Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quan niệm của Môngtexkiơ về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.15 KB, 82 trang )




Viện Khoa học xã hội việt nam

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội
và nhân văn

Viện Triết học


nguyễn thị thu h-ơng



quan niệm của Môngtexkiơ về xã hội
công dân và nhà n-ớc pháp quyền





Luận văn Thạc sĩ triết học






Hà Nội - 2006




2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị nhân loại, vấn đề xã hội công dân (“xã
hội dân sự” - thuật ngữ đƣợc sử dụng ở nƣớc ta gần đây) và nhà nƣớc pháp
quyền đã đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Ngay từ thời cổ đại,
vấn đề này đã đƣợc đề cập trong triết học của Platôn, Arixtốt… Sự hình thành
nhà nƣớc pháp quyền, nhƣ nhiều nhà khoa học đã khẳng định, gắn liền với sự
phát triển dân chủ, mà chủ yếu là với vấn đề bảo đảm sự thống trị của pháp
luật trong đời sống xã hội. Tƣ tƣởng này không phải là mới, song nhiều năm
nay, nó lại gần nhƣ bị lãng quên, bởi ngƣời ta coi đó là phạm trù của nhà nƣớc
tƣ sản và do vậy, là xa lạ với chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền, trong đó
công dân đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Đây là một công việc đầy khó
khăn, đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các thành viên trong xã hội. Đặc biệt, đối
với những nhà nghiên cứu triết học ở nƣớc ta thì việc tìm hiểu lý luận về xã
hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền đƣợc đặt ra nhƣ là một trong những
nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng hàng đầu. Bởi, xây dựng Nhà nƣớc của
dân, do dân và vì dân luôn đƣợc Đảng và nhà nƣớc ta đặt ra ngay từ khi
thành lập, ngày càng thể hiện rõ phẩm chất và những đặc trƣng của một
Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp và hệ thống pháp
luật của chúng ta ngày càng đƣợc bổ xung và hoàn thiện không chỉ phù hợp
với những đặc thù của sự phát triển đất nƣớc, mà còn hƣớng tới sự phù hợp
với hệ thống công ƣớc quốc tế. Đây là cơ sở để chúng ta hội nhập quốc tế
trong quá trình toàn cầu hóa. Nƣớc ta, mặc dù phải trải qua nhiều cuộc chiến
tranh khốc liệt với nhiều hy sinh, mất mát và giờ đây, vẫn đang trong tình

trạng của một nƣớc chậm phát triển, nhƣng chủ trƣơng xây dựng đất nƣớc
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh vẫn đƣợc khẳng định.


3
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định “Nhà
nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, và nhấn mạnh: “Cần xây
dựng cơ chế vận hành của nhà nƣớc, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nƣớc đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tƣ pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các
quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát,
kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền”[12, tr.45]. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nƣớc ta
không chấp nhận "tam quyền phân lập" nhƣ trong các nhà nƣớc pháp quyền
tƣ sản, song trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện tƣ tƣởng phân chia quyền
lực ở các nhà nƣớc này, chúng ta đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo
các nhân tố hợp lý của nó vào thực tiễn nƣớc ta thông qua các qui định trong
Hiến pháp hiện hành.
Đứng trƣớc vấn đề mới mẻ đó thì một trong những con đƣờng hữu hiệu
nhất là tiếp cận từ lịch sử tƣ tƣởng triết học về xã hội công dân và nhà nƣớc
pháp quyền. Trong số những vấn đề cần quan tâm, tƣ tƣởng của Môngtexkiơ
là dấu mốc quan trọng, vì ông là ngƣời có công lớn trong việc đề xuất tƣ
tƣởng gắn xã hội công dân với nhà nƣớc pháp quyền. Tƣ tƣởng này của ông
đã đƣợc nhiều nhà triết học, nhà tƣ tƣởng sử dụng làm cơ sở cho sự nghiên
cứu vấn đề này trong các giai đoạn tiếp theo. Do vậy, nghiên cứu tƣ tƣởng của
Môngtexkiơ về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận quan trọng đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và xã
hội công dân trong thời đại ngày nay. Bởi lẽ, nhƣ Ph.Ăngghen đã khẳng định:

“Tƣ duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dƣới dạng năng lực của ngƣời ta
mà có thôi. Năng lực ấy cần phải đƣợc phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn
thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn
bộ triết học thời trƣớc” [6, tr.487]. Trên thực tế, chúng ta mới chỉ bƣớc đầu
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và
xã hội dân chủ mà trong đó, mọi cán bộ, đảng viên và công chức là công bộc
của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân - xã hội dân sự (xã hội công
dân). Theo đó, có thể nói, việc nghiên cứu tƣ tƣởng của các nhà triết học là


4
cần thiết. Xét từ góc độ này, quan điểm của Môngtexkiơ về xã hội công dân
và nhà nƣớc pháp quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thực sự cấp bách. Với
suy nghĩ đó, chúng tôi lựa chọn “Quan niệm của Môngtexkiơ về xã hội công
dân và nhà nƣớc pháp quyền” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ đại, các nhà tƣ tƣởng, các nhà
triết học cũng đã đề cập đến xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền. Ngƣời
có công lớn trong việc đề xuất tƣ tƣởng gắn xã hội công dân với nhà nƣớc
pháp quyền, trƣớc hết phải nói đến Môngtexkiơ. Ông đã thể hiện tƣ tƣởng về
xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền trong một số tác phẩm tiêu biểu, nhƣ
Những bức thƣ Ba Tƣ, Bàn về tinh thần pháp luật…Năm 1748, tác phẩm Bàn
về tinh thần pháp luật của ông đã đƣợc xuất bản. Kể từ đó cho đến nay, Bàn
về tinh thần pháp luật đã đƣợc tái bản nhiều lần, đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng
và đƣợc nhiều độc giả trên thế giới biết đến, trong đó có cả bản dịch ra tiếng
Việt và độc giả nƣớc ta.
Nhìn chung, cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu từ góc độ
lịch sử triết học về tƣ tƣởng của Môngtexkiơ, và quan niệm của ông về xã hội

công dân và nhà nƣớc pháp quyền. Đã có không ít nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, đƣa ra những đánh giá, nhận định khác nhau về những quan niệm
này của ông, mặc dù đây là vấn đề khá phức tạp, có những ảnh hƣởng theo
chiều hƣớng khác nhau đến sự phát triển xã hội. Trong luận văn này, chúng
tôi không có điều kiện để trình bày tất cả các công trình nghiên cứu quan
điểm triết học của ông về nhà nƣớc pháp quyền và xã hội công dân, mà chỉ có
thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây:
Trong số những công trình nghiên cứu từ góc độ lịch sử triết học về tƣ
tƣởng của Môngtexkiơ, trƣớc hết phải kể đến Lịch sử triết học- Triết học thời
kỳ tiền tƣ bản chủ nghĩa. Đây là công trình do Viện Hàn lâm Khoa học Liên


