Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.64 MB, 86 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Đ^r H()c Quốc GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐAI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VÃN
VIỆN TRIẾT HỌC
BÙI THI HOÀN
PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: THựC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên
Mã số:
LUẬN VÃN THẠC s ĩ TRIÊT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Đặng Hữu Toàn
ngành: Triết học
60 22 80
Hà Nội - 2005
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
N ộ i dung và các trích dẫn nêu trong luận văn có nguồn gốc rỗ ràng
và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
BÙI THỊ HOÀN
MỤC LỤC
Trang
MỎ ĐẦU 1
Chương 1. 8
THỰC CHẤT CIÍA Sự PHẢN HOÁ GIÀU- NGHÈO VÀ THựC
TRẠNG PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Thực chất của sự phàn hoá giàu- nghèo 8
1.2. Thực trạng và nguyên nhàn của sự phân hoá giàu - nghèo ở
nước ta hiện nay 21
1.2.1. Những biểu hiện của sự phân hoá giàu- nghèo và tác động của nó


ở nước ta hiện nay 21
7.2.2. Nguyên nhân của sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay 35
/
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỂ ĐẶT RA TỪ s ự PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 49
2.1. Những vấn đề đặt ra từ sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện
nay " 49
2.2. Một số giải pháp khắc phục sự phân hoá giàu- nghèo ở nước ta
hiện nay 54
2.2.7. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoánông nghiệp, nông thôn 55
2.2.2. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách xã hội 60
2.2.3. Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ chuyên
môn cho người lao động 70
2.2.4. Tăng cườìig vai tr i quản lý của nhà nước và hệ thống pháp luật 73
KÊT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
MỞ ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử nhân loại chưa có thời gian ngắn nào lại tập trung nhiều sự
biến đổi to lớn, đa dạng, phức tạp và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cúa các
dân tộc và vận mệnh của các quốc gia như hiện nay. Những thay đổi sâu sắc,
rộng lớn về chính trị và xã hội đã quy định chiều hướng phát triển của loài người
trong thời đại ngày nay. Cùng với những mâu thuẫn trên thế giới hiện vẫn đang
tồn tại và phát triển, hiện tượng phân hoá giàu- nghèo với tư cách một vấn đề
mang ý nghĩa kinh tế - xã hội cũng đang trở thành hiện tượng phổ biến, phức tạp
ở hầu hết các nước. Nó là một trong những thách thức lớn mà mỗi quốc gia phải
đối mặt. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
tình trạng phân hoá giàu - nghèo luôn mang những sắc thái và biểu hiện khác

nhau thể hiện cả mặt tích cực cũng như tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội.
Đối với nước ta hiện nay, tình trạng phân hoá giàu- nghèo cũng đang là
một thách thức lớn mà chúng ta phải giải quyết. Nội dung và hình thức biểu
hiện của nó đã có nhiều nét mới và có mặt sãu sắc hơn. Chính vì vậy mà yêu
cầu đặt ra cho chúng ta phải xem xét, giải quyết hiện tượng này như thê' nào
để phù hợp với thực tiễn, với quy luật phát triển khách quan của tiến trình đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đều biết, hàng ngàn năm qua, ước mơ của nhân loại nói chung,
của dân tộc ta nói riêng là có một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mọi
người đều được công bằng, bình đẳng trong mọi quan hệ xã hội, trong lao động
và hưởng thụ. Trong tiến trình xây dựng đất nước ở mọi giai đoạn, chúng ta
luôn đặt mục đích này lên trên tất cả. Vì thế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu là phấn
đấu xây dựng nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
Trong quá trình thực hiện mục tiêu trên, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, sự phấn đấu bền bi của toàn dân tộc, chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn trên nhiều mặt. Theo tiến trình của công cuộc đổi mới đất nước, tình
hình kinh tế - xã hội nước ta đã có nhữns bước phát triển mới, toàn diện hơn.
Kinh tế tăng trưởng khá cao và ổn định, năm sau cao hơn năm trước. Các hoạt
động sản xuất và dịch vụ đều phát triển và tăng trường cao. Song, bên cạnh đó,
một bộ phận dân cư vẫn đang phải chịu cảnh thiếu thốn, chưa đảm bảo được
những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Sự phân hoá giàu- nghèo vẫn đang
diễn ra và trở thành vấn đề được cả cộng đồng xã hội quan tâm. Tinh trạng
“chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là 11 lần, hệ số chênh
lệch về mức sống giữa đô thị và nông thôn từ 5- 7 lần"[ 10, tr. 18]'*’.
Phân hoá giàu- nghèo là hiện tượng có tính hai mặt: bên cạnh mặt tích
cực, liên quan đến sự phân công lao động và có nhiều người lao động làm giàu
hợp pháp, góp phần giúp đỡ người nghèo, còn có mặt tiêu cực, liên quan đến
bất bình đẳng xã hội, mà nếu để nó diễn ra một cách tự phát trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta thì sẽ dễ dẫn đến những bất ổn định trong sự phát triển

không chỉ về kinh tế, văn hoá, xã hội mà cả lĩnh vực chính trị, thậm chí còn
dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát mà chúng ta đã xác định trong thời kì quá độ lên chú nghĩa xã hội. Song,
kinh tế thị trường lại làm cho một số bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng,
còn một bộ phận khác lại có xu hướng lâm vào tình trạns thiếu tư liệu sản
xuất, rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Hiện tượng phân hoá giàu - nghèo này
đang có xu hướng tăng lên không chỉ ở các thành phố lớn, thị xã, mà cả ở
những vùng nông thôn và miền núi. Biểu hiện rõ nhất của nó được thể hiện
qua sự chênh lệch về thu nhập, về mức sống giữa các vùna, các nhóm dân
cư, giữa nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề, thậm chí cả trong
nội bộ vùng Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những công trình nghiên
círu khoa học trên nhiều phương diện khác nhau để luận giải hiện tượng này
nhằm tìm ra phương hướng khắc phục những ảnh hường tiêu cực của nó
trong sự phát triển của đất nước. Vì vậy, làm rõ thực chất của sự phân hoá
2
'*' T ừ dày: - sỏ đắu là số thứ tự tài liệu thain khảo.
- Sô sau là sồ irang của tài liệu tham kháo.
3
giàu - nghèo trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, từ góc độ triết
học, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, tìm ra các hướng đi,
giải pháp cụ thể, phù hợp nhằm ngăn chặn, khắc phục kịp thời ảnh hưởng
tiêu cực của nó, giữ vững định hướng xã hội chú nghĩa là việc làm vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Với quan niệm đó, chúng
tôi chọn vấn đề “Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay: Thực trạng
và giải pháp" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phân hoá giàu - nghèo đã được nhiều nhà lí luận có uy tín, nhiều
chuyên gia xã hội học quan tâm tìm hiểu và luận giải trên nhiều góc độ khác
nhau.

