Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.73 KB, 21 trang )

1




TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





Bộ môn:
Triết Học




Chương 10 :

LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM




GIẢNG VIÊN : TS. BÙI VĂN MƯA
LỚP : CAO HỌC Đ ÊM 6 – K20
HỌC VIÊN : NHÓM THUYẾT TRÌNH
CHƯƠNG 10





TP. HỒ CHÍ MINH, 2011


2



LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử cho thấy, trong xã hội loài người ngoại trừ xã hội cộng sản nguyên thủy
quản lý nhà nước thông qua Hội đồng, Đại hội nhân dân và Thủ lĩnh quân sự, thì ở
các hình thái xã hội còn lại để quản lý xã hội người ta đều thông qua Nhà nước. Để
đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi nhà nước là gì, nguồn gốc từ đâu mà có, bản chất
thực sự của nhà nước là như thế nào, nhà nước có vai trò gì đối với xã hội và trong
quá trình phát triển của xã hội nhà nước đã tồn tại qua bao nhiêu hình thái khác
nhau, đặc trưng cơ bản của các k iểu nhà nước này ra sao; bên cạnh đó cũng thật
là cần thiết để tìm hiểu về kiểu nhà nước đang quản lý xã hội chúng ta sống - Nhà
nước Pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đó là những nội dung mà tiểu luận
về “LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT N AM” sẽ mang đến cho các bạn.
Tiểu luận này sẽ gồm hai phần chính, phần I là những nội dung cơ bản nhất về nhà
nước như nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, vai trò của nhà nước cũng
như những hình thức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử; phần II sẽ cung cấp những
nội dung khái quát về nhà nước pháp quyền như nhà nước pháp quyền là gì, các
đặc điểm của nó, khái quát về các tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử và
khái quát về Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, nội dung của tiểu luận này sẽ không

tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của các bạn.


I.

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN VỀ NHÀ
NƯỚC:
3



1. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước:
1.1. Nguồn gốc:
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên
thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà
nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền
lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và
không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội
phân chia thành các giai cấp đối kh áng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều
hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn
nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan
quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà
nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp
chủ nô và giai cấp nô lệ.
Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nguyên nhân trực tiếp của sự
xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Đúng như
V.I.Lênin nhận định: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai

cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất
hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp
là không thể điều hoà được"1. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất
định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn
nữa.
1.2. Bản chất:
- Theo quan niệm của các tư tưởng triết học trước C.Mác: thường đứng trên lập
trường duy tâm và tôn giáo.
- Theo quan niệm của triết học Mác-Lênin: Nhà nước là một yếu tố đặc biệt quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng. Thực chất:
4



Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là một yếu tố đặc
biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất
định; là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một
tổ chức quyền lực đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp đối kháng.
Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:
 Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ
thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và
bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà
nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục
vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư
sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng.

Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:
 Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác.
 Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người b ảo vệ
pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của công dân được thực
thi.
 Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng
lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà
nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Ví dụ: Nhà
nước giải quyết các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh
tật, chiến tranh, các vấn đề v ề môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ,
về dân tộc, t ôn giáo v à c ác chính sách xã hội khác.v.v…Bảo đảm trật tự
chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển
5



Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà
nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không
giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm v i hoạt động của
nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi
nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là c ơ b ản,
cần thiết để t ác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu
quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà nước chỉ nên hoạt động và quản lý trên
năm lĩnh vực sau:
 Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo đảm thi h ành pháp luật.
 Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô,điều tiết, điều phối các chính sách kinh
tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.

 Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (c ấp phép, kiểm dịch, kiểm
định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực.v.v…)
 Giữ vai trò là người bảo vệ (Các) nguồn những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn
thương trong xã hội (người già, trẻ em, người tàn tật.v.v…)
 Hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, giao thông; phòng chống thiên tai,
bão lụt.v.v…
 Ngày nay các nước trên thế giới đều chú ý quan tâm nhiều đến vai trò xã hội
của nhà nước vì sự tồn vong của cộng đồng xã hội.
1.3. Đặc trưng
- Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Nhà nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổi, quản lý cư dân
theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn
giáo.v.v…
- Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị
thông qua việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy
chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cản sát.v.v…) để duy trì địa vị của
6



giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội không có quỳen lực này như tổ
chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đo àn thanh niên, Mặt trận Tổ Quốc, …
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình. Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ
thuộc vào lực lượng bên ngoài
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong
xã hội phải tuân theo:
 Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế.

