Đức.v.v. C. Mác và Ph. Ănghen đã lập luận
thuyết phục về tự nhiên trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. C.Mác và Ph. Ăngghen đã dựa vào những thành
tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng
lượng và học thuyết tế bào, lý thuyết tiến hoá của S. Đácuyn, những thành tựu
này đã tạo ra một bước ngoặt mới, cách mạng trong sự phát triển của khoa
10
học tự nhiên, trong sự nhận thức thế giới vật chất. Đồng thời cũng chứng tỏ
rằng sự phát triển của khoa học tự nhiên tất yếu dẫn đến sự phủ định thế giới
quan duy tâm và tôn giáo.
Trước triết học Mác, vấn đề nguồn gốc và bản chất của sự sống, - mà
sản phẩm cao nhất của nó là sự xuất hiện của con người trên hành tinh của
chúng ta, và mối quan hệ của nó với lịch sử tiến hoá của tự nhiên, luôn luôn là
đề tài nóng của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa khoa học và thần học.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, sự sống không phải là hiện
thực vật chất, nó chỉ là sự biểu hiện của một thứ tinh thần cao siêu và phi vật
chất cho nên con người không thể nào nhận thức được sự sống bằng con
đường khoa học. Xét cho cùng, các quan niệm khác nhau đó về nguồn gốc sự
sống đều là những cách nói khác nhau về sự sáng tạo của Thượng đế,. Điều
này có nghĩa là toàn bộ thế giới hữu cơ, từ những sinh vật đơn giản nhất đến
phức tạp nhất đều do thượng đế tạo ra, và ngay khi ra đời chúng đã có cấu tạo
hoàn hảo và thực hiện những chức năng xác định. Cũng như vậy, con người
cũng là sản phẩm đặc biệt của Thượng đế. Khi đã thừa nhận thế giới và chính
mình là do lực lượng siêu tự nhiên, do Thượng đế sáng tạo ra theo một mục
đích đã định sẵn từ trước, thì con người không thể hiểu được nó mà chỉ chấp
nhận những gì đã có, sẵn lòng cam chịu những gì đang và sẽ xảy ra. Quan
điểm tôn giáo đã ăn sâu, bám chắc vào nhận thức của bộ phận nhân loại, nó
còn ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng khoa học. Vì vậy, họ đã đi tìm nguyên
nhân thúc đẩy vạn vật vận động và phát triển từ bên ngoài. Mô tả, phê phán
quan điểm này ăngghen viết: “mọi trật tự được xác định trong giới tự nhiên là
có mục đích theo mục đích luận này thì mèo sinh ra là để ăn chuột, chuột
sinh ra là để bị mèo ăn và toàn bộ giới tự nhiên được sáng tạo ra là để chứng
minh trí tuệ của Đấng tạo hoá ” [37, tr. 467]
Trên thực tế chỉ khi triết học Mác xuất hiện mới đem lại cách giải thích
khoa học và biện chứng về lịch sử tự nhiên, về nguồn gốc của loài người.
Trong tác phẩm “Chống Đuy rinh”, Ph. Ăngghen đã khẳng định: “ Tính
thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền
11
đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống
nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã Tính thống nhất thực sự của thế
giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không
phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát
triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên ”[37, tr. 67). Đây
có thể được coi là luận điểm có ý nghĩa nền tảng để xem xét thế giới nói
chung, trong đó có vấn đề quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. Trong
mệnh đề trên Ph. Ăngghen đã chỉ rõ sự thống nhất của con người và giới tự
nhiên chính là bởi tính vật chất, bởi sự giàng buộc, quy định lẫn nhau giữa
chúng trong sự tồn tại và quá trình phát triển.
Trong triết học Mác tự nhiên theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật
chất tồn tại khách quan. Sự sống là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của
tự nhiên theo những quy luật khách quan. Sự đa dạng của thế giới tự nhiên, -
chẳng hạn thế giới sinh vật, cũng chính là sự khẳng định quan niệm về tính
chỉnh thể thống nhất của giới tự nhiên sống. Sự tồn tại của nó là khách quan,
độc lập với ý thức của con người và được ý thức của con người nhận thức.
Giới tự nhiên có trước khi có con người. Sự phát triển của tự nhiên là quá
trình phức tạp, biện chứng tuân theo những quy luật khách quan, trong đó quy
luật “chọn lọc tự nhiên” được xem là nguồn gốc, động lực và là “người điều
khiển” quá trình tiến hoá. Trong quá trình đó sự xuất hiện của con người là
một bước nhẩy vọt về chất. Theo Ph. Ăngghen, con người với bộ óc biết tư
duy là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá diễn ra hàng triệu năm của tự nhiên.
Nó là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sinh ra được”[37, tr. 475].