Trước hết, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đã tập trung tìm
hiểu phân hoá giàu - nghèo ở các nước trong khu vực để rút ra kinh nghiệm
nhằm khắc phục sự phân hoá giàu - nghèo ở Việt Nam. Tiêu biểu cho
hướng nghiên cứu này có: “Phăn hoá giàu- nghèo ỏ một số quốc gia khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương" do tác giả Dương Phú Hiệp và Vũ Văn Hà
chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 1988. Trong công trình này,
các tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phàn hoá
giàu nghèo, xu hướng, nguyên nhân và những chính sách để giải quyết tình
trạng này ở các nước trong khu vực chãu Á- Thái Bình Dương [xem : 26].
Tiếp sau là công trình “Cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội", Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, năm 1998 của Nguyễn Đình Tấn đã phàn tích một
cách có hệ thống về cơ cấu xã hội - phân tầng xã hội, đưa ra khái niệm và cách
tiếp cận cơ cấu xã hội, các thành tô' cấu thành cơ cấu xã hội, các phân hệ xã
hội và cách quản lí xã hội [54].
Còn công trình “Giàu nghèo trong nông thôn hiện nay" do Nguyễn Văn
Tiêm (chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 1993 lại mô tả thực tế về
đời sống nông dàn, khoảng cách và xu hướng phân cực giàu - nghèo trong
nông thôn và nguyên nhân dẫn đến giàu nghèo, vai trò của nhà nước và cộng
4
đồng đối với các hộ nghèo [56]. Tiếp đến là công trình" Kinh tế thị trường vù
sự phân hoú giàu- nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta (1999)
cúa Lê Du Phong và Hoàng Văn Hoa đã phân tích ảnh hưởng tiêu cực của nền
kinh tế thị trường đối với sự phân tầng xã hội và phàn hoá giàu - n^hèo ở các
vùng dàn tộc và miền núi phía Bắc nước ta [47].
Trong công trình “Giải quyết vấn đề phản hoủ giàu nghèo ở các nước
và Việt Nam", Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2000, tập thể tác giả Lê Du
Phong, Hoàng Vãn Hoa, Nguyễn Văn Áng đã dựa trên cơ sớ nghiên cứu thực
trạng, các chính sách hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở một số nước trên thế
giới và thực tiễn ờ nước ta trong những năm gần đây để đưa ra những giải
pháp khoa học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dàn chủ, văn minh [48].
Đề cập tới thực trạng phân tầng mức sống và tác động cúa chuyển đổi
cơ cấu lao độn£ nghề nghiệp tới phản tầng mức sống cùng những nhân tô' ảnh
hưởng ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng được thể hiện trong công trình
“Tác động của chuyển đổi cơ cấu lao động nghê nghiệp xã hội đến phân tầng
mức sống"do Đỗ Thiên Kính (chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm
1999 [31].
Trong công trình “Phân hoá giàu - nghèo và tác động của yếu tố học
vấn đến nâng cao mức sống cho người dán Việt Nam"( qua hai cuộc điều tra
mức sống dân cư Việt Nam năm 1993, 1998), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
năm 2003, tác giả Đỏ Thiên Kính đã tập trung làm sáng tỏ nhận thức về thực
trạnơ phân hoá giàu - nghèo ở Việt Nam và chỉ ra vai trò của yếu tô' học vấn
trong việc nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam nhằm khắc phục phân
hoá giàu - nghèo và thực hiện công bằng xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế [
32].
Tác giả Lương Việt Hải cũng có bài viết về “Sự phân hoá giàu nghèo
trong kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay" đãng trên
Tạp chí Triết học, năm 2002, sô' 8. Nội dung phân hoá giàu nshèo mà tác giả
5
bàn đến trong bài viết này mới chí được xem xét trong mối quan hệ với nhũng
giá trị đạo đức [21].
Ngoài ra, còn nhiều tác giả khác cũng đề cập đến vấn đề này, nhimg chi
tập trung vào vấn đề nghèo, khảng định yêu cầu cấp thiết của việc xoá đói
giảm nghèo, như tác giả Nguyễn Thị Hằng trong công trình “Vấn đề xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay", xuất bản năm 1997, tác giả Trần
Thị Hằng trong công trình “ Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay", xuất bản 2001.
Các công trình nêu trên đều tiếp cận và dựa trên những số liệu khác
nhau, có những phương pháp sử dụng mẫu điều tra khác nhau, cho nên việc
nhận thức và phàn loại phân hoá giàu- nghèo chưa có sự thống nhất. Các công