 Thông qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội,
buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân theo.
 Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp dụng pháp
luật.
- Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc, nhằm:
 Để duy trì bộ máy nhà nước.
 Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,
 Giải quyết các công việc chung của xã hội
 Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
 Có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
đối với mọi thành viên trong xã hội
 Hình thành thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị của nó.
2. Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước
2.1. Chức năng cơ bản:
- Chức năng chính trị và xã hội
7



o Chức năng chính trị: bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị
o Chức năng xã hội: bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của cộng đồng quốc gia
trong đó có lợi ích của gia c ấp thống trị
Quan hệ giữa chức năng chính trị và chức năng xã hội: chức năng chính trị giữ
vị trí chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội, còn chức
năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị, đảm bảo
cho việc thực hiện chức năng chính trị một cách hiệu quả.
- Chức năng đối nội và đối ngoại
o Chức năng đối nội: duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự
khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
o Chức năng đối ngoại: b ảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối

quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác mà thực chất là thực
hiện lợi ích giữa giai cấp thống trị trong mối quan hệ với các quốc gia khác
nhau.
Quan hệ giữa chức năng đối nội và đối ngoại: chức năng đối nội quyết định chức
năng đối ngoại vì nhà nước ra đời và tồn tại là do cơ cấu giai cấp bên trong của
mỗi quốc gia quy định. Sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trước hết
trên phạm vi quốc gia dân tộc và lợi ích của giai cấp thống trị chủ yếu là duy trì
địa vị cai trị nhân dân trong nước. Mặt khác, chức năng đối ngoại cũng có t ác
động mạnh mẽ đối với chức năng đối nội. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống
kinh tế - xã hội đòi hỏi mỗi nhà nước cần phải củng cố, đổi mới chức năng đối
ngoại cho phù hợp với điều kiện lịch sử thời đại. Nhưng muốn làm được điều đó
cần phải đổi mới và tăng cường chức năng đối nội nhằm tạo nên nội lực đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu thực hiện chức năng đối ngoại.
2.2. Vai trò kinh tế
- Tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
8



o Nếu các chính sách và pháp luật của nhà nước phù hợp với nhu cầu khách
quan của nền kinh tế, đáp ứng được những đòi hỏi khách quan của quá trình
phát triển kinh tế thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
o Ngược lại, nếu các chính sách và pháp luật của nhà nước không phù hợp thì
sẽ kìm hãm hay phá hoại sự phát triển đó.
- Duy trì trật tự xã hội theo ý chí của giai cấp nắm tư liệu sản xuất, nhờ đó mà duy
trì được tính ổn định của quá trình sản xuất xã hội. Từ đó giai cấp thống trị có
thể thực hiện được sự bóc lột kinh tế đối với những người lao động.
- Khi nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được xác lập thì vai trò của nhà
nước đối với sự phát triển kinh tế càng tăng và bộc lộ rõ nét hơn so với các nhà
nước phong kiến và chủ nô trước đây vì:

o Thứ nhất, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế luôn diễn ra những biến động
khôn lường và tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng kinh tế, chính vì thế đã
làm xuất hiện nhu cầu cần can thiệp của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan
hệ kinh tế sao cho ít có khả năng xảy ra khủng hoảng nhất
o Thứ hai, để mỗi nền kinh tế có thể tồn t ại v à phát triển bình thường thì cần
phải có các khu vực kinh tế công cộng. Tư nhân chỉ tập trung đầu tư, phát
triển những lĩnh vực có thể thu được nhiều lợi nhuận. Những lĩnh vực không
vì mục đích lợi nhuận nhưng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
thì nhà nước tất yếu phải là lực lượng đầu tư và phát triển nhân danh đại biểu
cho toàn xã hội.
o Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế thường tất yếu đòi hỏi phải có một môi
trường chính trị - xã hội ổn định cần thiết. Mặt khác, xu thế phát triển của
kinh tế thị trường là theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, do đó nó càng cần
tới vai trò của nhà nước bằng các chính sách đối ngoại, tạo môi trường pháp
lý cần thiết cho quá trình đó.
3. Các kiểu và các hình thức nhà nước trong lịch sử
3.1. Các kiểu và các hình thức nhà nước trong xã hội có đối kháng giai cấp
- Nhà nước chủ nô: là kiểu nhà nước của giai cấp chủ nô nhằm thực hiện sự
chuyên chính của giai cấp chủ nô đối v ới giai cấp nô lệ v à tầng lới dân tự do. Nhà
9