Con người là một sản phẩm trực tiếp và cao nhất của sự tiến hoá của tự
nhiên. Dựa vào thành tựu của các khoa học cụ thể, đặc biệt là quan niệm của
Đácuyn về nguồn gốc loài người, triết học Mác đã bác bỏ cách tôn giáo suy
diễn về nguồn gốc thần thánh của con người. Con người có ý thức không phải
là sản phẩm có tính mục đích của sự sáng tạo thần thánh mà là kết quả của sự
phát triển một cách tự nhiên của thế giới vật chất theo những quy luật khách
quan. Với quan niệm như vậy, triết học Mác đã khắc phục được những hạn
chế của các hệ thống triết học trước đó, tự nhiên không còn là lực lượng
12
huyền bí đối với con người. Nó là thế giới vật chất tồn tại khách quan, luôn
vận động và phát triển.
Đối với chủ nghĩa Mác khái niệm tự nhiên còn được xem xét trong mối
quan hệ tự nhiên và con người. Giới tự nhiên như là “thân thể vô cơ của con
người”: “Giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân
nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người.
Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể
của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường
xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của
giới tự nhiên”[43, tr. 135]. Tác giả cũng rất tán thành ý kiến của PGS. Hồ Sỹ
Quý trong cuốn: Triết lý phát triển ở Viêt Nam mấy vấn đề cốt yếu đại ý cho
rằng: Quan điểm này là rất khác so với nhiều học thuyết triết học trước đó, và
ngay cả với một truyền thống triết học phương Đông - triết lý con người hoà
hợp với tự nhiên, coi con người và giới tự nhiên là một thể thống nhất, là
“thiên nhân hợp nhất”. Song về thực chất những quan niệm phương Đông nói
trên cũng chưa đạt đến mức coi tự nhiên là thân thể của con người. Có thể nói
trong lịch sử triết học phải đến triết học Mác quan niệm về sự gắn kết giữa
con người và tự nhiên mới đạt tới quan niệm đầy đủ, khoa học, biện chứng.
Với sự xuất hiện và tác động của con người tự nhiên không còn là “tồn
tại thuần tuý” như trước nữa. Tự nhiên đã có những biến đổi do hoạt động của
con người khi nó bị khai thác và cải biến theo yêu cầu của con người. Đó là
nghĩa trong hàm ý của khái niệm “tự nhiên thứ hai” của Mác. Nhưng để tồn
tại và phát triển con người không thể sống ngoài tự nhiên vì tự nhiên đã có tất
cả những gì mà con người cần cho sự tồn tại của mình. Nó là môi trường cho
con người tồn tại. Vấn đề này C. Mác viết: “Ban đầu bản thân giới tự nhiên là
cái kho chứa mà trong đó con người cũng là tiền đề với tính cách là sản phẩm
của tự nhiên - kiếm được những sản phẩm có sẵn của tự nhiên để tiêu dùng,
cũng như con người tìm được trong những khí quan của cơ thể bản thân mình
những tư liệu sản xuất đầu tiên để chiếm hữu những sản phẩm đó. Tư liệu lao
13
động, tư liệu sản xuất với tính cách là sản phẩm đầu tiên do con người sản
xuất ra, những hình thức đầu tiên của sản phẩm đó thí dụ như hòn đá.v.v
con người cũng thấy trong tự nhiên ”[45,tr.110].
Tuy con người cũng là sản phẩm của giới tự nhiên, nhưng từ khi xuất
hiện nó đã làm thay đổi tự nhiên. Con người đã “chiếm hữu” và “cải biến”
những sản phẩm của tự nhiên để phục vụ cuộc sống của mình. Như vậy, khi
chưa có con người, giới tự nhiên vẫn tồn tại, không bị chế ước bởi một thế lực
nào khác ngoài quy luật của chính nó. Khi có con người, giới tự nhiên vẫn tồn
tại nhưng nó bắt đầu bị chi phối bởi sự hoạt động của chính con người, nhằm
duy trì cuộc sống của con người. Khác biệt với tất cả các loài khác, con người
quan hệ với giới tự nhiên như là với “thân thể của mình”, với con người giới
tự nhiên không còn là giới tự nhiên chung chung nữa mà là giới tự nhiên
hiện thực của con người. C.Mác không giống với những nhà siêu hình trước
ông hoặc cùng thời với ông. Họ chỉ coi tự nhiên vốn đã thế, mãi là thế. Với
C.Mác nhìn nhận giới tự nhiên tồn tại trong sự vận động, biến hoá và phát
triển. Trong quá trình vận động, phát triển đó con người đã xuất hiện như một
sản phẩm của giới tự nhiên. Con người là một hiện tượng của giới tự nhiên,
một mặt thể hiện sự vận động, biến đổi của tự nhiên, mặt khác khi con người
xuất hiện chính con người đã tác động trở lại giới tự nhiên( khai thác tự
nhiên), đã làm biến đổi chính cái nôi đã sinh ra mình. Giới tự nhiên đã ngày
càng in đậm dấu ấn của con người. Trong Bản thảo kinh tế triết học năm
1844, C.Mác viết: “Tự nhiên sinh thành trong lịch sử loài người - trong hành
vi xuất hiện của xã hội loài người - là tự nhiên hiện thực của con người - cho
nên tự nhiên như nó đang sinh thành - mặc dầu dưới hình thức tha hoá - nhờ
công nghiệp là tự nhiên nhân bản chân chính”[43, tr. 178]. Theo ông kể từ khi
xuất hiện con người và loài người, đặc biệt là từ khi xuất hiện nền văn minh
công nghiệp, giới tự nhiên có lịch sử của nó, - nghĩa là nó bị biến đổi, - là cái
“tự nhiên sinh thành trong lịch sử loài người ”. Nó khác hẳn với giới tự nhiên
tự nó trước đó. Sự phát hiện này rất có ý nghĩa đối với sự phát triển của khoa
học nói chung. Nó loại bỏ quan niệm siêu hình cho rằng giới tự nhiên dù ở
giai đoạn trước hay sau khi xuất hiện con người và xã hội loài người, dù tồn
14
tại dưới những tác động phức tạp của con người thì cũng vẫn vận động tuân
theo những quy luật khách quan vốn có của nó còn sự có mặt của con người
trong vũ trụ hình như không làm thay đổi tự nhiên.