trình nghiên cứu tình trạng phân hoá giàu - nghèo trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa từ góc độ triết học, có thể nói, còn rất ít. Những
năm gần đây, thực trạng phân hoá giàu - nghèo cũng đã có sự thay đổi, đòi hỏi
phải có sự bổ sung và tìm ra những giải pháp phù hợp với sự biến đổi của
thực trạng đó. Việc nghiên cứu nó từ góc độ triết học, theo chúng tôi, là phù
hợp để xác định hướng giải quyết có hiệu quả, kịp thời tình trạng phân hoá
giàu - nghèo ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận vãn là, từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, làm rõ thực chất của sự phân hóa giàu- nghèo để từ đó luận giải những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta hiện nay và
đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng này.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích một số quan niệm tìm hiểu về sự phân hoá giàu- nghèo, về
tiêu chí phân hoá giàu - nghèo thực trạng phàn hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện
nay; phân tích những biểu hiện và sự tác động của phân hoá giàu- nghèo, những
vấn đề đặt ra từ sự phàn hoá giàu- nghèo đó.
6
- Luận giải những nguyên nhàn dẫn đến tình trạng phân hoá giàu-
nghèo ờ nước hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế sự phân hoá
giàu- nghèo đó.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Có thể nói, cơ chế thị trường được áp dụng vào thực tiễn nước ta đã
mang lại sự biến đổi lớn trong thu nhập của người dân, nhưng nó cũng làm
cho khoảng cách phân hoá giàu - nghèo của các bộ phận dân cư, nhất là mấy
năm gần đây, ngày càng tăng. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng
tôi không có điều kiện để tìm hiểu được toàn bộ thực trạng phân hoá giàu-
nghèo từ trước tới nay hay đi sâu vào từng vùng, từng địa bàn, từng bộ phận
dân cư trên cả nước, mà chỉ có thể tìm hiểu thực trạng đó một cách tổng quát
dựa vào những số liệu thống kê có được qua kết quả của các cuộc điều tra,

khảo sát ở một sô' thành phố, tính thành trong thời gian gần đây mà một số
công trình khoa học đã công bố.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận văn là triết học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề này. Luận văn cũng kế thừa và sứ dụng kết quả nghiên cứu của các
công trình nghiên cứu khoa học mà các tác giả đi trước đã thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp phàn tích và so
sánh, tổng hợp, kết hợp hệ thống hoá, khái quát hoá, sử dụng tư liệu điều tra
xã hội học, sử dụng quan điểm toàn diện và phát triển,V. V
6. Đóng góp mói của luận văn
Luận văn bước đầu xác định và luận giải một số vấn đề về phân hoá
giàu- nghèo, làm rõ thực trạng và những nguyên nhân cơ bản của sự phân hoá
giàu- nghèo đó, đồng thời xác định định hướng khắc phục một cách có hiệu
quả tình trạng đó từ thực tiễn đổi mới đất nước theo định hướns chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vãn
Các kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về triết học xã hội, cho các cơ quan, tổ
chức có liên quan đến việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề phân hoá giàu-
nghèo ở nước ta hiện nay.
8. Kết câu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 2 chương, 4 tiết.
8
C hưưng1
THỰC CHẤT CỦA Sự PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO VÀ
THỰC TRẠNG PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Thực chất của sự phân hoá giàu-nghèo

Phàn hóa giàu - nghèo là hiện tượng xã hội phổ biến kê từ khi xã hội
loài người có sự phân chia giai cấp cho đến nay. Giờ đây, trong kỷ nguyên
toàn cầu hoá và đô thị hoá đang ngày càng phát triển, xã hội loài người nói
chung khá sung mãn về đời sống vật chất và có nhu cầu cao về đời sống văn
hoá, tinh thần, nhưng bên cạnh đó, vẫn phải đối mặt với đói nghèo và vấn đề
phân hoá giàu- nghèo đang ngày càng trở nên bức xúc đối với cả cộng đồng
nhân loại. Khoảng cách về đời sống và chất lượng sống giữa người giàu và
người nghèo ngày càng cách xa. Vấn đề này không chi tổn tại ở những nước
nghèo mà còn ở cả những nước phát triển. Ví dụ ở Mỹ- một nước giàu nhất thế
giới, người giàu chỉ chiếm 0,5% dân số, song họ lại chiếm tới 45% tài sản
quốc gia, họ có 96% cổ phiếu và trái phiếu trên toàn nước Mỹ. Được thừa
nhận là nước giàu, nhimg ở nước Mỹ, người nghèo thất nghiệp vẫn chiếm 16%
tổng dân sô' (dữ liệu 1995), trong đó người da đen chiếm 40%; 35 triệu người
sống dưới mức nghèo khổ theo chuẩn định của Liên Hợp Quốc (thu nhập 2
đôla/ người/ngày); khoảng 10 triệu người vô gia cư và ở đây hàng loạt nhữno
tệ nạn xã hội khác vẫn thườns xuyên diễn ra [Xem: 20. tr.50-51].
Việc xem xét vấn đề giàu- nghèo là hết sức phức tạp.Vì sao nhân loại
cùng được sinh ra nhưng có người giàu, lại có người nghèo? Phải chăng ai vẫn
còn phải lo toan cho bữa ăn thì người đó là người nghèo. Phải chăng cuộc
sống đối với người giàu mới là cuộc sống, còn đối với người nshèo thì đó chí
là sự sinh tồn mà thôi. Trong hoàn cảnh vật chất dồi dào, khái niệm người
nghèo, người giàu nên xác định như thế nào? Phải chăng nsười có thu nhập
thấp, ít của cải thì gọi là nghèo. Phải chàng họ giàu nhưng khỏns tự nhận là
giàu thì cũng gọi là nghèo. Nhìn bề ngoài chúng ta khó có thể phàn biệt được
ai là giàu, ai là nghèo.
9
ở nước ta hiện nay, khái niệm giàu- nghèo cũng chi mang ý nghĩa
tương đối. ở những nơi giàu có, một người dù có xe máy, có nhà đẹp vẫn có
thể thuộc lớp người có thu nhập thấp và vất vả vật lộn với cuộc sống( vì họ có
thể vay tiền để mua). Nhưng ở một nơi nghèo khó khác, họ lại có thể được coi