nước chủ nô lại được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hai hình
thức cơ bản là quân chủ và dân chủ
- Nhà nước phong kiến: là kiểu nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến
nhằm thống trị giai cấp nông dân và những người lao động. Nhà nước này được xây
dựng dựa trên chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến.
 Ở phương Tây thời trung cổ, nhà nước phong kiến thường tồn tại dưới hình
thức quân chủ phân quyền, phù hợp với tính chất phân tán của nền sản xuất

nông nghiệp và thủ công nghiệp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất. Trong chế độ phong kiến phân quyền, mỗi chúa phong kiến là một ông
vua trên lãnh thổ của mình, chúa phong kiến nhỏ làm chư hầu cho chúa
phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất nhưng thông thường
cũng chỉ có thực quyền trên lãnh thổ của mình.
 Ở phương Đông, nhà nước phong kiến thường tồn tại dưới hình thức quân
chủ tập quyền, dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, tính tập quyền
chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự nên nguy cơ phân quyền luôn thường
trực. Một khi chính quyền nhà nước suy yếu thì nguy cơ của cuộc nội chiến
tranh giành quyền lực giữa các thế lực địa chủ có thể xảy ra.
- Nhà nước tư sản: nhà nước của giai cấp tư sản nhằm thực hiện nền chuyên
chính tư sản đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước tư sản có hai
hình thức cơ bản:
 Quân chủ lập hiến
 Hình thức cộng hòa, trong đó hình thức cộng hòa đại nghị là điển hình vả
phổ biến nhất
3.2. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH
- Khái niệm:
10



Theo Ăngghen, nhà nước chuyên chính vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt, đó là
nhà nước không còn đúng theo nguyên nghĩa đen của nó mà là “nửa nhà nước”, thể
hiện qua các nội dung:
 Thứ nhất, đây là kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, được xác lập sau khi giai cấp vô sản và nhân dân
lao động làm cách mạng xóa bỏ nhà nước của các giai cấp bóc lột, và nó sẽ
tự tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
 Thứ hai, kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản, được xây dựng và

hoàn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội, nhằm tổ chức
nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trên cơ sở liên
minh công nông và trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai
cấp vô sản.
 Thứ ba, là kiểu nhà nước không chỉ có chức nang trấn áp mọi thế lực chống
đối công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà quan trọng hơn là tổ chức xây
dựng nền kinh tế và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Hình thức tồn tại::
 Nhà nước công xã Pari (1871): được Mác phân tích và rút ra những bài học
kinh nghiệm về việc tổ chức hình thức nhà nước kiểu mới
 Nhà nước Xô viết: dễ dàng chuyển từ chế độ tư bản lên chế độ xã hội chủ
nghĩa
 Nhà nước dân chủ nhân dân: là hình thức thích hợp trong quá trình cải tạo
kinh tế xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước chuyên chính vô sản
nhiều hình thức khác nhau nhưng dù dưới hình thức nào thì xét về bản chất, nhà
nước đó đều thuộc kiểu nhà nước chuyên chính vô sản được xây dựng trên cơ sở
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản với mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
11



II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XHCN VIỆT NAM
1. Khái niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền:
1.1. Khái niệm:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự
ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
1.2. Đặc điểm:

Nhà nước pháp quyền có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vai trò tối cao.
Với hình thức tổ chức xã hội theo mô hình nhà nước pháp quyền thì pháp luật trở
thành tiêu chuẩn và là căn cứ căn bản nhất, cao nhất trong mọi hoạt động của bản
thân nhà nước, của các tổ chức xã hội và mỗi công dân. Nghĩa là tất cả các chủ thể
và cá thể trong xã hội; kể cả hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà
nước cũng phải tuân theo pháp luật mặc dù chính nó là những cơ quan công bố, ban
hành, thực thi và kiểm tra việc thực hiện pháp luật.
Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nư ớc
nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở
trình độ nào.
- Thứ hai, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền
lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân.
+ Trong nhà nước pháp quyền, bản thân luật pháp phải thể hiện được ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Ở các nhà nước theo hình thức tổ chức nhà nước pháp
quyền đều thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực nhà nước, thực
hiện chế độ trưng cầu dân ý.
12