5
Xô xuất bản 1957 và đến 1962 đƣợc dịch sang tiếng Việt. Công trình này đã
khái quát những tƣ tƣởng về triết học do Môngtexkiơ nêu ra và cũng đã chỉ ra
ảnh hƣởng của chúng đến việc chuẩn bị về mặt tƣ tƣởng cho cuộc cách mạng
Pháp 1789.
Năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho tái bản cuốn Lịch
sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên. Công trình này đã giới thiệu một
cách khái quát về thân thế, sự nghiệp của Môngtexkiơ, phân tích thế giới quan
của ông trong các vấn đề xã hội.
Công trình 106 nhà thông thái do P.S.Taranốp biên soạn (Đỗ Minh
Hợp dịch và hiệu đính, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm
2000) cũng đã trình bày một cách vắn tắt về cuộc đời, sự nghiệp và học thuyết
chính trị của Môngtexkiơ.
Văn học phƣơng Tây thế kỷ XVIII (Phùng Văn Tửu và Đỗ Ngoạn đồng
tác giả), nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản năm
1983. Công trình này mặc dù khai thác về lịch sử văn học, nhƣng trong thời
kỳ Khai sáng Pháp, các nhà văn đồng thời cũng là nhà triết học, nên các tác
giả cũng đã làm rõ tƣ tƣởng của các nhà tƣ tƣởng phƣơng Tây thế kỷ XVIII,

trong đó có tƣ tƣởng Môngtexkiơ.
Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới là công trình do nhiều học
giả nổi tiếng ở Liên bang Nga biên soạn và do Nhà xuất bản “Đại học”
Mátxcơva xuất bản. Bộ sách này đƣợc Lƣu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái
dịch sang tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2001). Đại cƣơng
lịch sử các tƣ tƣởng và học thuyết chính trị trên thế giới là công trình do
Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên. Các công trình này đã chỉ rõ quá trình phát sinh,
phát triển các tƣ tƣởng và học thuyết chính trị trên thế giới, trong đó có tƣ
tƣởng của Môngtexkiơ. Những công trình này đã phân tích vai trò của của học


6
thuyết tam quyền phân lập của Môngtexkiơ trong cuộc đấu tranh chống lại
chế độ phong kiến, hệ tƣ tƣởng phong kiến và bảo vệ chế độ sở hữu tƣ sản.
Lịch sử tƣ tƣởng chính trị là công trình biên soạn của tập thể tác giả
Khoa Chính trị học- Phân viện báo chí và tuyên truyền, do Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2001. Các tác giả công trình này đã khẳng
định Môngtexkiơ là nhà tƣ tƣởng, nhà chính trị xuất sắc của Pháp, đồng thời
chỉ ra những tƣ tƣởng chính trị của ông trong Tinh thần pháp luật và Những
bức thƣ Ba Tƣ.
Năm 2004, Nhà xuất bản Lý luận chính trị đã tái bản tác phẩm Bàn về
tinh thần pháp luật do Hoàng Thanh Đạm dịch. Đây là một công trình khoa
học thực sự, bởi ngoài nội dung tác phẩm, dịch giả còn giới thiệu một cách
ngắn gọn về cuộc đời, sự nghiệp, tƣ tƣởng của Môngtexkiơ. Ngoài ra, dịch giả
còn cung cấp thêm những sự kiện xã hội, phần phụ lục giới thiệu các tác
phẩm chính của Môngtexkiơ Bảo vệ tác phẩm tinh thần pháp luật, một vài
phần trong các tác phẩm khác của Môngtexkiơ nhƣ Những bức thƣ Ba Tƣ và
Những nhận định về nguyên nhân cƣờng thịnh và suy thoái của Rome, ngoài
ra còn hai tác phẩm văn học của ông.
Trong những năm gần đây, vấn đề về xã hội công dân và nhà nƣớc

pháp quyền đã đƣợc một số tác giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Năm 2006, tác giả Lê Tuấn Huy đã cho ra mắt bạn đọc công trình Triết
học chính trị Môngtexkiơ với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam
trên cơ sở sửa chữa, bổ xung luận án tiến sĩ của chính tác giả (bảo vệ năm
2005 tại Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh). Tác giả đã phân tích
những cống hiến xuất sắc của Môngtexkiơ về vấn đề này, đồng thời chỉ ra
mối quan hệ giữa những tƣ tƣởng triết học chính trị của Môngtexkiơ với đòi
hỏi của Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. Tác giả đã vận dụng những hạt nhân


7
hợp lý trong nguyên tắc phân quyền của Môngtexkiơ để luận giải con đƣờng
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay.
Bên cạnh đó, còn có một số luận văn thạc sỹ triết học nghiên cứu về
nhà nƣớc pháp quyền đã đƣợc bảo vệ tại Viện Triết học: Tìm hiểu tƣ tƣởng về
nhà nƣớc pháp quyền và vấn đề xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam của
tác giả Đào Ngọc Tuấn, bảo vệ năm 1994; Tƣ tƣởng về nhà nƣớc, quyền lực
nhà nƣớc trong lịch sử triết học và quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà
nƣớc Việt Nam của tác giả Nguyễn Thanh Dũng, bảo vệ năm 1998. Các tác
giả này đã nghiên cứu những tƣ tƣởng mang tính lý luận về nhà nƣớc pháp
quyền trong lịch sử để từ đó, vận dụng vào việc xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận và chính trị của Trung ƣơng
Đảng cộng sản Việt Nam đã phối hợp cùng với Viện Triết học, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học - thực tiễn: “Sáu mƣơi năm
xây dựng Nhà nƣớc cách mạng Việt Nam của dân, do dân, vì dân”. Các báo
cáo khoa học tham gia Hội thảo này không chỉ khẳng định những thành tựu,
chỉ ra những hạn chế, bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng Nhà
nƣớc cách mạng Việt Nam, đặc biệt là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, mà còn đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện hơn nữa Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Trong số các báo cáo này
đã có nhiều báo cáo về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền, nhƣ “Nhà
nƣớc pháp quyền, xã hội công dân và vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân”
của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Viện Triết học; “Xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân” của
tác giả Đặng Hữu Toàn, Viện Triết học; “Quan điểm về nhà nƣớc pháp quyền


8
và những vấn đề đặt ra ở nƣớc ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Đình Tƣờng, Viện
Triết học; v.v
Gần đây, trên các tạp chí Triết học, Nghiên cứu Lập pháp, Nhà nƣớc và
Pháp luật…cũng có những bài viết về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp
quyền. Chẳng hạn, Một số vấn đề về xã hội công dân (Đỗ Trung Hiếu, Tạp
chí Triết học, số 10-2002); Vai trò của xã hội công dân đối với việc xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền (Vũ Thƣ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9 - 2003);
Xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền (Stupisin, Tạp chí Thông tin Khoa
học Xã hội, số 4-1990); Về tƣ tƣởng nhà nƣớc pháp quyền và khái niệm nhà
nƣớc pháp quyền (Lê Minh Tâm, Tạp chí Luật học, số 2 -2002),…
Có thể nói, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu từ góc độ lịch sử
triết học về tƣ tƣởng của Môngtexkiơ nói chung và quan niệm của ông về xã
hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền nói riêng là không nhiều. Chúng ta chủ
yếu biết đến triết học của Môngtexkiơ qua một số tƣ liệu, sách dịch và qua
giới thiệu ở một số từ điển triết học, giáo trình về lịch sử triết học phƣơng
Tây.
Xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền là vấn đề chính trị - pháp lý
hết sức phức tạp. Do vậy mà cho đến nay, quan niệm của những ngƣời nghiên
cứu về vấn đề này còn có điểm khác biệt, thậm chí trái ngƣợc nhau. Đây là

một khó khăn cho ngƣời nghiên cứu.
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng những công trình nghiên cứu
trên về Môngtexkiơ nhƣ những tài liệu tham khảo.