là người giàu. Giàu- nghèo là tên gọi cụ thể ở thang bậc khác nhau của cuộc
sống . Mặt khác, hiện tượng giàu- nghèo bao giờ cũng là một hiện tượng xã
hội phức tạp, bao gồm nhiều nhân tố: giàu-nghèo về kinh tế, giàu- nghèo về
văn hoá, giàu-nghèo về kiến thức, giàu- nghèo về sức khoẻ, Để giải quyết
vấn đề phân hoá giàu - nghèo trong xã hội đương đại, chúng ta cần giải quyết
vấn đề giàu- nghèo ớ góc độ kinh tế (thu nhập thực tế trong hộ gia đình). Vì
thu nhập thực tế phản ánh mức sống, mức sinh hoạt và có liên quan đến việc
chi tiêu, đến phong cách sống, kế mưu sinh, của mỗi gia đình, mỗi người
dân. Tuy nhiên, giàu - nghèo ở đây chỉ được xác định một cách tương đối, vì
luôn có sự biến động về tỷ lệ và khoảng cách giàu - nghèo theo thời gian.
Theo tác giả Nguyễn văn Tiêm, để xác định hộ giàu ở nông thôn nước ta(
1992) cần căn cứ vào mức thu nhập tính bình quân 1 nhàn khẩu/1 năm, và
tham khảo các tiêu chuẩn khác như: các tiện nghi phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của các thành viên trong gia đình ( nhà ở, đồ dùng trong nhà); mức chi
tiêu đời sống vật chất tinh thần của chủ hộ; mức tích luỹ hàng năm của hộ. Mặc
dù theo cách tính này con số cụ thể còn chưa cập nhật, nhưng theo cách xác định
hộ giàu này cũng được nhiều nhà khoa học chấp nhận [Xem: 56]. Hơn nữa, tiêu
chuẩn xác định giàu - nghèo cũng thường không thống nhất và không nhất quán
giữa các quan niệm khác nhau. Việc khảo sát thu nhập, mức sống của người giàu
là rất khó, vì những người giàu thường che giấu của cải, mức thu nhập. Theo đó,
chuẩn giàu là rất khó xác định. Vì vậy, có thể dùng chuẩn nghèo để phân biệt
giàu - nghèo trong xã hội.
Có thể nói, giàu - nghèo và chuẩn nghèo là một khái niệm động, biến
đổi theo không gian và thời gian. Có rất nhiều tiêu chí phân loại giàu - nghèo,
song người ta thường sử dụng tiêu chí phân loại theo mức sống và thu nhập.
Đày là cách phân loại phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Từ góc độ này,
10
việc xem xét các diện mạo khác nhau về giàu - nghèo nói chung, rmười ta
thường kết hợp với các yếu tố cải thiện cuộc sống như chi cho ăn uống, học
hành, y tế, sức khoẻ, nhà ở,

Vậy, người nghèo là người như thế nào? Theo UNDP, sự nghèo khổ của
con người là thiếu những quyền cơ bản như biết đọc, biết viết và được nuôi
dưỡng tạm đủ. Từ quan niệm này, người ta xem xét sự nghèo khổ của con
người từ các góc độ như nghèo về tiền tệ, nghèo khổ cực độ, nghèo khổ chung,
nghèo tương đối, nghèo tuyệt đối.
Định nghĩa chung nhất về người nghèo do Hội nghị chống nghèo đói ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan vào tháng
9/1993 đưa ra là: “Nghèo là rình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và rhod mãn những nhu cầu cơ bẩn của con người, mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương"[23, tr.26J. Như vậy, theo cách xác định này, người
nghèo ở các nước khác nhau sẽ có mức thu nhập không giống nhau.
Ớ Việt Nam ta, Tổng cục Thống kê dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo
đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa
trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng bao gồm lương thực và phi lương thực,
trong đó chi tiêu cho lương thực phải đảm bảo 2100 calo mỗi ngày cho một
người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo nếu mức thu nhập và chi tiêu
không đú để đảm bảo giỏ tiêu dùng này. Các ngưỡng nghèo và khống nghèo
được Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới thống nhất công nhận là
[Xem: I, tr.6]:
Chi tiêu bình quãn đáu người hàng năm
1993(nghln đổng, tính vào thời điểm
tháng 1-1993)
1998(nghìn đổng, tính vào thời
điềm tháng 1-1998)
Ngưỡng nghèo vé lirơns
(hục Ihực pham
750 1287(92 USD)
Ngưỡng nghèo chung
1 160 1 7SS( 128 USD)

Ngưỡng nghèo ở Việt nam trong các năm 1993-1998
Nghèo lương thực, thực phẩm: tỷ lệ này được xác định bằng mức thu
nhập tính theo thời gian đủ để mua lương thực, thực phẩm thiết yếu đám bảo
khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng bình quân một người một ngày
là 2100 calo. Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm tính theo thu nhập bình
quân một người một tháng qua các năm [Xem: 3, cập nhật 15/4/2005]:
1999(nghìn đồng)
2002(nghìn đổng)
2004 (nghìn đồng)
Nông thôn
112
115 124
Thành thị
146 150 163
Những hộ có mức thu nhập bình quàn nhân khẩu dưới chuẩn trên thuộc
diện hộ nghèo. Như vậy, tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm từ nãm 1999 đến
năm 2004 tuy đã giảm trên phạm vi cả nước, nhưng ở các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc thì tỷ lệ này còn cao hơn tỷ lệ chung của cả
nước.
Tỷ lệ nghèo chung được tính theo chuẩn nghèo thống nhất với chuẩn
nghèo do Ngàn hàng thế giới đưa ra bao gồm chi tiêu của dân cư về các mặt
hàng lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo khẩu phần ăn được duy trì với
nhiệt lượng tiêu dùng bình quân một người một ngày là 2100 calo, cộng thêm
một lượng hàng hoá thiết yếu phi lương thực, thực phẩm. Chuẩn nghèo chung
tính theo chi tiêu bình quân một người một tháng chung cho cả hai khu vực
thành thị, nông thôn năm 1998 là 149 nghìn đồng; 2002 là 160 nghìn đồng;
2004 là 178 nghìn đồng. Những người có mức chi tiêu bình quân một tháng
dưới chuẩn trên được coi là nghèo. Tỷ lệ nghèo chung từ năm 1998 đến năm
2004 đã giảm nhưng vẫn còn cao ở các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Bắc [Xem: 3, cập nhạt 15/4/20051 ■