Triết học Mác còn chỉ ra con người là chủ thể trong quan hệ với giới tự
nhiên. Giới tự nhiên được coi là có giá trị sử dụng khi nó được sử dụng như
một phương tiện nhằm thoả mãn nhu cầu và mang lợi ích nào đó cho con
người. Đặc điểm của giá trị sử dụng của tự nhiên phụ thuộc vào nhu cầu và
lợi ích của con người, một khi nhu cầu của con người thay đổi thì giá trị sử
dụng của các khách thể tự nhiên cũng thay đổi theo. Với những trình độ phát
triển xã hội khác nhau thì nhu cầu và cách đáp ứng nhu cầu của con người
cũng khác nhau, nó bị chi phối bởi trình độ của lực lượng sản xuất, của công
cụ lao động. Trong nhiều trường hợp để thoả mãn nhu cầu của mình con
người không những đã khai thác, tận dụng triệt để giá trị sử dụng của khách
thể tự nhiên mà còn xâm hại đến tự nhiên làm cho tự nhiên “bị tha hoá”. ứng
với những trình độ phát triển xã hội khác nhau tự nhiên cũng bộc lộ ra khác
nhau. Trong xã hội nguyên thuỷ về căn bản tự nhiên không bị “xuyên tạc”,
nhưng xã hội công nghiệp tự nhiên bị “tha hoá”. ở đây C. Mác đã đề cập đến
giới tự nhiên như nó “đang sinh thành dưới tác động của công nghiệp” tức là
dưới tác động của con người và xã hội loài người mà C. Mác gọi là “giới tự
nhiên hiện thực của con người”. Mặc dù C. Mác gọi đó là “giới tự nhiên nhân
bản chân chính”song ông lại thừa nhận giới tự nhiên ấy đang tồn tại dưới hình
thức “tha hoá”.
Tự nhiên vốn là cái nôi sinh thành, vốn là sự sống của con người. Tự
nhiên không mang tính thiện cũng không mang tính ác. Trong mối quan hệ
đạo đức giữa con người với giới tự nhiên chỉ có con người chủ động quan hệ
và tác động lên tự nhiên và cũng chỉ có con người mới biết mình đạt tới lợi
ích. Con người mới là chủ thể của tính thiện và tính ác. Con người với tất cả
phẩm chất của một sinh vật có ý thức đã bộc lộ bản chất của mình trong quá
trình khai thác, sử dụng tự nhiên để thoả mãn nhu cầu, ước muốn của mình.
Con người đã tác động vào tự nhiên với tư thế của người làm chủ. Và ở tư thế
ấy, con người nhiều khi đã quên mất vai trò của người mẹ đã sinh ra mình.
15
Làm cho người mẹ ấy bị tổn thương. Hệ quả là mối quan hệ giữa người mẹ -
giới tự nhiên và đứa con - con người - cũng bị biến dạng.
Do vậy, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên cứ dần dần được tích
luỹ, đến một lúc nào đó sẽ vượt quá mức chịu đựng của tự nhiên thì khi đó tự
nhiên sẽ “trả thù” lại con người. Tuy nhiên, mức độ “trả thù” của tự nhiên đối
với con người không phải ở thời đại nào cũng giống nhau. Điều này còn phụ
thuộc vào mức độ, cách thức can thiệp của con người vào giới tự nhiên. Khi
phương thức sản xuất đạt tới trình độ phát triển cao, càng cho phép con người
can thiệp sâu vào giới tự nhiên thì mức độ huỷ hoại tự nhiên càng nhiều. Khi
đó tự nhiên sẽ đáp trả con người tương ứng với những gì con người đã tác
động đến tự nhiên. Đó là một nghịch lý. Tự nhiên là điều kiện, là môi trường
để cho con người sống, tồn tại và phát triển nhưng tự nhiên cũng có thể huỷ
diệt con người. Xét đến cùng mọi hiện tượng của giới tự nhiên tác động đến
con người mà C.Mác gọi là tự nhiên “trả thù” đều có nguyên nhân từ hành
động, suy nghĩ của con người trong cách đối xử, tương tác với tự nhiên.