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là phân tích và luận giải những tƣ tƣởng cơ bản
của Môngtexkiơ về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền để trên cơ sở đó,


9
đƣa ra một số suy nghĩ bƣớc đầu về việc xây dựng xã hội công dân và nhà
nƣớc pháp quyền ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn này tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phân tích những điều kiện kinh tế- xã hội và tƣ tƣởng có ảnh
hƣởng đến sự hình thành quan niệm của Môngtexkiơ về xã hội công dân và
nhà nƣớc pháp quyền.
Thứ hai, phân tích những quan niệm của Môngtexkiơ về xã hội công
dân và nhà nƣớc pháp quyền.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu tƣ tƣởng Môngtexkiơ về xã hội công dân
và nhà nƣớc pháp quyền, nêu ra một vài suy nghĩ về việc xây dựng xã hội
công dân và nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền là vấn đề
chính trị - pháp lý hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tƣ lớn về công sức
của các nhà khoa học. Đây là một đề tài có thể nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi không có
tham vọng tìm hiểu vấn đề nhà nƣớc pháp quyền và xã hội công dân trên mọi

góc độ, mà giới hạn đề tài nghiên cứu của mình ở phƣơng diện triết học,
thông qua sự phân tích các tác phẩm của Môngtexkiơ.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở nghiên cứu trực tiếp những tác phẩm
của Môngtexkiơ viết về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền trên nền
tảng lý luận của triết học Mác – Lênin về những vấn đề này, đồng thời kế thừa
có chọn lọc những công trình nghiên cứu về vấn đề này của các tác giả đi
trƣớc.


10
Phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phƣơng pháp
lôgíc kết hợp với phƣơng pháp lịch sử để trình bày các vấn đề.

6. Cái mới của luận văn

Luận văn góp phần khẳng định Môngtexkiơ là ngƣời đã đƣa ra chủ
trƣơng chủ xây dựng một xã hội tự do, bình đẳng, dân chủ - xã hội công dân
và nhà nƣớc pháp quyền trên cơ sở tam quyền phân lập; đồng thời khẳng định
những quan điểm này của ông là lý luận mở đƣờng cho xã hội Pháp đi tới
cách mạng tƣ sản.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận, luận văn góp phần nghiên cứu tƣ tƣởng của các triết gia
phƣơng Tây về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền. Hệ thống hóa tƣ

tƣởng triết học của Môngtexkiơ về những vấn đề này.
Về mặt thực tiễn, luận văn đã chỉ ra những đóng góp của Môngtexkiơ
đối với thực tiễn xã hội hiện thực.
Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học phƣơng Tây ở các trƣờng
đại học, cao đẳng.

8. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
cơ bản của luận văn bao gồm hai chƣơng, năm tiết.





11

CHƢƠNG 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ LÝ LUẬN CHO
SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA MÔNGTEXKIƠ


1. 1. Môngtexkiơ - cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm


Saclơ đơ Sơcôngđa Môngtexkiơ là nhà tƣ tƣởng có dòng dõi quý tộc.
Ông sinh ngày 18 tháng 1 năm 1689 tại lâu đài La Brét ở Tây Nam nƣớc
Pháp. Cha ông là Giắc đơ Sơcôngđa - một quý tộc bị sa sút và đã có một thời

gian làm đại uý vệ binh, sau đó lui về ở ẩn cho đến năm 1713 thì qua đời. Khi
Môngtexkiơ lên 7 tuổi thì mẹ ông mất. Môngtexkiơ chịu ảnh hƣởng nhiều của
ngƣời chú ruột - Giăng đơ Sơcôngđơ, ngƣời đã từng là Chủ tịch Nghị viện
Boócđô.
Năm 1700, Môngtexkiơ theo học tại một trƣờng trung học do những
ngƣời theo giáo phái Ôratoa tổ chức ở Giuli gần Pari. Trong thời gian học
trung học, ông rất mê văn chƣơng, sử học và khoa học tự nhiên. Môngtexkiơ
đã viết một số tác phẩm mà nhiều độc giả thời đó rất ƣa chuộng. Theo
P.S.Taranốp - tác giả của công trình 106 nhà thông thái, sau khi kết thúc công
việc học tập, Môngtexkiơ đã quay trở lại lâu đài của ngƣời cha và tại đây, ông
đã bắt đầu nghiên cứu luật học [Xem: 36, tr.687].
Năm 1714, Môngtexkiơ vào làm việc tại Nghị viện Boócđô và hai năm
sau, ông trở thành nam tƣớc Đờ Môngtexkiơ - Chủ tịch Nghị viện Boócđô
(Chánh án toà án). Năm 1716, Môngtexkiơ trở thành thành viên Viện Hàn
lâm Khoa học Boócđô. Thời gian làm Chủ tịch nghị viện - nghị viện khi đó
cũng là cơ quan phán xử - đã ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng của ông sau này, nhất là
khi ông phân biệt rạch ròi giữa ba quyền. Mặc dù nắm giữ cƣơng vị là Chủ


12
tịch nghị viện, song điều đó vẫn không lấn át đƣợc lòng say mê khoa học, văn
chƣơng và triết học ở Môngtexkiơ. Mất khá nhiều thời gian cho những hoạt
động chính trị, xã hội, song ông vẫn dành nhiều tâm huyết cho những công
trình nghiên cứu về những nguyên nhân của tiếng vang, về công dụng của các
tuyến thận, về trọng lực…, về lợi ích của các môn khoa học [Xem: 47,
tr.153]. Tại Viện Hàn lâm Khoa học Boócđô, ông cũng đã trình bày một luận
văn về đề tài tôn giáo của những ngƣời La Mã. Trong luận văn đó, ông đã
chứng minh rằng "tôn giáo là do các vua chúa và quý tộc La Mã bầy đặt ra để
làm chỗ dựa cho quyền lực của họ và tăng cƣờng áp bức nhân dân” [Dẫn
theo:47, tr.153].

Khí chất của chàng thanh niên Môngtexkiơ ham tìm tòi, suy nghĩ với
lòng khát khao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, đồng thời lại trực tiếp tiếp xúc
với thực tiễn chính trị - xã hội của thời đại ở giai đoạn đƣợc coi là có sự bùng
nổ của các cuộc đấu tranh quyết liệt chống phong kiến đã sớm nung nấu tinh
thần của nhà triết học Khai sáng tƣơng lai. Tƣ tƣởng và tài năng của ông thực
sự hoà làm một, kết tinh thành năng lực tƣ duy sáng tạo, khí phách kiên
cƣờng của nhà triết học Khai sáng. Vào năm 1721, Môngtexkiơ đã cho ra đời
tác phẩm đầu tay gây chấn động dƣ luận không riêng gì ở Pháp, mà cả ở châu
Âu. Đó là tiểu thuyết bằng thƣ Những bức thƣ Ba Tƣ. Tác phẩm ra mắt bạn
đọc giữa lúc nƣớc Pháp đang ngả nghiêng trong cơn khủng hoảng về kinh tế,
chính trị của thời đó. Sự mục nát của chế độ quân chủ và mặt trái của nhà thờ
đã đƣợc Môngtexkiơ phơi bầy trong Những bức thƣ Ba Tƣ, qua con mắt của
hai ngƣời Ba Tƣ đến thăm nƣớc Pháp sau khi đã đi qua một số nƣớc châu Âu.
Đây là một trong ba tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp của Môngtexkiơ và là
tác phẩm đƣợc công chúng Pháp nhiệt liệt hoan nghênh ngay khi mới ra đời.
Mặc dù là tác phẩm văn chƣơng, nhƣng Những bức thƣ Ba Tƣ đã khiến nhiều
ngƣời dân Pháp khi đó phải suy nghĩ nghiêm túc về nền chuyên chế, về giáo