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xác định chuẩn nghèo dựa trên
thu nhập tính bằng lương thực, cụ thể là lương thực quy thóc bình quân đầu
người tháng của hộ gia đình. Các hộ được xếp vào diện nghèo nếu thu nhập
đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định. Mức chuẩn này là khác
nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng
tỷ lệ dãn số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo. Sử dụng chuẩn nghèo trên, Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, trong vòng 5 năm gần đãy, tỷ lệ
nghèo đói ở Việt Nam đã giảm đáng kể, từ 19% năm 1996 xuống còn 11%
năm 2000. Trong khi đó, theo cách tính của Ngân hàng thế giới dựa trên số
liệu điều tra mức sống năm 1993, 1998 và áp dụng chuẩn nghèo chung, thì tỷ
lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998 [
Xem: 8, tr.67-68].
Theo tiêu chí mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra vào năm
1997( trong Thông báo số 175/LĐ- XH ngày 20/5/1997) thì hộ đói là hộ có
thu nhập bình quân đầu người 1 tháng quy ra gạo dưới 13 kg (hay 45000đ) đối
với mọi vùng; hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng quy
ra gạo dưới 15 kg (hay 55000đ) đối với nông thôn miền núi, hải đảo; dưới 20
kg( hay 70000đ) đối với nông thôn đồng bằns, trung du; dưới 25kg (hay
90000đ) đối với thành thị. Theo tiêu chí này, nãm 1999 cả nước có 13,03% số
hộ nghèo [xem: 28. trl8J.
Theo Quyết định 1143/2000/LĐTBXH ngày 1/1/2000 của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng dưới 80.000 ĐVN (hay 960 ĐVN/người/năm) ở khu vực miền núi,
hải đảo; dưới 100.000 ĐVN (hay 1.200.000 ĐVN/ người/ năm) ở nông thôn
đồng bằng; dưới 150.000 ĐVN (hay 1.800.000 ĐVN/ người/năm) ở thành thị.
Theo tiêu chí này, đầu năm 2001 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
khoảngl7,8% tổng số hộ trên cả nước [xem: 9, tr. 11 ].
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nước ta còn đưa ra chuẩn nghèo
tính theo thu nhập cho giai đoạn 2001- 2005 là: Vùng đô thị là 150 ngàn
VNĐ/ tháng/người (1,8 triệu đồng/năm/người). Vùng nông thôn đồng bằng là

100 ngàn VNĐ/ tháng/ người (1,2 triệu đồng/ người/ năm). Vùng nông thôn
miền núi là 80 ngàn VNĐ/tháng/ người (0,69 triệu đồng/năm/người).
Chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006 - 2010 được Chính phủ thông qua
trong phiên họp thường kỳ tháng 4 năm 2005 như sau: Đối với khu vực nông
thôn, những hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ 200.000 đồng
trở xuống. Đối với khu vực thành thị, những hộ có thu nhập bình quân đầu
người một tháng từ 260.000 đồng trở xuống. Theo chuẩn nghèo này, ước tính
cuối năm 2005 cả nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo, chiếm 26-27% số hộ
toàn quốc.
Với những tiêu chí trên, có thể nói khi bàn tới nghèo đói, người ta
thường ngụ ý chỉ sự thiếu thốn về những nhu cầu cần thiết cho sinh tồn. Người
nghèo là người có mức sống dưới mức trung bình của cộng động. Trong đó,
khái niệm nghèo dựa trên thu nhập đã cho thấy sự đa dạng của tình trạnơ
nghèo đ ó i.
Vậy, thực chất của sự phân hoá giàu - nghèo là gì? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta cần phải xem xét mối quan hệ của nó với vấn đề phán tầng xã hội.
Trong các xã hội có giai cấp, phân tầng xã hội là hiện tượng tất yếu và
luôn gắn liền với bất bình đẳng xã hội. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã
hội được xem là hệ quả tất yếu của nhau. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
trên thế giới hiện nay cho thấy, phân tầng xã hội, phân hoá giàu- nghèo là vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp. Do vậy, bản thân sự phân hoá giàu- nghèo cũng
phải được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Phân tầng xã hội là một trong những khái niệm cơ bản cúa xã hội học.
Trong lịch sử đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề phân
tầng xã hội, điển hình nhất là những công trình nghiên cứu của nhà xã hội học
Đức M. Vâybơ. Ông đã đưa ra nguyên tắc tiếp cận ba chiều đối với vấn .đề
phân tầng xã hội khi khẳng định khái niệm phân tầng xã hội phải bao hàm cả
việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ba chiều đó chính là ba khía cạnh:
địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín). Tài
sản, quyền lực và uy tín có thể tồn tại độc lập với nhau, nhung trong thực tế