Triết học Mác nhìn thấy và chỉ ra được mối quan hệ biện chứng giữa con
người và tự nhiên. Bản chất của mối quan hệ này luôn là khách quan, tuân
theo quy luật. Và ở đó con người không thể tuỳ tiện khai thác tự nhiên bất
chấp quy luật. Hậu quả của sự bất chấp đó là vô cùng lớn. Không phải tự
nhiên tồn tại một cách chung chung mà tự nhiên tồn tại trong mối liên hệ
tương sinh, không tách rời khỏi con người. Giới tự nhiên là cái nôi sinh ra con
người nhưng khi con người được sinh ra thì chính con người quay lại thay đổi
giới tự nhiên. Cái gì đã giúp con người làm được điều kỳ diệu đó, mà tất cả
các sinh vật khác không thể làm được. Để làm rõ vấn đề hơn nữa ta đi vào
xem xét quan niệm của triết học Mác về con người.
1.1.2. Con người
Con người từ thời cổ đại đã là đề tài luôn thu hút sự chú ý trong triết
học. Những câu hỏi liên quan đến sự hình thành và hoàn thiện của con người
luôn được đặt ra và không bao giờ cũ: Con người từ đâu sinh ra? ý nghĩa cuộc
sống của con người là gì? Tự nhiên và xã hội có ý nghĩa như thế nào đối với
16
con người? Con người có thể làm chủ được tự nhiên, xã hội và ngay chính
bản thân mình hay không?.v.v.
Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi
giáo nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí
hoặc nhị nguyên luận. Triết học Phật giáo cho rằng con người chính là sự kết
hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống của con người ở trần
thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con người khi còn sống chỉ là sống
tạm, sống gửi. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết Bàn, nơi tinh
thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Kiến giải về con người Khổng Tử nhấn mạnh bản chất con người do
“Thiên mệnh” chi phối, đức “Nhân”chính là giá trị cao nhất của con người,
đặc biệt là người quân tử.
Tuân Tử lại cho rằng, bản chất con người sinh ra là ác nhưng tính ác
này có thể cải biến được và con người phải chống lại cái ác thì mới tốt được.
Đổng Trọng Thư đã kế thừa quan niệm của Nho giáo theo hướng duy tâm cực
đoan. thì lại cho rằng trời và con người có thể hoà hợp với nhau.
Lão Tử là nhà triết học đại diện cho trường phái Đạo gia cho rằng con
người sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo lẽ tự
nhiên thuần phác không hành động giả tạo, gò ép trái với quy luật của tự
nhiên.
Triết học phương Đông quan tâm đến vấn đề con người từ các phương
diện chính trị, đạo đức, nhưng điều đó không có nghĩa vấn đề quan hệ con
người và tự nhiên không được chú ý. Về cơ bản, con người trong triết học
phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm và có sự đan xen với yếu tố duy vật.
Trong triết học phương Tây trước Mác con người cũng là đối tượng
được đặc biệt chú ý. Các trường phái triết học tôn giáo như Kitô giáo con
người được xem xét trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Thượng đế sinh
ra con người, cuộc sống của con người do một đấng tối cao sắp đặt. Con
người phải biết chấp nhận số phận. Trong con người không chỉ có thể xác mà
còn có cả linh hồn. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn mãi mãi. Vì vậy,
cần phải chăm sóc tốt phần linh hồn để hướng tới Thiên đường vĩnh cửu.
17
Trong triết học Hy Lạp cổ đại con người là chủ đề lớn của những suy tư
triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn
nhau. Con người là tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Điển hình là quan niệm của
Arixtốt cho rằng chỉ có linh hồn, tư duy, ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm
cho con người nổi bật lên. Triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu có sự phân biệt
con người với tự nhiên, coi nó là yếu tố bên ngoài tồn tại con người.
Triết học thời kỳ Phục hưng, Cận đại lại tập trung chú ý đến vai trò trí
tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Tuy
nhiên, để nhận thức đầy đủ bản chất của con người cả về mặt sinh học và mặt
xã hội thì chưa có trường phái triết học nào đạt tới.
Đến triết học thời kỳ cổ điển Đức với những đại biểu nổi tiếng như
Cantơ, Hêghen và Phoiơbắc đã có những quan niệm tiến bộ về con người.