13
hội và giới giáo sỹ, về thân phận của con ngƣời trong sự cai trị độc đoán.
Thông qua những bức thƣ của hai ngƣời Ba Tƣ đang lƣu trú tại châu Âu giử
về quê hƣơng, Môngtexkiơ đã dựng lên một bức tranh về xã hội phƣơng Đông
và xã hội phƣơng Tây. Thông qua hình tƣợng quan thái giám - kẻ tƣợng trƣng
cho những con ngƣời mà trong một xã hội chuyên chế, ngay bản thân họ cũng
không thể tự bảo vệ đƣợc mình trƣớc sự áp đặt của nhà nƣớc chuyên chế,
Môngtexkiơ đã cho thấy xã hội phƣơng Đông khi đó là một xã hội mà ở đó,
ngƣời ta đã “lấy từ thế giới này đem ném vào thế giới kia một ngƣời nào đó
khéo chọn, ngƣời ấy cảm thấy rõ rệt tất cả cái phi lý mà chúng ta không cảm
thấy, cái lạ lùng của tập quán, cái kỳ dị của luật pháp, cái đặc biệt của phong

tục, tình cảm, tín ngƣỡng mà ai nấy đều thích nghi” [47, tr.161]. Và, khi
mƣợn lời hai vị khách Ba Tƣ, Môngtexkiơ đã cho công chúng Pháp thấy hình
ảnh thật của Lui XIV. Đó là một ông vua giàu có, tham quyền, xa hoa, trác
táng…đẩy nhân dân vào cảnh cùng khổ và hơn thế nữa, còn là “ông vua
quyền uy nhất châu Âu. Ông không có mỏ vàng nhƣ vua Tây Ban Nha láng
giềng, nhƣng lại có nhiều của cải hơn, bởi vì của cải của ông đƣợc khai thác
trong cái hƣ danh của thần dân, là một thứ kho vô tận, hơn cả mỏ vàng ”.
Ông vua này chẳng qua chỉ là một nhà ảo thuật. "Ông ta áp đặt quyền lực vào
ngay đầu óc thần dân. Ông bắt trăm họ suy nghĩ nhƣ ông. Nếu trong ngân khố
chỉ còn một triệu đồng êquy, ông chỉ cần hạ lệnh rằng một đồng ăn hai đồng
khi ông cần chi tới hai triệu êquy. Dân cũng cứ tin tƣởng nhƣ vậy” [29,
tr.296].
Vấn đề tôn giáo cũng đƣợc Môngtexkiơ nêu một cách không kém phần
gay gắt. Nói tới nhà thờ Cơ Đốc giáo nhƣ một thiết chế xã hội với bộ mặt vô
nhân đạo, đầy rẫy chuyện lụi bại, tàn bạo, đạo đức giả, thông qua hình tƣợng
Lui XIV, Môngtexkiơ viết: “ Ông ta làm cho mọi ngƣời tin rằng ba chỉ là
một: Rằng bánh ngƣời ta ăn không phải là bánh, hoặc rƣợu vang ngƣời ta


14
uống chẳng phải là rƣợu vang và nghìn trò khác đại loại nhƣ thế ” [Dẫn
theo:47, tr.167]. Mặc dù phê phán nhà thờ gay gắt, nhƣng trên bình diện triết
học, Môngtexkiơ tỏ ra ôn hoà và thể hiện rõ ông là ngƣời theo thuyết tự nhiên thần
luận.
Sau khi tác phẩm Những bức thƣ Ba Tƣ ra đời, “Môngtexkiơ trở thành
nhân vật nổi tiếng từ đấy và thƣờng lui tới phòng khách của phu nhân Đơ
Lambe, gia nhập câu lạc bộ Ăngtơrơsơn - một thứ hàn lâm viện tự do, để cùng
nhau nghiên cứu các vấn đề khoa học, đạo đức và chính trị ” [29, tr.12].
Năm 1726, Môngtexkiơ thôi chức vụ Chủ tịch nghị viện Boócđô mà
trƣớc đấy, ông đã làm thế chân ngƣời chú của mình. Một năm sau, ông đƣợc

bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Đến năm 1728, ông tạm biệt các
phòng khách ở Pari và lên đƣờng đi du lịch khắp nơi để hiểu phong tục tập
quán, luật pháp và thể chế của các nƣớc châu Âu. Ông đã đi qua Đức, Áo,
Hung, Ý, Thuỵ Sỹ, Hà Lan. Ở những nơi này, ông đã đƣợc chứng kiến những
ngày tàn của chế độ phong kiến châu Âu, đƣợc tận mắt xem xét cuộc sống của
dân chúng dƣới chế độ cộng hoà. Ông lƣu lại 2 năm cuối ở Anh. Dƣới chế độ
Quân chủ lập hiến, ông cảm thấy rất hài lòng và cho đó là một thể chế lý
tƣởng, trái ngƣợc với nƣớc Pháp quân chủ chuyên chế. “Tại Nghị viện Anh,
ngƣời ta cho phép ông có mặt trong các cuộc tranh luận giữa Chính phủ và
phe đối lập kéo dài tới 12(!) giờ. Các tƣ tƣởng của ông về lý luận phân quyền
đã bắt đầu chín muồi ở Anh” [36, tr.689]. Đây là thời gian đã làm cho
Môngtexkiơ thấy thực sự quý báu và những cảm nhận của ông về những gì đã
diễn ra ở đây đã trở thành tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng của ông sau này.
Năm 1731, Môngtexkiơ quay về Pháp và sống ở lâu đài Brét. Ở đây,
ông tiếp tục hoạt động lý luận. Năm 1734, ông cho ra đời tác phẩm Nhận định
về nguyên nhân cƣờng thịnh và suy thoái của Rôma. Theo ông, nguyên nhân
làm cho La Mã cƣờng thịnh là do tình yêu tự do, tình yêu tổ quốc và tình yêu
lao động. Ông nhấn mạnh đến đƣờng lối quân sự, chính trị khôn ngoan đối


15
với các nƣớc bên cạnh để dựa vào đấy củng cố chính quyền của mình. Còn
nguyên nhân của sự suy thoái chính là sự rộng lớn của đế chế. Đó là tình trạng
“quân đội đồn trú quá xa trung ƣơng, do đó cũng xa tinh thần cộng hòa và chỉ
biết có vị chỉ huy của mình; là cuộc nội chiến liên miên để giành giật đất đai,
của cải giữa các vƣơng hầu…” [48, tr.93-94]. Môngtexkiơ cũng nhƣ nhiều
triết gia khác của Pháp ở thế kỷ XVIII muốn khám phá những quy luật diễn
biến của lịch sử, chống lại quan điểm cho rằng sự vận động của lịch sử là do
sự sắp đặt của thần linh, do ý muốn chủ quan của một cá nhân, hay do ngẫu nhiên
chi phối. Tuy nhiên, Môngtexkiơ chƣa thấy đƣợc đấu tranh giai cấp là động