chúng luôn có quan hệ mật thiết và có thể chuyển hóa cho nhau. Người có tài
sản có thể dễ dàng sử dụng tài sản này để đạt được quyền lực, uy tín. Ngược
lại người có quyền lực, uy tín lại có thể sử dụng quyền lực, uy tín này để nhận
được những bổng lộc và quyền lợi kinh tế do xã hội mang lại [xem: 48, tr.75 ].
Với quan niệm này, ông cho rằng, phân hoá giàu- nghèo là cách thức mà sự
phàn phối quyền lực được thể chế hoá, còn nguồn gốc cứa sự phân chia giai
cấp gắn liền với sự phân chia giữa những người có sở hữu và người không có
sở hữu. M.Vâybơ còn khhảng định rằng, khi xem xét vấn đề phân tầng xã hội,
cần phải chú ý đến cả sự hình thành các nhóm xã hội trên cơ sở của sự tín
nhiệm, bởi các nhóm xã hội này được xác nhận không phái bởi vị trí của họ
trong sản xuất, mà chính là bởi lối sống của họ. Theo ông, bản thân người có
tư liệu sản xuất chưa hẳn đã là người có quyền lực và uy tín, mà có thể do
nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như giáo dục, trình độ vãn hoá, Coi thị trường
cũng là một trong những nguyên nhân đđu tiên dẫn đến bất bình đẳng xã hội
hơn, M. Vâybơ cho rằng trong nền kinh tế thị trường, vấn đề tiếp cận thị trường
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số phận các cá nhân, vì khả năng tiếp cận
thị trường của mỗi người là không giống nhau. Ngoài yếu tố tài sản, các nhân
tố tự nhiên, bẩm sinh, nhân tô' xã hội tác động đến khả năng tiếp cận này, mỗi
người đều có sự khác nhau về năng lực, trí tuệ và do vậy, khả năng tiếp cận thị
trường của họ cũng khác nhau. Những sự không đồng đều này là nguồn gốc tự
nhiên đầu tiên của sự bất bình đẳng xã hội và của sự phàn hoá giàu- nghèo
[xem: 48, tr.8].
Tổng hợp các quan niệm khác nhau về phân tầng xã hội, một sổ nhà
nghiên cứu xã hội học ở nước ta đã đưa ra một quan niệm về phân tầng xã hội
như sau: “Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của mọi xã
hội loài người, trừ những tổ chức xã hội sơ khai (thời kì đầu cúa xã hội công
xã nguyên thuỷ). Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp các thành viên
trong xã hội thành các tầng xã hội khác nhau. Đó là sự khác nhau về địa vị
kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín
cũng như khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp, phong cách sinh

hoạt, cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, trình độ tiêu
dùng,v.v."[54, tr.7].
Chúns ta đều biết, khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chú ý đến
sự phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội. c. Mác cho rằng, sự phân
tầng xã hội chịu sự quy định của nhân tố kinh tế (sở hĩai về tư liệu sản xuất).
14
Từ đó, C.Mác khảng định, có thể phân chia các tầng lớp xã hội trong xã hội tư
bản thành giai cấp vô sản và giai cấp tư sản dựa trên cơ sở nền tảng là mối
quan hệ của họ với tư liệu sản xuất.
Theo C.Mác, sở hữu tư liệu sản xuất hay quyền sớ hữu tài sản là cái
đóng vai trò quyết định trong sự phân chia xã hội thành các giai cấp và các
tầng lớp khác nhau. Chính quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất là cơ sở, là yếu
tô' quyết định quan hệ phân phối và từ đó, dẫn đến sự khác biệt về thu nhập,
làm cho xã hội phân hoá thành nsười giàu, người nghèo. Do vậy, để xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, khắc phục sự phân hoá giàu - nghèo nói riêng,
phân tầng xã hội nói chung cần thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất [xem: 48, tr.7]. Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844, C.Mác đã khẳng định chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất là cơ sò xã hội của mọi sự tha hoá và sự tha hoá này là nguyên
nhân dẫn tới phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Từ đó, C.Mác cho rằng, việc
xoá bỏ chế độ tư hữu này là tiền đề cơ bản cho việc xoá bỏ mọi sự tha hoá, cho
sự nghiệp xây dựng một chế độ xã hội mới không còn tha hoá, cho sự nghiệp
“giải phóng công nhãn", “ giải phóng toàn thể loài người"[36? tr. 168, 143]
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ rõ, nguồn gốc phát sinh
giai cấp, phàn tầng xã hội trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định là do
mối quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất; phân hoá xã hội là do con
người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất nhất định, có vai trò
khác nhau trong tổ chức lao động xã hội và có sự khác nhau về phương thức
và quy mô thu nhập trong xã hội [ xem: 33, Ir. 17-181.
Như vậy, có thể nói cả V.I.Lênin và M.Vâybơ đều cho rằng, phân tầng

xã hội, một mặt, gắn với bất bình đẳng xã hội; mặt khác gắn với phân công lao
động xã hội.
Phân tầng xã hội là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm và thể
hiện rất đa dạng ở các quốc gia khác nhau, các giai đoạn lịch sử khác nhau và
các nền văn hoá khác nhau. “Phân tầng xã hội là sự hiện diện đầy đủ cả mặt
“tĩnh" và mặt “động" của sự bất bình đẳng xã hội. Phân hoá xã hội là trạng
15
16
thái động, là quá trình mà một xã hội nào đó từ trạng thái tương đối thuần nhất
ban đđu chuyển dđn sang thành những nhóm khác nhau, trái ngược nhau về lợi
ích, mức sống, và các định hướng về giá trị" "[54, tr.80]. Sản phám của phân
hoá giàu- nghèo chính là phân cực xã hội, xã hội chia làm hai nhóm nằm ớ
hai cực của một trạng thái xung đột và mâu thuẫn xã hội, và do vậy những cá
nhân và các nhóm xã hội buộc phải lựa chọn chỗ đứng hoạc bị sắp xếp vào
cực này hay cực kia của xã hội.
Phân hoá giàu- nghèo và phàn tầng xã hội có liên quan nhau nhưng
không đồng nhất. Bởi lẽ, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là đặc trưng chủ
yếu của phân hoá giàu- nghèo, phàn chia giai cấp mà theo đó, những đặc trưng
khác như vai trò tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm, quyền thống trị hay bị
trị, sự chiếm đoạt hay bị chiếm đoạt tài sản cũng được hình thành. Còn phân
tầng xã hội không chỉ được đặc trưng bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
mà còn có liên quan tới địa vị kinh tế và những yếu tố khác như thu nhập, tài
sản, mức độ tiêu dùng, quyền lực chính trị, uy tín xã hội , từ đó dẫn đến sự
khác nhau hay giống nhau về hoàn cảnh xã hội giữa những người trong cùng
một giai cấp, và giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ảngghen sáng lập đã khẳng
định: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất quyết định
sự vận động và phát triển của xã hội nói chung. Vì vậy, nếu phân tích đến
cùng thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chính là nhân tổ cốt lõi của vấn đề
phân chia tài sản, địa vị trong kinh tế của một giai cấp nhất định. Chính C.Mác