Hêghen đóng góp lớn trong việc khẳng định vai trò chủ thể của con người đối
với lịch sử đồng thời chỉ ra được con người còn là kết quả của sự phát triển
lịch sử. Phoiơbắc thì cho rằng con người là sản phẩm của sự phát triển của thế
giới tự nhiên, nó là sản phẩm đặc biệt. Con người và tự nhiên thống nhất
không thể tách rời. Mặc dù các nhà triết học cổ điển Đức có những bước tiến
hơn so với các hệ thống triết học trước đó trong quan niệm về con người. Tuy
nhiên, họ cũng không đưa ra được một quan niệm khoa học, khách quan về
con người, bản chất của con người. Hêghen theo khuynh hướng của chủ nghĩa
duy tâm. Phoiơbắc rơi vào chủ nghĩa duy vật siêu hình. Ông không thấy được
bản chất xã hội trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều
kiện lịch sử cụ thể. Con người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và
trừu tượng.
Một cách khái quát, vấn đề con người hầu như được các nền triết học
quan tâm, kiến giải, - mặc dù các ý kiến khác nhau, nhưng ở mức độ này hoặc
khác đã đóng góp giá trị nhất định cho tư duy triết học về con người. Tuy
nhiên, do hạn chế về thế giới quan và điều kiện lịch sử mà quan niệm về con
người trong nhiều học thuyết triết học vừa mang tính phiến diện, lại mang
tính trực quan thậm chí rơi vào siêu hình: không thấy được sự thống nhất cái
sinh học và cái xã hội trong con người, bản chất xã hội của con người, con
18
người với tư cách chủ thể gắn với thực tiễn, xem con người là cái vốn có, bất
biến .v.v.
Cần phải thay thế những quan điểm duy tâm, siêu hình nói trên bằng
một quan niệm đúng đắn về con người trong các quan hệ hiện thực của nó.
Với sự xuất hiện chủ nghĩa Mác, một quan điểm duy vật triệt để về vấn đề
con người đã được giải quyết một cách căn bản.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua tất cả các quan niệm trừu tượng về
con người và đưa ra cách tiếp cận mới về con người: con người hiện thực trên
tinh thần của chủ nghĩa duy vật. Hai ông đã khẳng định chỉ xem xét con
người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu đúng về con người, hiểu đúng
bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể. Triết học
Mác cho rằng nếu như không xuất phát từ con người kinh nghiệm thì chúng ta
không có được quan niệm đúng đắn về con người và “con người sẽ mãi mãi
chỉ là nhân vật hư ảo nếu cơ sở của nó không phải là những con người mang
tính kinh nghiệm” [40, tr. 22]. Để đi tới nhận thức con người hiện thực, C.
Mác và Ph.Ăngghen đã lấy hoạt động thực tiễn của con người làm điểm xuất
phát. Chính từ trong thực tiễn mà con người có quan hệ với tự nhiên (nhận
thức, cải tạo tự nhiên) khi đó các quan hệ xã hội của con người được hình
thành. Thông qua thực tiễn con người làm biến đổi hiện thực xã hội đồng thời
làm biến đổi chính bản thân mình.
Trong phạm vi của đề tài luận văn này, chúng tôi tiếp cận quan niệm
của triết học Mác về con người dưới những góc độ sau:
Thứ nhất, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, sản phẩm
của tự nhiên. Con người là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên. Nó
có nguồn gốc từ động vật, thoát thai từ động vật. Vì vậy, con người liên hệ
giàng buộc hữu cơ với thế giới động vật về cơ thể, di truyền, tổ chức tế bào
.v.v. Chính sự tiến hoá của tự nhiên đã tạo ra tiền đề sinh học cho sự ra đời
của con người. Tự nhiên là môi trường, là điều kiện hoạt động, tồn tại và phát
triển của con người. Điều đó, như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, nó được chứng minh
bằng sự phát triển “lâu dài và khó khăn” của triết học và khoa học tự nhiên.
19
Con người với bộ óc biết tư duy là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá
của giới tự nhiên, là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra
được ”[37, tr. 475]. Nguồn gốc tự nhiên của con người đòi hỏi về mặt bản
tính nó không thể đối lập với giới tự nhiên. Con người chịu sự chi phối của
môi trường tự nhiên và các quy luật nghiêm ngặt của tự nhiên. Con người
không thể nằm ngoài sự tác động, chi phối của các quy luật tự nhiên nói
chung, các quy luật sinh học nói riêng. Chúng có ảnh hưởng lớn đến hành vi
của con người. Điều này có nghĩa giữa con người với giới tự nhiên có mối
quan hệ biện chứng với nhau, ràng buộc lẫn nhau. C.Mác cho rằng đời sống
của con người không những được duy trì nhờ vào giới tự nhiên mà hơn thế
nữa, giới tự nhiên còn là nguồn gốc của đời sống con người. Nếu con người
không tự sáng tạo ra bản thân mình thì tất nhiên kẻ sáng tạo ra bản thân con
người phải ở bên ngoài con người. Kẻ đó chính là giới tự nhiên.