lực thúc đẩy lịch sử, mà chỉ chú ý đến những yếu tố tinh thần. Đây là hạn chế
của ông và cũng là của thời đại. Trong tác phẩm này, Môngtexkiơ đã phê
phán nền chính thể chuyên chế và tình trạng suy đồi ở những nƣớc theo chính
thể này. Ông viết: “Thật ra các luật của Rôma đã trở nên bất lực, không thể
cai trị nƣớc cộng hoà đƣợc nữa; nhƣng đó là cái mà ngƣời ta luôn luôn thấy là
“những luật hay” đã làm cho một nƣớc cộng hoà nhỏ trở thành nƣớc lớn, và
“những luật hay” ấy trở thành gánh nặng khi nƣớc cộng hoà đã bành trƣớng
quá mức, vì những luật này chỉ có tác dụng làm thành một dân tộc lớn, chứ
không có tác dụng cai trị dân tộc đó” [29, tr.311]. Theo ông, những thiết chế
quân sự và đời sống tinh thần của công dân trong các nhà nƣớc đó khi đạt đến
độ cực thịnh thì nội chiến nổ ra lên miên và điều đó khiến cho nền cộng hoà
trở thành nhà nƣớc chuyên chế độc quyền. Ông viết: “Trong khi tầng lớp bình
dân Rôma đƣợc các vị hộ dân quan nuông chiều, chỉ biết thừa nhận quyền
lực của mình, thì cơ quan chấp chính còn có thể tự bảo vệ một cách dễ dàng
vì họ cứ theo chính sách đã ban hành mà làm việc. Thế là đám dân đen cứ
luôn luôn bị đánh đập và trở thành yếu đuối. Nhƣng một khi dân chúng có thể
vuốt râu tự hào về quyền lực của mình ở ngoài nƣớc rồi thì mọi khôn ngoan
của cơ quan chấp chính trong nƣớc cũng trở nên vô ích và nền cộng hoà bị tiêu
vong” [29, tr. 307-308].


16
Tháng 10 năm 1748, Môngtexkiơ cho ra đời tác phẩm Bàn về tinh thần
pháp luật. Do đã phải làm việc rất căng thẳng để nghiên cứu, soạn thảo cuốn
sách này, nên sức khoẻ của ông bị suy sụp, nhất là thị lực. Ngay từ tác phẩm
Những bức thƣ Ba Tƣ, chúng ta đã thấy thấp thoáng quan niệm của
Môngtexkiơ về sự khác biệt giữa chính thể quân chủ và chính thể chuyên chế,
những nguyên tắc chi phối nhà nƣớc, nhƣ phong tục, tập quán, khí hậu…Ở
tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ không nghiên cứu luật pháp
nhƣ một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của

pháp luật. Ông muốn khám phá cái trật tự, cái quy luật trong mớ hỗn độn các
luật pháp ở tất cả các dân tộc và ở mọi thời đại. Đây là tác phẩm mang tính
triết học sâu sắc, trong đó luật pháp đƣợc giải thích từ nhiều khía cạnh khác
nhau.
Bàn về tinh thần pháp luật thể hiện lòng căm ghét của Môngtexkiơ đối
với chính thể chuyên chế và muốn thay thế nó bằng một hình thức nhà nƣớc
mới để cho công dân Pháp lúc bấy giờ có lối thoát. Sau khi đƣợc công bố, tác
phẩm này đã bị phê phán từ nhiều phía và do vậy, Môngtexkiơ lại tiếp tục viết
một tác phẩm luận chiến Bảo vệ tinh thần pháp luật (1750) để nói rõ lập
trƣờng của mình.
Những năm cuối đời, Môngtexkiơ sống trong lâu đài của mình và tại
đây, ông đã viết thêm một số tác phẩm khác nhƣ Lyđimác (1751), Acxat và
Ixmêni (1754). Khi đó, ông đã trở nên nổi tiếng và đƣợc kính trọng. Nhiều
học giả khi đó đã cho ra đời các công trình nghiên cứu về tác phẩm Bàn về
tinh thần pháp luật của Môngtexkiơ và nhiều học giả trong số đó đã gửi cho
ông công trình nghiên cứu của họ, một số ngƣời còn muốn đƣợc trực tiếp gặp
ông để trò chuyện.
Năm 1754, Môngtexkiơ đến Pari. “Nguyên nhân của chuyến đi là việc
bắt giam giáo sƣ La-Bômen, một trong những ngƣời đầu tiên công khai bảo
vệ mãnh liệt tinh thần pháp luật. Theo yêu cầu của Chính phủ Pháp, La-


17
Bômen bị bắt ở Phổ, trao cho Pháp và bị giam vào Baxti với tƣ cách một
ngƣời khả nghi về mặt chính trị. Nhận đƣợc tin này, Môngtexkiơ vội vàng đến
giúp đỡ. Ông hăng hái xin giùm cho vị giáo sƣ bất hạnh, sử dụng các mối
quan hệ có thế lực của mình và giải thoát đƣợc ông ta” [36, tr.690]. Trong
thời gian đó, ông đã phải chịu đựng sự hành hạ thân xác một cách khủng
khiếp do bệnh tật ngày một nặng thêm, nhƣng ông vẫn sống và hoạt động với
một nghị lực hiếm có. Ông đã qua đời tại Pari ngày 10 tháng 2 năm 1755 và

để lại nhiều di cảo, trong đó có tập Những tƣ tƣởng của tôi.

1.2. Những tiền đề kinh tế - xã hội và lý luận cho sự hình thành tƣ
tƣởng của Môngtexkiơ
1.2.1. Tiền đề kinh tế - xã hội

Châu Âu vào thế kỷ XIV - XVII xét trên mọi phƣơng diện: kinh tế,
chính trị, xã hội, đã diễn ra nhiều sự kiện trọng đại.
Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và đạo luật hà khắc đã dần dần
bị tan dã, thay vào đó là nhiều công trƣờng thủ công ra đời, đem lại năng suất
lao động cao hơn. Chẳng hạn nhƣ việc sáng chế ra máy tự kéo sợi và máy in
đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ in ấn phát triển, giúp cho con ngƣời
làm tăng năng suất lao động. Những phát minh mới về kỹ thuật, nhất là những
hình thức tổ chức mới trong lao động sản xuất đã tạo ra năng suất lao động
ngày càng cao, tạo tiền đề cho phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa ra đời.
Quá trình công nghiệp hoá diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu đã làm thay đổi căn
bản cách thức sản xuất chủ yếu bằng lao động thủ công sang sử dụng máy
móc và từng bƣớc hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy
mô nhỏ lên quy mô lớn với sự xuất hiện ngày một nhiều các khu công nghiệp.
Công trƣờng thủ công xuất hiện, những mầm mống của nền sản xuất tƣ bản
chủ nghĩa ra đời. “Tuy nhiên, khi đó, giai cấp tƣ sản mới ra đời còn yếu ớt