+ Đặc điểm n ày cho thấy, mỗi cá nhân trong xã hội được tổ chức theo hình thức nhà
nước pháp quyền đều có tư cách công dân và tư cách là cá nhân tự do. Với tư cách
công dân, mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định pháp luật; với tư
cách cá nhân tự do, mỗi cá nhân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không
cấm. Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi cá nhân và tổ chức chính trị-xã hội
nào xâm hại đến lợi ích của xã hội. Như vậy, trong nhà nước pháp quyền, con người
được xem là giá trị và mục t iêu cao nhất. Các quyền con người được thể chế hóa
thành hiến pháp và pháp luật.
- Thứ ba, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự

đảm bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước
và công dân.
+ Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật
của mình, làm tổn hại đến lợi ích của công dân.
+ Các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về
những hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Ngoài ba đặc điểm trên, còn có sự tranh luận về nguyên tắc “ tam quyền phân lập”.
Có quan niệm cho rằng, nguyên tắc này là đặc điểm của nhà nước pháp quyền; tuy
nhiên, quan điểm khác cho rằng việc phân tách quyền lực nhà nước thành ba bộ
phận quyền lực độc lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và chi phối ràng buộc lẫn
nhau hay không không phải là vấn đề thuộc về bản chất của hình thức tổ chức nhà
máy pháp quyền. Theo quan điểm này, vấn đề thuộc bản chất nhà nước pháp quyền
là quyền lực nhà nước có thực sự thuộc về đông đảo nhân dân hay không; ý chí, lợi
ích và quyền lực của đông đảo nhân dân một khi đã được đề lên thành pháp luật có
thực sự là chuẩn mực cơ bản và tối cao trong mọi hoạt động của xã hội và công dân
hay không; lợi ích hợp pháp của các công dân, các tổ chức trong xã hội và của bản
thân bộ máy nhà nước có được tôn trọng hay không.
2. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử:
13



Những tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội đã xuất hiện từ
thời cổ đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
2.1. Ở phương Đông:
Các nhà triết học Trung Quốc như Lão Tử, Trang Tử và đặc biệt là Hàn Phi Tử đã
đưa ra nhiều tư tưởng về tính tối thượng của pháp luật và sự bình đẳng của mọi
người trước pháp luật. Lão Tử và Trang Tử đã đưa ra tư tưởng nhằm giới hạn sự
can thiệp của công quyền vào đời sống cá nhân con người, bảo vệ sự tự do của con
người. Còn Hàn Phi Tử đặc biệt nhấn mạnh và đề cao vai trò của pháp luật trong

công việc quản lý xã hội. Ông cũng đưa ra các tiêu chuẩn hết sức cần thiết trong
việc xây dựng luật pháp như tính khách quan, tính công bằng, minh bạch và tính ổn
định.
2.2. Ở phương Tây:
Dù tư tưởng về nhà nước và pháp quyền xuất hiện rất sớm nhưng đến thời cận đại
mới trở thành những lý luận có tính hệ thống cao và có giá trị thực tiễn lớn.
- Thời cổ đại, một s ố triết gia nổi tiếng như Xôcrát, Platông, Arixtốt đã đưa ra
nhiều ý tưởng về nhà nước pháp quyền như đề cao tính công minh của pháp
luật trong xét xử, cũng như sự cần thiết phải xây dựng các bộ luật và quản lý
xã hội bằng pháp luật.
- Thời trung cổ, nhà triết học-thần học T.Đacanh cũng có những luận giải khá
sâu sắc về nhà nước và pháp quyền.
- Vào thời cận đại, đây là thời kỳ diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị giành
quyền lực nhà nước giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến, do đó mà
nhiều lý luận triết học về pháp quyền ra đời, tiêu biểu như:
+ Nhà triết học Hà Lan Xpinôđa (1632-1677) là người đã sáng lập ra lý thuyết về
“pháp quyền tự nhiên”. Theo lý thuyết này, một khi pháp luật phù hợp với quy luật
tự nhiên thì nó cũng phù hợp với bản t ính tự nhiên của con người. Theo ông, cần
14