Thứ hai, đối với con người giới tự nhiên chính là thân thể vô cơ của
mình. Giới tự nhiên là bộ phận cấu thành nên con người trong sự sống, trong
hoạt động và tồn tại của con người. Giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp
đối với con người không những thế giới tự nhiên còn là vật liệu, đối tượng và
công cụ của hoạt động sinh sống của con người. Trong tác phẩm “Bản thảo
kinh tế triết học năm 1844” C.Mác đã thể hiện rất rõ tư tưởng này: “Giới tự
nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là
thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống
bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người,
thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao
tiếp để tồn tại ”[43, tr. 135]. Với tư cách là thực thể tự nhiên, hơn nữa lại là
thực thể tự nhiên sống con người một mặt được phú cho sức mạnh tự nhiên
dưới hình thức năng lực thiên bẩm, năng khiếu, nhưng mặt khác con người
cũng bị quy định và hạn chế bởi những đối tượng tự nhiên bên ngoài, những
đối tượng không phụ thuộc vào con người nhưng lại cần thiết và căn bản để
con người tồn tại và phát triển. Vì vậy, mọi tác động của con người đến giới
tự nhiên đều có nghĩa là tác động đến thân thể của mình. Làm tổn hại đến tự
nhiên có nghĩa là làm tổn hại đến chính con người. Sự tồn tại của con người
20
bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện tự nhiên nhất định và hơn nữa con
người tồn tại với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên, không tách khỏi
giới tự nhiên: “về mặt thể xác thì ở con người cũng giống như ở con vật, đời
sống có tính loài là ở chỗ con người cũng như con vật, sống bằng giới tự
nhiên vô cơ, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con người, cả
đời sống thể xác cũng như đời sống tinh thần của con người của con người
đều gắn với tự nhiên” [43, tr. 134 - 135].
Tuy nhiên, cái khác biệt trong quan niệm của triết học Mác về con
người so với các hệ thống triết học trước là ở chỗ sự tồn tại của con người dựa
trên quá trình sản xuất vật chất, dựa trên sự cải tạo thế giới vật chất một cách
thực tiễn, nghĩa là ở đây tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người
khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó còn
hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội
và tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể
hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người không phải là
hoạt động bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy của con
người phát triển trong quá trình hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là
trong hoạt động sản xuất.
Thứ ba, “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội”[32, tr. 11].
Đây là luận điểm quan trọng nhất thể hiện tính khoa học của học thuyết
về con người của chủ nghĩa Mác so với các học thuyết triết học khác. Theo
Mác, bản chất con người không phải là cái trừu tượng mà là hiện thực, nó
không có sẵn ở mỗi cá thể như là yếu tố di truyền, mà nó là kết quả của sự xã
hội hoá của con người trong đời sống xã hội. Nó là tổng hoà các quan hệ xã
hội hiện thực, - các quan hệ xã hội không phải là cái tự nhiên sinh học mà là
cái lịch sử - xã hội.
Như vậy, muốn hiểu con người, bản chất của con người thì ta phải tìm
hiểu những quan hệ biểu hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của con
người. Chính xuất phát từ cách tiếp cận này mà C. Mác đã chỉ ra được hạn
chế trong quan niệm của các nhà triết học trước ông về con người, bản chất
21
của con người. Và đối với C.Mác ngay cả khi thừa nhận con người tồn tại
trong tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ
của con người, C.Mác vẫn luôn cho rằng con người:“đó là những cá nhân
hiện thực, là hoạt động của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như
những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”[32, tr. 29].
ở đây yếu tố căn bản nhất quy định sự hoàn thiện của con người, theo
quan niệm của chủ nghĩa Mác, đó là lao động. Để tồn tại con vật cũng phải
kiếm sống nhưng cách kiếm sống của chúng khác hẳn với hoạt động của con
người: “Cố nhiên con vật cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó, như
con ong, con hải ly, con kiến Nhưng con vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó
hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong khi con
người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi nhu
cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi nhu cầu thể xác
không bị ràng buộc” và C.Mác nhấn mạnh “súc vật chỉ tái sản xuất ra bản
thân mình còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”[42, tr. 137].