18
chƣa thể thiết lập chính quyền của mình, và những tầng lớp trên của giai cấp
tƣ sản lại ủng hộ nhà nƣớc chuyên chế tập quyền” [dẫn theo:40, tr.256].
Vào thế kỷ XVII, chế độ phong kiến ở Pháp đã đạt tới độ cực thịnh
dƣới triều vua Lui XIV, với việc xây dựng bộ máy chính quyền quân chủ
chuyên chế, tập trung. Đó là bƣớc tiến quan trọng của lịch sử trên con đƣờng
gạt bỏ các thế lực phong kiến để thống nhất quốc gia về một mối. Mặt khác,

chế độ quân chủ chuyên chế, tập trung của Lui XIV vẫn giữ sự cân bằng giữa
một bên là giai cấp phong kiến và một bên là các lực lƣợng mới do giai cấp tƣ
sản đứng đầu. Tuy nhiên, thế cân bằng này chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn. Các lực lƣợng mới ngày càng lớn mạnh cùng với sự phát triển của các
hình thức và quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, thế cân bằng đó cũng dần dần
mất đi. Đến đầu thế kỷ XVIII, tình hình này đã diễn ra ngày càng gay gắt hơn.
Trên lĩnh vực kinh tế, nƣớc Pháp khi bƣớc vào thế kỷ XVIII, về căn
bản, vẫn là một nƣớc nông nghiệp lạc hậu: Chế độ sở hữu phong kiến, đất đai
đƣợc chia thành những mảnh nhỏ, lối canh tác thì thô sơ, nông dân nghèo
túng, không có sức mua, họ tự làm ra một số sản phẩm tiêu dùng cần thiết.
Tình hình này đã cản trở việc hình thành một thị trƣờng thống nhất và trở
thành nguyên nhân kìm hãm một phần sự phát triển của thƣơng mại và kỹ
thuật. Nó cũng ảnh hƣởng đến việc cung cấp nhân lực dự trữ cho các xƣởng
sản xuất. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thƣơng mại và kỹ thuật, khi đó các hình
thái mới mang tính chất tƣ bản chủ nghĩa đã xuất hiện ngày càng nhiều trong
lòng chế độ phong kiến. Ở một số nơi, ngƣời ta đã xây dựng các nhà máy
đƣờng, xƣởng đóng tàu, xƣởng dệt, mỏ khai thác kim loại quý với quy mô
tƣơng đối lớn; việc buôn bán với nƣớc ngoài cũng ngày một đƣợc mở rộng.
Song, về cơ bản, công thƣơng nghiệp vẫn còn theo lối phong kiến về quy mô
kinh doanh và do vậy, đã làm hạn chế tự do cạnh tranh, cản trở cải tiến kỹ
thuật. Nhìn chung, nƣớc Pháp đã thu về một mối thống nhất dƣới chế độ quân


19
chủ chuyên chế, tập trung, nhƣng trên thực tế, nó vẫn còn bị chia cắt thành
nhiều vùng với những lợi ích riêng và điều này đã dẫn đến không ít khó khăn
cho việc kinh doanh, buôn bán. Cơ cấu chặt chẽ của chế độ phong kiến đã tạo
nên những lực cản đối với yêu cầu phát triển của các lực lƣợng xã hội mới và
những quan hệ sản xuất mới.
Về phƣơng diện xã hội, chế độ quân chủ chuyên chế Pháp luôn bảo vệ

lợi ích cho chế độ phong kiến suy tàn. Trong chế độ này nhà vua là ngƣời
nắm mọi quyền hành và không chịu sự kiểm soát nào, có quyền quyết định
mọi công việc và hoàn toàn đứng trên luật pháp. “Nƣớc Pháp không có hiến
pháp. Nƣớc Pháp từ lâu đã quên đi sự tồn tại của Hội nghị đẳng cấp - một
thiết chế mang tính bán đại diện của các thành phần xã hội, dù chỉ là hình
thức, đƣợc thiết lập vào đầu thế kỷ XIV. Cách thức khi đó ngƣời Pháp cai trị
quốc gia là thông qua bộ máy quan liêu mà cho đến những năm 1750 đã
phồng to quá mức, kết quả của chế độ mua quan bán chức đƣợc thừa nhận từ
thời Lui XI. Dù đã thống nhất từ lâu, nƣớc Pháp trƣớc 1789 vẫn tồn tại những
phạm vi tài phán riêng biệt của mƣời ba pháp viện tối cao ở mỗi vùng tƣơng
ứng. Lại còn tồn tại thêm một hệ thống đốc quan đƣợc nhà vua sử dụng nhƣ
một công cụ kiềm chế sức mạnh của giới quý tộc và áp bức ngƣời dân” [21,
tr.79]. Với chế độ chính trị nhƣ vậy, cƣ dân nƣớc Pháp khi đó đƣợc chia thành
ba đẳng cấp. Đó là đẳng cấp quý tộc, tăng lữ và “đẳng cấp thứ ba”. Quý tộc
tập hợp quanh nhà vua và địa chủ quý tộc ở các vùng nắm quyền chính trị
thực tế. Tăng lữ có thế lực rất lớn, nắm quyền về đời sống tinh thần. Hai đẳng
cấp này là những ngƣời có quyền hành cao nhất, họ có đặc quyền đặc lợi.
Đẳng cấp thứ ba bao gồm các tầng lớp xã hội còn lại nhƣ tƣ sản, thợ thủ công,
nông dân, dân nghèo thành thị, trí thức, Đẳng cấp này chiếm đa số trong xã
hội, nhƣng lại bị hai đẳng cấp trên bóc lột về kinh tế và áp bức về chính trị,


20
không đƣợc tham gia vào các cơ quan nhà nƣớc. Ngoài hai tầng áp bức trên,
đẳng cấp thứ ba còn là nạn nhân của chính thể quân chủ mục nát.
Nƣớc Pháp vào thế kỷ XVIII, đã bị suy yếu bởi những cuộc chiến
tranh, nhƣ chiến tranh với Anh về tranh chấp thuộc địa, chiến tranh giành
quyền kế thừa ở Tây Ban Nha (1701-1714)… Chiến tranh đã làm cho nền tài
chính của Pháp kiệt quệ, đất nƣớc khủng hoảng. Hơn nữa, vua quan lại sa vào
con đƣờng ăn tiêu xa hoa, lãng phí. Để duy trì lối sống này cần phải có nhiều

tiền, và để có tiền, triều đình đã tổ chức mua quan bán tƣớc và đánh thuế nặng
vào ngƣời lao động. Do vậy mà bao khổ cực đã trút lên đầu nhân dân lao
động. Tình trạng căng thẳng nhƣ vậy đã diễn ra khắp nơi, thậm chí còn xuất
hiện ngày càng nhiều mâu thuẫn ngay trong nội bộ các đẳng cấp. Nhìn chung,
mâu thuẫn bao trùm trong toàn xã hội là mâu thuẫn giữa một bên là đẳng cấp
quý tộc liên kết với đẳng cấp tăng lữ nhằm cố duy trì trật tự đƣơng thời và
một bên là đẳng cấp thứ ba đang hƣớng tới con đƣờng cách mạng. Mặt khác,
bản thân chính sách của nhà nƣớc chuyên chế phong kiến đã trở thành lực cản
ngày càng kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản. Điều đó đã đƣa giai
cấp tƣ sản khi ấy trở thành lực lƣợng đại diện cho đẳng cấp thứ ba với mong
muốn thủ tiêu ách áp bức của bọn phong kiến. Khi đó, giai cấp tƣ sản Pháp
còn chƣa bộc lộ nhiều bản chất xấu xa của nó nhƣ giai cấp tƣ sản Anh cùng thời.
Có thể nói, khi bƣớc sang thế kỷ XVIII, ở Pháp quan hệ sản xuất tƣ bản
chủ nghĩa đã thâm nhập vào các vùng nông thôn một cách sâu rộng. Điều này
đã làm cho tình trạng phân hoá giai cấp ở Pháp ngày càng rõ rệt. Giai cấp địa
chủ Pháp đã thực hiện chế độ tƣ bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, tăng cƣờng
thu thuế trong nông dân, cƣớp đoạt ruộng đất, tƣớc mất những quyền lợi đã
thành phong tục tập quán, nhƣ chăn nuôi, lấy củi … Do đó, ngƣời nông dân
Pháp đã lâm vào tình trạng sống dở chết dở, với nhiều nỗi khổ cực. “Nhiều
ngƣời đã mất hết ruộng đất và phải đi ăn xin. Nhân dân nông thôn bị chết