đã coi “chế độ sở hữu đó là nguyên nhân của hiện tượng phân hoá giàu -
nghèo trong xã hội mà giai cấp vô sản - những người đã bị chế độ sở hữu đó
biến thành nhĩms người vô sản- có sứ mệnh phải xoá bỏ sự phân hoá đó" [57.
tr. 212|.
Dựa vào quan niệm về phân chia giai cấp, phân tầng xã hội của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, trong
lịch sử xã hội đã tồn tại các kiểu phân tầng xã hội khác nhau. Đó là phân tầng
xã hội trong xã hội đẳng cấp và phân tầng xã hội trong xã hội có giai cấp.
Phân tầng xã hội trong xã hội đẳng cấp thể hiện ở ranh giới giữa các tầng lớp
xã hội và được duy trì một cách nghiêm ngặt, địa vị của mỗi người được ấn
định ngay từ đầu, bị quy định ngay lúc mới sinh bởi nguồn gốc, dòng dõi của
cha mẹ mình. Điển hình cho kiểu phân tầng này là ở Ân Độ trước đây. ở nước
ta cũng có hiện tượng này trong thời kì phong kiến, nó được biểu hiện qua câu
ca dao “ Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa". Phân tầng xã
hội trong xã hội có giai cấp là hiện tượng phổ biến trên thế giới hiện nay. Theo
kiểu phàn tầng này thì địa vị của con người trong xã hội chủ yếu phụ thuộc
vào địa vị cúa họ trong nền kinh tế; ngoài ra, địa vị của các cá nhân trong xã
hội còn phụ thuộc trực tiếp vào nghề nghiệp và thu nhập của họ [xem: 54,
tr.82].
ở Mỹ, người ta sắp xếp các thành viên trong xã hội thành những giai
cấp khác nhau trên cơ sở thu nhập và nghề nghiệp của họ. Đa sô' các nhà xã
hội học đều thừa nhận ở Mỹ có các giai cấp sau: Giai cấp thượng lưu (1% ->
3% dân số), trung lưu lớp trên(10 ->15%), trung lưu lớp dưới (30 -> 35%),
giai cấp lao động (40 -> 45%), giai cấp hạ lưu (20 -> 25%).
ở Việt Nam, từ thời kì dựng nước Văn Lang - Âu Lạc đến thời kì đầu
độc lập (thế kỉ X), xã hội vẫn thuộc loại hình công xã nông thôn (hay còn gọi
là phương thức sản xuất châu Á) xã hội Việt Nam khi đó bao gồm 3 tầng lớp
chính: Tầng lớp thống trị (quý tộc, quan lại và một sô' hào trưởng); tầng lơp
nông dàn công xã (đây là nhóm người giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu
trong xã hội, họ có nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước thông qua tầng lớp

thống trị ở công xã và là những người tương đối' tự do); tầng lớp nô tỳ (nhóm
người phục vụ trong các gia đình quý tộc, hào trưởng) [xem: 32, tr.21- 24].
Vào thời kì phong kiến, từ thế kỉ XI-XV, bức tranh toàn cảnh của sự
phân tầng xã hội ở Việt nam gồm 2 mảng chính là vua - quan và bình dân.
Vua quan là đẳng cấp bên trên, cầm quyền và thống trị. Đại bộ phận còn lại là
đảng cấp bình dân bị trị ở bẽn dưới (họ vừa là thần dàn vừa là những người bị
bóc lột). Đó là những người làm ruộng nơi làng xã và nộp tô thuế, là nông dân
tiểu tư hữu và địa chủ bình dàn là thríthíi rnn» và thương nhân.
P ia i Ũ n r ' ẽ i n
f ị ( r -
í a i A U À M(~1I
17
ĐẠI HỢỌ ouăẽ ©IA HÀ NỌI
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
Ư I A / iU /l
18
Từ thế kỉ XVI đến giữa XIX (1858), bức tranh toàn cảnh của sự phán
tầng xã hội ở Việt Nam được nhìn nhận theo hai góc độ cơ cấu là giai cấp và
đẳng cấp, bao gồm:
Xét theo cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam khi đó thì giai cấp
phong kiến (địa chủ) và nông dân là 2 giai cấp trung tâm của xã hội. Còn xét
theo cơ cấu đảng cấp (tiêu chuẩn để phàn biệt đẳng cấp là sự kết hợp các yếu
tố về chức tước, tuổi tác và địa vị) thì ở nông thôn có 3 đắng cấp chính: quan
viên (quan lại văn võ, nho sĩ), dân chính cư (dân đinh) và dân ngụ cư; còn ở đô
thị được phân chia thành tầng lớp quan liêu (vua quan thuộc triều đình trung
ương và chính quyền địa phương), thợ thủ công- thương nhàn (bộ phận đông
đảo và là đẳng cấp bị trị) và nho sĩ.
Như vậy, các cơ cấu giai tầng (giai cấp và tầng lớp ) trong xã hội Việt
Nam ở thời kì phong kiến luôn có sự đan xen và chồng chéo nhau, thể hiện
tính đa chiều rất rõ. Sự phàn chia các cơ cấu này dựa trên nhiều tiêu chí khác