Hơn thế nữa việc tái sản xuất của con người không chỉ nhằm giải quyết những
nhu cầu vật chất mà vì nhu cầu tinh thần. Con vật tự đồng nhất với hoạt động
sinh sống của nó, còn con người thì biến bản thân hoạt động sinh sống của
mình thành đối tượng của ý thức của mình. Con người sống trong tự nhiên
gắn bó chặt chẽ với tự nhiên là bộ phận và là sản phẩm phát triển cao của tự
nhiên nhưng khác hẳn với con vật là ở chỗ con người không lệ thuộc bản
năng vào tự nhiên. Con vật chỉ biết dựa vào tự nhiên vì nhu cầu sinh tồn và
khi những điều kiện tự nhiên thay đổi thì con vật trở nên bị động, có thể bị
diệt vong. Con người thì khác, hoạt động của con người là hoạt động có ý
thức, là lao động, nhờ lao động mà con người chủ động sống trong tự nhiên,
không lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc thù của con
người. Thông qua lao động con người không chỉ biến đổi giới tự nhiên theo
mục đích của mình mà còn biến đổi chính bản thân mình. Nhờ có lao động
mà con người ngày càng phát triển, ngày càng hoàn thiện. Nhận thức của con
người về thế giới khách quan ngày càng sâu sắc, giúp cho khả năng chinh
phục tự nhiên ngày càng có hiệu quả. Lao động giúp con người tạo ra những
22
sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình, đồng thời cũng thông qua lao động
bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra. Đó là những nhu cầu
khách quan để duy trì cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại của con người và để
thoả mãn những nhu cầu này con người phải hành động, song những hành
động vì cuộc sống của con người không phải là những hành động bản năng,
hành động sinh vật đơn giản mà hành động của con người bao giờ cũng
mang tính xã hội.
Theo C.Mác bằng hoạt động lao động của mình con người đã làm biến
đổi bản chất tự nhiên của mình để tạo ra bản chất xã hội. Con người không
chỉ sống trong môi trường tự nhiên mà còn sống trong môi trường xã hội, nên
cái tự nhiên và cái xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau.
Hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động lao động sản xuất, hoạt động
cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động này con người
cải tạo chính bản thân mình, làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Chính
hoạt động lao động đã làm con người thay đổi và làm cho nó trở nên có tính
người.
Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội có nghĩa là cái
tạo nên bản chất của con người là các quan hệ xã hội, bản chất con người
chỉ hình thành và được thể hiện trong các quan hệ xã hội, những quan hệ
xã hội ấy chi phối, quyết định hành vi của con người trong đời sống hiện
thực, quyết định phẩm chất và cuộc sống của con người. Tách khỏi đời sống
xã hội, khỏi môi trường văn hoá xã hội, con người không thể hình thành và
phát triển bản chất của mình được. Con người chỉ tồn tại thực sự, tồn tại với
tư cách Người nếu đặt trong mối quan hệ xã hội. Xã hội và những quan hệ xã
hội là điều kiện để con người thể hiện những bản tính phong phú và tư duy
sáng tạo của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen rất lưu ý một vấn đề rằng, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội không có nghĩa là số cộng đơn
thuần mà chính là sự thu hút, đúc kết những tinh tuý từ những quan hệ xã hội
của con người.
Tuy nhiên, xã hội không phải là nhất thành bất biến. Bởi vì, xã hội
được tổ chức theo cách này hay cách khác là do sự phân công lao động, xét
23
đến cùng do sự phát triển của công cụ lao động. C.Mác và Ph. Ăngghen cho
rằng sức mạnh mà con người có được trước tự nhiên không phải thời đại nào
cũng giống nhau. Cùng với con người, công cụ lao động cũng là một thành tố
cơ bản của lực lượng sản xuất, nó là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức
mạnh của tri thức đã được vật thể hoá ” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân
lên sức mạnh trí tuệ của con người. Trong mọi thời đại, công cụ sản xuất luôn
là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện năng lực thực tiễn của
con người ngày một tăng thêm. Trình độ phát triển của công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Chính sự chuyển đổi,
cải tiến và hoạt động không ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc
trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng đó là nguyên nhân sâu xa của
mọi biến cải xã hội, làm thay đổi các quan hệ xã hội. C.Mác đã thể hiện tư
tưởng rất sâu sắc này trong tác phẩm “Sự khốn cùng của Triết học”. C.Mác
đã viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng
sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách
kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[33, tr. 187].
Để làm rõ vấn đề này, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cần phải xuất phát
từ quan niệm về phương thức sản xuất với tư cách là cơ sở của sự phát triển
xã hội. Từ quan niệm về mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất với tư cách là cơ chế vận động nội tại của phương thức sản
xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho quan niệm của các
ông về hoạt động sinh hoạt, hoạt động xã hội của con người. Con người với tư
cách là chủ thể hiện thực của quá trình lịch sử - xã hội, mọi cái diễn ra trong
xã hội đều tồn tại, đều diễn ra trong hoạt động và thông qua hoạt động của
con người. Nhưng trong hoạt động của mình, con người được quy định bởi
tổng thể các lực lượng sản xuất hiện có, bởi những quan hệ sản xuất và giao
tiếp hình thành trên cơ sở của lực lượng sản xuất, đến lượt mình những quan
hệ này lại quy định hệ thống các hệ tư tưởng, hệ chính trị đa dạng. Chỉ có trên
24
cơ sở tính đến tất cả những yếu tố đó mới có thể hiểu được tính chất, khuynh
hướng và các kết quả hoạt động của con người, mới có thể nhận thức được cái
nội dung đã được hình thành và bộc lộ trong hoạt động đó.