hạn chế quyền lực của nhà nước bằng những đòi hỏi tự do của con người và cần có
sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội.
+ Nhà triết học duy vật Anh Lốccơ (1632-1704) cũng đứng trên quan điểm pháp
quyền tự nhiên của con người mà cho rằng “luật tự nhiên là bắt buộc vì rằng đó là
sự tự do”. Theo ông, nhà nước không phải tự nhiên mà có hay xuất phát từ ý muốn
của riêng người nào mà nó thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy nhiệm. Con người
chỉ dành một phần cho nhà nước và chỉ đến với nhà nước vì tự do của nó trong đời
sống xã hội, chứ không phải để mất tự do. Lốccơ cũng là một trong những nhà tư

tưởng triết học đặt nền móng lý luận cho sự ra đời của thuyết tam quyền phân lập tư
sản.
+ Nhà triết học khai sáng Pháp Môngtexkiơ (1689-1775) chia chính thể nhà nước
thành ba loại: chính thể chuyên chế, quân chủ và dân chủ. Chính thể dân chủ là
chính thể mà dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng có quyền lực tối cao. Ở đó,
pháp luật là tối thượng và người dân chấp hành luật pháp với ý thức làm cho mình,
tự mình gánh lấy nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi. Môngtexkiơ cũng là người
đưa ra thuyết tam quyền phân lập nổi tiếng. Theo quan điểm của ông, phân quyền là
tự do chính trị trong quan hệ với hiến pháp nên ba cơ quan quyền lực dù độc lập
nhưng ràng buộc lẫn nhau, tạo nên sự vận động chung của toàn bộ hệ thống nhà
nước. Ngoài thuyết tam quyền phân lập, Môngtexkiơ và Rút xô (1712-1788) còn
đưa ra lý luận về khế ước xã hội. Chúng đã ảnh hưởng lớn tới các lý thuyết pháp
quyền của các nhà triết học Đức như Cantơ (1724-1804) và Hêghen (1770-1831).
+ Cantơ tán thành quan điểm phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau và có xu hướng đi vào những cơ sở
triết học của lý thuyết nhà nước pháp quyền tư sản, đi tìm những cơ sở triết học của
lý thuyết ấy từ bản tính tiên nghiệm của con người.
+ Hêghen tiếp tục luận chứng những cơ sở triết học của lý thuyết nhà nước pháp
quyền từ học thuyết về sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối”. Ông cho rằng xã hội công
dân, trật tự pháp luật và các đạo luật mang tính pháp quyền là những yếu tố cấu
thành của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, theo Hêghen, nhà nước và pháp lu ật chỉ
15



là sự thể hiện, sự tha hóa trong đời sống hiện thực của các ý niệm đạo đức tuyệt đối
và ý chí tự do; pháp luật trong nhà nước pháp quyền chính là hiện thực của tự do và
là tồn tại thực tế của ý chí tự do.
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
3.1. Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

3.1.1. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục và nâng cao
đạo đức.
Những quan điểm và nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được
thiết lập trong Nghị quyết của Đảng tại Hội nghị giữa nhiệm ký khóa VII n ăm 1994,
Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII năm 1995. Đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đưa ra chủ trương: tăng cường pháp chế,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, n âng cao đạo đức.
3.1.2. Là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công phối
hợp giữa các cơ quan trong v iệc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Mặc dù nhà nước pháp quyền mà Đảng ta chủ trương xây dựng vẫn kế thừa những
giá trị phổ biến của các hình thức nhà nước pháp quyền trước đây, trước hết là của
các hình thức nhà nước pháp quyền tư sản hiện đại, nhưng đó không phải là nhà
nước pháp quyền tư sản mà là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng định: “Nh à nước ta là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Cũng như các nhà nước pháp quyền hiện đại trên thế giới, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Na m là nhà nước đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt
16