21
chóc thảm hại. Theo tài liệu của một số ngƣời đƣơng thời thì vào giữa 1739,
nhiều vùng ở Pháp, ngƣời ta phải ăn cỏ và chết nhƣ ruồi” [Dẫn theo: 49,
tr.76]. Công nghiệp ở Pháp bị kìm hãm bởi những quy tắc do nhà nƣớc
chuyên chế đề ra và bởi các thứ trở ngại khác. Nhiều học giả cho rằng, ở Pháp
thế kỷ XVIII, phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển một cách
nhanh chóng. Song, xiềng xích phong kiến đã trói buộc sự phát triển của chủ
nghĩa tƣ bản. Các lực lƣợng sản xuất mới ra đời nhờ phƣơng thức sản xuất tƣ

bản chủ nghĩa đã ngày càng trở nên xung đột gay gắt với các quan hệ sản xuất
phong kiến đƣợc bảo vệ bởi kiến trúc tƣợng tầng phong kiến, nhất là với thể
chế nhà nƣớc và pháp luật phong kiến. Trong bối cảnh đó, nhân dân Pháp
phần đông đều muốn thủ tiêu ách thống trị của giai cấp phong kiến, lật đổ chế
độ phong kiến chuyên chế và xoá bỏ chính sách thuế má, xoá bỏ nền chuyên
chế giáo hội (nền chuyên chính ủng hộ chế độ phong kiến và chế độ quân chủ
chuyên chế).
Nhận xét về bối cảnh này ở Pháp nói riêng, ở châu Âu khi đó nói
chung, Ph.Ăngghen cho rằng: “ Quyền lực nhà vua, dựa vào thị dân, đã đập
tan thế lực của quý tộc phong kiến và lập ra những nƣớc quân chủ lớn, chủ
yếu dựa trên cơ sở dân tộc, trong đó các dân tộc Âu châu hiện đại và xã hội tƣ
sản hiện đại đã bắt đầu phát triển” [6, tr.458].
Do tính chất phức tạp nhƣ đã nêu, nên ở Pháp khi đó, đã xuất hiện
những ngƣời nhƣ Môngtexkiơ, tuy đứng trong hàng ngũ quý tộc nhƣng lại là
một triết gia tiến bộ, mang đậm dấu ấn của thời đại Khai sáng. Ph.Ăngghen đã
hoàn toàn có cơ sở khi đánh giá tƣ tƣởng của các nhà Khai sáng nhƣ sau:
“Những vĩ nhân ở Pháp đã soi sáng đầu óc mọi ngƣời để chuẩn bị cho cuộc
cách mạng sắp đến gần thì bản thân họ cũng rất cách mạng. Họ không thừa
nhận bất kỳ một thứ uy quyền bên ngoài nào. Tôn giáo, quan niệm về tự
nhiên, xã hội, chế độ nhà nƣớc, tất cả phải đƣợc đem ra phê phán một cách
thẳng tay nhất, tất cả đều phải ra trƣớc toà án của lý tính để biện hộ cho sự tồn
tại của mình hoặc từ bỏ sự tồn tại của mình …Tất cả những hình thức xã hội


22
và nhà nƣớc từ trƣớc đến nay, tất cả những quan niệm cổ truyền, đều bị coi là
không hợp lý và bị vứt bỏ nhƣ những đồ cũ; từ trƣớc đến nay thế giới chỉ do
những thành kiến chỉ đạo, toàn bộ quá khứ đều chỉ đáng thƣơng và đáng
khinh mà thôi. Giờ đây, lần đầu tiên, mặt trời đã mọc; và từ nay sự mê tín, sự
bất công, đặc quyền và sự áp bức phải nhƣờng chỗ cho chân lý vĩnh cửu, cho

chính nghĩa vĩnh cửu, cho bình đẳng bắt nguồn từ bản thân giới tự nhiên, và
cho những quyền bất khả xâm phạm của con ngƣời” [6, tr.30-31].
Trong bối cảnh xã hội nhƣ vậy, phái Khai sáng và duy vật Pháp thế kỷ
XVIII, một mặt, đƣa ra một thế giới quan tiên tiến, chỉ rõ vai trò tiến bộ của
giai cấp tƣ sản so với giai cấp phong kiến trong thời đại cách mạng tƣ sản -
cần thủ tiêu chế độ phong kiến tàn bạo trong thời đại cách mạng tƣ sản bằng
cách gợi lên sự tƣơng phản giữa ánh sáng và bóng tối; đồng thời nêu bật ý
nghĩa tiến bộ của những tƣ tƣởng khai sáng ở thế kỷ XVIII. Mặt khác, phái
Khai sáng và duy vật Pháp coi những quan hệ tƣ sản đang hình thành là quan
hệ hoàn toàn tự nhiên, phù hợp với bản chất con ngƣời. Họ coi quan hệ đó là
tự do, bình đẳng, bác ái. Nói về điều này Ph.Ăngghen viết: “Hiện nay, chúng
ta biết rằng vƣơng quốc của lý tính ấy chẳng qua chỉ là vƣơng quốc đƣợc lý
tƣởng hoá của giai cấp tƣ sản; rằng chính nghĩa vĩnh cửu đã đƣợc thực hiện
trong nền tƣ pháp tƣ sản; rằng sự bình đẳng quy lại là bình đẳng tƣ sản trƣớc
pháp luật; rằng một trong những nhân quyền cơ bản nhất của con ngƣời mà
ngƣời ta đã tuyên bố, là quyền sở hữu tƣ sản. Nhà nƣớc của lý tính- khế ƣớc
xã hội của Rútxô - đã thể hiện và chỉ có thể hiện ra nhƣ là nền cộng hoà dân
chủ tƣ sản. Tất cả những nhà tƣ tƣởng vĩ đại của thế kỷ XVIII, cũng nhƣ tất
cả những tiền bối của họ, không thể vƣợt qua những khuôn khổ mà thời đại
của họ đã quy định cho họ” [6, tr.31]. Các nhà Khai sáng và duy vật Pháp thế
kỷ XVIII, đã xác định nhiệm vụ quan trọng của họ lúc này là đánh đổ lý luận
thần bí về Thƣợng đế - lý luận cho rằng lịch sử đã đƣợc quyết định trƣớc và
coi hoạt động cải tạo có tính cách mạng là vô ích. Để thực hiện nhiệm vụ này,


23
theo họ, trƣớc hết cần cách mạng hoá vai trò của lý trí và giáo dục trong xã
hội, nâng cao tính tự giác của con ngƣời trong việc cải tạo các quan hệ xã hội.
Thế kỷ XVIII, ở phƣơng Tây trở thành mốc quan trọng đánh dấu thời
kỳ tan dã của chế độ phong kiến, thời kỳ thắng lợi của cách mạng tƣ sản trên

quy mô rộng lớn. Đặc biệt, cuộc cách mạng tƣ sản Pháp không phải chỉ có ý
nghĩa riêng ở Pháp mà rộng lớn hơn, nó có ý nghĩa và giá trị nhƣ hồi chuông
báo tử cho chế độ phong kiến ở cả châu Âu nói riêng, trên phạm vi toàn thế
giới nói chung. Vì chế độ phong kiến kết hợp với chính sách ngu dân của giáo
hội từ nhiều thế kỷ vẫn là lực cản kìm hãm sự tiến bộ của quần chúng nhân
dân. Các nhà triết học, các nhà hoạt động xã hội, nhà văn tiến bộ của thế kỷ
XVIII này, ở khắp nơi đã dấy lên một phong trào mạnh mẽ đề cao lý trí để
xua tan bóng tối, tìm ra chân lý, mở mang trí tuệ cho nhân dân, tạo điều kiện
cho họ tiếp xúc với văn hoá, khoa học, nghệ thuật…Thời kỳ Khai sáng đã soi
rọi vào mọi lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị, pháp luật, tôn giáo…và trở
thành vũ khí sắc bén chống lại chế độ phong kiến chuyên quyền độc đoán.
1.2.2. Tiền đề lý luận