Như vậy, muốn làm rõ quan niệm của triết học Mác về con người, bản
chất của con người cần phải đề cập tới quan niệm của các nhà kinh điển về
mối tương quan giữa con người và những điều kiện sinh hoạt của họ. Có thể
nói đây là một vấn đề rất cần chú ý trong quan niệm của triết học Mác để
nhận thức tính chất và các cơ chế vận động của lịch sử con người, bác bỏ
quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ cho rằng “con người là sản phẩm của
hoàn cảnh”, C.Mác cho rằng “chính con người làm thay đổi hoàn cảnh”của
mình.
Bản chất của con người không phải là cái bất biến, nó thay đổi theo
sự biến đổi của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, mệnh đề này không được
quan niệm một cách siêu hình. Con người bao giờ cũng gắn với đời sống xã
hội hiện thực, với những quan hệ xã hội cụ thể, mà những quan hệ xã hội tạo
nên bản chất con người không phải hình thành một lần là xong, không phải là
có sẵn, bất biến mà có quá trình hình thành và biến đổi. Điều đó phụ thuộc
trước hết vào sự hình thành và biến đổi của các quan hệ kinh tế - xã hội ở mỗi
giai đoạn lịch sử, mỗi dân tộc, giai cấp, thời đại. Muốn thay đổi bản chất con
người thì phải thay đổi những mối quan hệ xã hội, và điều có ý nghĩa quyết
định trong việc cải tạo con người là phải cải tạo những quan hệ xã hội. Và kẻ
thực hiện tất cả những thay đổi đó lại chính là con người.
C.Mác không chỉ vạch ra cái bản chất tộc loại chung của con người để
phân biệt con người với con vật, mà quan trọng hơn ông còn vạch ra cái bản
chất cụ thể - xác định của con người, để cùng với quá trình cải tạo tự nhiên và
xã hội thì cũng cải tạo bản chất, nâng con người lên vị trí đích thực. Theo đó
cùng với việc làm rõ bản chất con người nói chung, chúng ta cần phải làm rõ
bản chất ấy biến đổi như thế nào trong mỗi thời đại lịch sử. Bản chất con
người chính là cái chung của con người, nhưng trong mỗi thời đại lịch sử bản
chất ấy lại có những nét riêng của nó. Cái chung và cái riêng thống nhất biện
chứng với nhau, chuyển hoá cho nhau. ở những thời đại khác nhau, bản chất
25
con người hiện ra với những đặc điểm khác nhau. Điều này được lý giải bởi
xã hội loài người luôn luôn vận động mà con người là sản phẩm của xã hội, vì
thế nó cũng biến đổi theo sự biến đổi của xã hội. Con người của thời đại nào
thì mang dấu ấn của thời đại ấy.
Tóm lại, theo C.Mác con người không phải là cái gì trừu tượng, mà là
sản phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con người đó là
con người hiện thực, con người cụ thể, cảm tính, bản chất của con người hiện
ra, tồn tại và phát triển trong lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên và đấu
tranh giai cấp, cải tạo xã hội Bản chất con người do những mối quan hệ xã
hội của chính con người quy định.
Thứ tư, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh vừa là chủ thể
sáng tạo của lịch sử. Mặc dù lao động sản xuất đã sáng tạo ra con người, đã
quyết định sự hình thành con người và ý thức con người. Mặc dù con người
cũng có chung nguồn gốc như con vật, đều là sản phẩm của giới tự nhiên
nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người hoàn toàn khác với con vật:
“Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn
bộ giới tự nhiên” [43, tr. 137]. Bằng hoạt động thực tiễn, con người cải tạo tự
nhiên, thống trị tự nhiên, biến đổi bộ mặt tự nhiên, tạo ra “tự nhiên thứ hai”.
Bắt tự nhiên phục vụ con người. Vị thế của con người là vị thế của người làm
chủ, có ý thức, có tri thức, có tình cảm. Vì vậy, con người nhận biết được nhu
cầu của mình, tạo ra những phương tiện, công cụ, cách thức thoả mãn nhu
cầu. Con người biết tạo ra và biết tổ chức các hoạt động để thực hiện mục
đích, chủ đích của mình. Cho nên, hoạt động thực tiễn của con người là hoạt
động có tổ chức. ở vị trí chủ thể trong quan hệ với tự nhiên, con người tự
nâng mình cao hơn giới tự nhiên vì con người ý thức được về mình, ý thức
được về đối tượng sẽ tác động. Khi con người xác định được mục tiêu,
phương hướng hoạt động thì con người cũng sẽ tìm ra được phương pháp,
cách tổ chức hoạt động sao cho có hiệu quả: “Loài người càng cách xa loài
vật thì tác động của con người vào tự nhiên càng mang tính chất một hoạt
động có tính toán trước, có kế hoạch, hướng vào những mục đích nhất định,
được biết trước ”[37, tr. 625] và “Chỉ có con người mới là đạt được đến chỗ