động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền Việt
Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật, theo pháp luật. Đây chính là nguyên tắc có tính hiến định, nhằm xác

lập các cơ sở chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội, giữa công dân
với công dân, giữa công dân với nhà nước, giữa nhà nước v ới c ác tổ chức xã hội.
Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân nên hệ thống pháp luật thể hiện tập trung ý chí, lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội,
cán bộ, công chức và mọi công dân đều phải tôn trọng pháp luật. Pháp luật trở thành
công cụ quan trọng nhất để đảm bảo quyền tự do dân chủ và lợi ích của nhân dân.
Như vậy, điểm khác biệt căn bản giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ, nếu như nhà nước
pháp quyền tư sản, quyền lực của nhà nước được phân cho ba cơ quan khác nhau,
hoàn toàn độc lập với nhau đảm nhiệm, thì một trong những nguyên tắc quan trọng
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quyền lực nhà nước thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính đặc thù này là do cơ sở kinh tế và
tính chất xã hội chủ nghĩa của Nhà nước pháp quyền Việt Nam quy định.
3.1.3. Mang bản chất giai cấp công nhân, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính
nhân dân và tính dân tộc.
Nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Không có và
không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai
cấp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất của giai cấp
công nhân cũng không nằm ngoài quy luật đó, tức là công cụ chuyên chính và đại
diện cho lợi ích của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
ta được biểu hiện ở chổ nhà nước được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản –
đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân. Từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ
chức, hoạt động của nhà nước đều phải quán triệt tư tưởng, quan điểm của giai cấp
công nhân, trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
17




Minh. Nhưng vì lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản thống nhất với lợi ích của
giai cấp nông dân và của các tầng lớp nhân dân lao động khác nên nhà nước pháp
quyền Việt Nam đại diện cho lợi ích của tất cả nhân dân lao động. Điều đó cũng có
nghĩa, đối với nhà nước pháp quyền Việt Na m, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với
tính nhân dân và tính dân tộc. Nhà nước càng có tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc
bao nhiêu thì càng thể hiện đầy đủ bấy nhiêu bản chất giai cấp công nhân của mình.
3.1.4. Do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân và được đặt dưới sự
kiểm soát của nhân dân
Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết toàn dân, do đó mọi hoạt động của nhà nước đều vì dân, lấy việc phục vụ nhân
dân làm mục tiêu cao nhất. Để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, trong
tổ chức và hoạt động của mình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất giữa tổ chức và hành động,
phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân,
của cả nước và từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành
nó. Bản chất nhà nước pháp quyền thể hiện ra ở tính dân chủ. Đối với nhà nước ta,
quyền dân chủ của nhân dân trên mọi mặt của đời sống xã hội được đảm bảo bằng
luật, bằng cơ chế, chính sách và không ngừng được hoàn thiện, nâng cao trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước cũng như trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước.
3.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay, để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tất yếu chúng ta phải xây
dựng và phát triển một nền kinh tế thị trường hiện đại. Thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường tất yếu dẫn tới nhu cầu khách quan là phải xây dựng và
hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước. Hơn nữa đó phải là nhà nước
18




pháp quyền, trong đó biểu hiện pháp lý rõ rệt nhất của nó là tính tối thượng
của pháp luật trong điều hành và quản lý kinh tế - xã hội.
Xã hội dựa trên nền tảng phát triển kinh tế thị trường có các đặc trưng phân biệt v ới
các xã hội trên nền tảng kinh tế tự cấp, tự tức, khép kín truyền thống thời trung cổ ở
chổ nó là xã hội dân sự chứ không phải xã hội của những thần dân. Đặc điểm của xã
hội dân sự là tự do, sáng tạo của mỗi cá nhân con người; là s ự cạnh tranh ganh đua
thực hiện lợi ích kinh tế. Tất cả những điều đó đòi hỏi sự tồn tại khách quan của các
khế ước hay các hợp đồng, thỏa thuận giữa các chủ thể. Trong nền kinh tế thị
trường thì lợi ích, mà trước hết và căn bản là lợi ích kinh tế của các chủ thể được đặt
lên hàng đầu. Ở đó, các giá trị đạo đức truyền thống dường như chỉ là cái phụ thuộc
và có vai trò mờ mạt trong các hoạt động kinh tế. Ngay cả đối v ới các nước Đông Á
vốn là những nước có truyền thống đức trị theo quan điểm Nho giáo hàng ngàn năm
qua cũng không ra ngoài giới hạn khách quan đó. Chính vì vậy cần c ó sự nghiêm
minh, chuẩn xác của các quy định pháp luật trong việc xác định đúng, sai của các
phạm vi hoạt động kinh tế của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức trong xã hội. Thiếu sự
nghiêm minh, chuẩn xác và tối thượng của quyền lực nhà nước theo pháp luật để cai
trị thì không thể tạo hành lang pháp lý cần thiết cho phát triển kinh tế thị trường,
càng không thể là kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, cùng với quá trình phát triển của kinh tế thị trường là quá trình có xu
hướng khách quan phân hóa giai cấp và tầng lớp xã hội. Ch ấp nhận phát triển kinh
tế thị trường nhưng không chấp nhận phân hóa giai tầng xã hội là điều không tưởng.
Và như vậy, tất yếu có nguy cơ tạo ra các mâu thuẫn chính trị, xã hội. Điều này
càng đòi hỏi nâng cao vai trò và hoàn thiện bản chất nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
- Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, cần thiết phải thực hiện
năm điểm cơ bản sau đây (theo Văn Kiện Đại hội IX và X của Đảng Cộng