Nói đến quá trình hình thành tƣ tƣởng của Môngtexkiơ về xã hội công
dân và nhà nƣớc pháp quyền, không thể không nhắc đến tƣ tƣởng của các nhà
triết học tiền bối. Trong một chuyên khảo của mình, tác giả Lê Văn Cảm đã
nhắc lại câu nói của Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Nga
V.X.Nhêrơxesiantơ về việc các nhà Khai sáng và duy vật Pháp nói chung,
Môngtexkiơ nói riêng đã kế thừa di sản của các nhà tƣ tƣởng thời trƣớc nhƣ
sau: “Toàn bộ cái mới của các quan điểm lý luận về tổ chức nhà nƣớc pháp
quyền đã dựa vào kinh nghiệm của quá khứ, vào những thành tựu của thực
tiễn và lý luận về xã hội, chính trị và pháp luật đã tồn tại trƣớc đó, vào những
truyền thống nhân văn và các giá trị chung vốn có của loài ngƣời đã đƣợc
hình thành về mặt lịch sử, đồng thời, các tƣ tƣởng và các chế định chính trị -


24
pháp luật của Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, kinh nghiệm của thời sơ cổ về
nền dân chủ, cộng hoà và trật tự pháp luật đã ảnh hƣởng đáng kể trên bình
diện này trong việc hình thành các quan niệm về mặt lý luận” [Dẫn theo: 2,

tr.21]. Theo đó, có thể nói, chính sự phát triển liên tục của các tƣ tƣởng triết
học chính trị phƣơng Tây trong lịch sử đã đƣa đến sự hình thành hệ thống tƣ
tƣởng của Môngtexkiơ về xã hội công dân và nhà nƣớc pháp quyền.
Thật vậy, trong lịch sử tƣởng nhân loại, quan niệm về xã hội công dân
và nhà nƣớc pháp quyền đã có mầm mống ở các nhà triết học Hy lạp cổ đại.
chẳng hạn: Xôlông (638-558 TCN) - nhà làm luật Aten nổi tiếng, ngƣời đã
tiến hành một loạt cải cách nhằm chống lại giới quý tộc thị tộc dƣới ảnh
hƣởng của quần chúng nhân dân - đã nêu lên ý tƣởng về nhà nƣớc pháp
quyền, khi ông chủ trƣơng cải cách nhà nƣớc bằng việc đề cao vai trò của
pháp luật. Ông đã trực tiếp tiến hành các cuộc cải cách nhằm xoá bỏ sự hỗn
loạn trong các thành bang và hoà giải những phe phái thù địch. Ông bảo vệ
nền dân chủ tuyển cử ôn hoà, một chế độ mà lãnh đạo xã hội là những ngƣời
quyền quý, giàu có trong xã hội, còn quần chúng nhân dân thì chỉ có quyền
lựa chọn và giám sát công việc của các quan chức. Theo ông, “điều đảm bảo
cho sự yên bình quốc gia là chính quyền và luật pháp cứng rắn… Tình trạng
vô chính phủ đã đem lại bao tai họa, đƣa các thành phố tới chỗ diệt vong. Chỉ
có pháp luật mới thiết lập đƣợc trật tự và tạo nên sự thống nhất” [50, tr.72].
Tiếp thu quan điểm này của Xôlông, Môngtexkiơ đã chỉ rõ bản chất của nhà
nƣớc cộng hoà nhƣ sau: Các vị pháp quan cầm quyền thì phải bầu chọn, các
viên chức dân sự khác thì đƣợc lựa chọn theo cách rút thăm. Nhƣng việc rút
thăm này chỉ đƣợc tiến hành trong số những ngƣời hiện diện, ngƣời trúng
thăm phải qua sự thẩm xét của pháp quan, và mỗi công dân đều có quyền
khiếu nại nếu thấy ngƣời đó không xứng đáng [29, tr.50].


25
Arixtốt (384 - 322 TCN) - nhà triết học, nhà tƣ tƣởng vĩ đại nhất của
Hy lạp cổ đại, ngƣời sáng lập lôgíc học - trong tác phẩm “Chính trị”, lần đầu
tiên đã nhắc đến thuật ngữ "xã hội công dân" với mục đích phê phán quan
niệm của Platôn về nhà nƣớc lý tƣởng. Ông mở đầu sự nghiệp nghiên cứu

của mình về "xã hội công dân" bằng việc chứng minh rằng bản thân sự tồn tại
của xã hội loài ngƣời đã làm nảy sinh sự bất công mà chế độ chiếm hữu nô lệ
là nguồn gốc cơ bản của sự bất công đó. Nhà nƣớc không phải là kết quả của
sự thỏa thuận giữa mọi ngƣời với nhau dựa trên ý chí của họ. Nhà nƣớc xuất
hiện một cách tự nhiên, đƣợc hình thành do lịch sử, đƣợc phát triển từ gia
đình và làng xã nhằm đạt tới một cuộc sống sung sƣớng cho mọi ngƣời. Ông
còn cho rằng, nhà nƣớc tồn tại trƣớc cá nhân nhƣ chỉnh thể tồn tại trƣớc bộ
phận. Cá nhân phụ thuộc vào thành bang, con ngƣời sinh ra là để sống trong
thành bang và thành bang là sự thống nhất của đời sống tinh thần. Tiếp thu
quan niệm đó của Arixtốt, Môngtexkiơ cho rằng, nhà nƣớc ra đời do sự vận
động và phát triển của xã hội loài ngƣời đến một trình độ nhất định. Con
ngƣời từ sống theo bản năng sinh tồn vƣơn lên sống theo xã hội và theo pháp
luật. Từ đó, con ngƣời lập gia đình, tạo nên xã hội rồi mới sáng lập ra nhà
nƣớc. Trong gia đình, ngƣời ta sử dụng đạo đức và tập quán, trong xã hội có
nhà nƣớc thì ngƣời ta sử dụng pháp luật. Quyền lực tối thƣợng của xã hội là
thuộc về nhân dân.
Khi khẳng định sự cần thiết phải có sự phù hợp giữa chính trị và pháp
luật, Arixtốt cho rằng, việc đề cao pháp luật phải gắn với cơ chế, hệ thống các
cơ quan thực thi quyền lực nhà nƣớc. Và, khi đƣa ra ý tƣởng về sự cần thiết
phải tổ chức nhà nƣớc một cách quy củ để đảm bảo sự công bằng của pháp
luật, Arixtốt cho rằng, hình thức nhà nƣớc thích hợp là hình thức mà ở đó có
sự phân biệt cần thiết giữa ba loại quyền lực: nghị luận, chấp hành và xét xử.
Sứ mệnh của nhà nƣớc là không chỉ bảo đảm cho con ngƣời sống bình

×