Sản Việt Nam):
19



+ Một là, tiếp tục xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam, với quan điểm Nhà nư ớc ta là c ông cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan,
tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật. Để tăng cường vai trò của Nhà nước phải tiến hành cải cách tổ chức và hoạt
động của nhà nước gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn;
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ
quan nhà nước.
+ Hai là, tiến hành cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước theo
hướng kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và
hướng dẫn thi hành pháp luật. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ,
trong sạch và vững mạnh, từng bước hiện đại hóa phân công, phân cấp, nâng cao
tính chủ động của chính quyền địa phương. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của cơ quan tư pháp. Thực hiện tinh giảm biên chế trong các cơ quan
nhà nước.
+ Ba là, tiếp tục phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương tăng cường pháp chế,
theo hướng nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân,
hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ đi đôi v ới giữ
vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên

truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành luật pháp.
+ Bốn là, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thực
hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý. Sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ theo đúng chức danh, đạt tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá
20



chất lượng cán bộ, công chức để kịp thời thay thế cán bộ công chức yếu kém và
thoái hóa. Có chính sách đãi ngộ, đào tạo đối với cán bộ cấp phường, xã, thị trấn.
+ Năm là, kiên quyết tiếp tục cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở mọi cấp, mọi ngành từ Trung ương đến cơ sở;
cùng với việc chống tham nhũng, phải chống tham ô lãng phí, quan liêu, buôn lậu,
đặc biệt là các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.






21



KẾT LUẬN

Sự phát triển của sản xuất đã mang đến cho xã hội nhiều của cải hơn, nhưng mặt
khác nó cũng đem đến sự phân hóa giai cấp trong xã hội và vì bảo vệ quyền lợi của
giai cấp mình sẽ làm nảy sinh mâu thuẩn giữa các giai cấp khác nhau. Nhà nước sẽ
ra đời trong bối cảnh cuộc đấu tranh của các giai cấp đối kháng đang đến cao trào

không những có thể tiêu diệt lẫn nhau mà còn đưa xã hội đến nguy cơ diệt vong.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu nhằm duy trì mâu thuẩn giai cấp
trong một giới hạn nhất định và nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai
cấp, không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước
chung cho tất cả các giai cấp. Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
mang bản chất của giai cấp công nhân cũng không nằm ngoài quy luật chung đó,
tuy nhiên do đặc trưng riêng của Việt Nam lợi ích của giai cấp công nhân gắn liền
với lợi ích của giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động mà trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tính giai cấp gắn liền với tính nhân
dân và tính dân tộc.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến xu hướng khách quan là
phân hóa giai cấp và tầng lớp trong xã hội, chấp nhận phát triển kinh tế thị trường
đồng nghĩa với v iệc chấp nhận phân hóa giai tầng xã hội, điều này sẽ dẫn đến nguy
cơ tạo ra các mâu thuẩn chính trị, xã hội. Để vượt qua những thách thức này đòi
hỏi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng phải nâng cao vai trò và
hoàn thiện bản chất hơn nữa.


×