nhau: chức tước, địa vị, quyền lực, tài sản, nghề nghiệp, tuổi tác, học vấn.
Những tiêu chí này, xét đến cùng, cũng đều do quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất quyết định.
Trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 - 1945), cơ cấu giai tầng
xã hội cũ vẫn giữ nguyên và xuất hiện thêm một số tầng lớp mới là giai cấp
công nhân và giai cấp tiểu tư sản dân tộc (nho sĩ và trí thức mới). Như vậy, bổ
sung vào tính đa chiều trong phân tầng xã hội ở giai đoạn trước, trong thời kỳ
này đã xuất hiện thêm chiều cạnh phân tầng xã hội theo lý thuyết giai cấp cúa
C.Mác. Sự bổ sung đó đã làm cho tính đa chiều trong phân tầng xã hội ở Việt
Nam ngày càng phức tạp thêm.
Xã hội Việt Nam thời kỳ từ 1945 đến trước khi đổi mới đã có sự giảm
dần cơ cấu nhiều giai tầng và thu gọn lại trong kết cấu giai cấp bao gồm: công
nhân, nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Các giai cấp này
tương ứng với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đối vói tư liệu sản xuất.
Đây là “kết cấu giai cấp hình thức" [32, tr.27], các giai cấp này không có sự
đối lập và xung đột về ý thức giai cấp, vì cơ sở kinh tế quy định kết cấu giai
19
cấp thời kỳ này là chế độ công hữu duy nhất. Đa số dãn cư trong các giai tầng
xã hội đều sống trong tình trạng nghèo đói, mặc dù vẫn có sự chênh lệch mức
sống vật chất giữa các tầng lớp, nhưng sự chênh lệch đó không lớn. Kết cấu
hình thức này được xây dựng theo lý thuyết hướng tới một xã hội không còn
giai cấp (chủ nghĩa cộng sản). Như vậy, chiều cạnh phân tầng xã hội theo lý
thuyết giai cấp của các nhà sáng lập Mác- Lênin là cái giữ địa vị thống trị
tuyệt đối.
Có thể nói, khi đất nước ta chưa bước vào thời kỳ đổi mới, xã hội Việt
Nam là một xã hội nông nghiệp trồng lúa nước, nông nghiệp luôn đóng vai trò
cơ sở của nền kinh tế quốc dân, gia đình nông dân là tế bào, là đơn vị nền tảng
của xã hội. Quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, kể cả khu vực nông thôn
và thành thị, là sự phát triển dựa trên trục cơ bản là kinh tế tiểu nông, nên xã
hội mang nặng “tính bình quân"[ 32, tr.29]. Trong xã hội vẫn luôn diễn ra tình

trạng phân hoá giàu- nghèo, phân tầng xã hội, nhưng ranh giới giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội không rạch ròi và mang tính tương đối. Trong thời
kỳ đổi mới hiện nay, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường và thừa
nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế nên các giai cấp hình thức trước đổi mới đã có sự biến đổi. Cùng
với đó, tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội ta cũng có nhiều thay đổi.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tình tạng phàn hoá giàu- nshèo ở Việt
Nam hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng, “là cái trục trung tàm của phân tầng
xã hội" [50, tr.6]. Có nhà nghiên cứu còn khẳng định rằng, ở nước ta hiện nay
đang tồn tại một cách khá phổ biến sự phân tầng xã hội theo mức sống (tức là
phân hoá giàu- nghèo). Hiện tượng phân hoá giau- nghèo diễn ra ở mọi nơi, ở
cả nông thôn, đô thị và các vùng- miền địa lí khác nhau, nơi nào mà kinh tế
càng phát triển, thị trường hàng hoá sôi động thì nơi đó, phàn tầng xã hội,
phân hoá giàu - nghèo diễn ra càng rõ ràng hơn. Tuy nhiên, do các giai tầng
xã hội định hình trong xã hội ta hiện nay theo nghĩa đầy đủ của phân tầng xã
hội lại không rõ, nên các nhà nghiên cứu ít dùng thuật ngữ phàn hoá giai cấp,
phân tầng xã hội và thay vào đó, họ thường sử dụng thuật ngữ bất bình đẳng
20
và phàn hoá giàu- nghco. Họ thường sử dựng khái niệm phân hoá giàu- nghèo
theo mức sống để thể hiện trạng thái phàn tầng xã hội hiện nay và sử dụng các
tiêu chí như mức sống (thu nhập, chi tiêu, tài sản) để nghiên cứu phân hoá xã
hội. Mặt khác, trong nhận thức của đa số dân cư và trên báo chí hàng ngày,
khi nói về sự phân hoá giàu- nghèo, chúng ta thường thấy xuất hiện những
thuật ngữ, như khác biệt giàu - nghèo, phân cực giàu - nghèo, phán hoá giàu -
nghèo, phân tầng xã hội, phân tầng mức sống Điều đó cho thấy, trong xã hội
ta hiện nay đã xuất hiện sự phân chia thành các bộ phận rạch ròi trong cuộc
sống và sự khác biệt về chất giữa các bộ phận đó. Sự phân hoá giàu - nghèo
trong đời sống dân cư Việt Nam hiện nay là một thực tế [ xem:3i& tr 33]. Do
vậy, việc đánh giá sự phân hoá giàu- nghèo trong xã hội ta hiện nay theo chiều
cạnh phân tầng xã hội được coi là hợp lý. Song, cũng cần phải nhìn nhận, đánh

giá thực trạng phàn hoá giàu- nghèo đó theo những yếu tố khác cho phù hợp
với thực tiễn lịch sử - cụ thể ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, nói tới phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay chính là đề
cập tới một nội dung cơ bản của vấn đề phân tầng xã hội. Phân hoá giàu -
nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, thể hiện nét rõ nhất của phân tầng xã
hội, phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện
kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau, thể hiện sự chênh lệch về tài sản,
thu nhập, mức sống giữa các nhóm xã hội đó. Phân hoá giàu - nghèo chính là
sự phân hoá tài sản, nó biểu hiện nét rõ nhất của phân tầng xã hội, vì ngóài
biểu hiện về mặt tài sản, nó còn biểu hiện cả ở mặt quyền lực và uy tín xã hội.
Phân hoá giàu - nghèo biểu đạt nội dung kinh tế, có nguồn gốc, có căn nguyên
kinh tế. Với tư cách một hiện tượng phổ biến ó tất cả các quốc gia, dân tộc
trong tiến trình phát triển, phân hoá giàu - nghèo không bao giờ là một hiện
tượng kinh tế thuần tuý mà là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Điều này được
hiểu theo nghĩa kinh tế và xã hội có sự liên kết chỉnh thể, nương tựa. biểu
hiện, tác động và chế ước lẫn nhau trong hoạt động thực tiễn và trong đời sống
cúa con người, của xã hội. Kinh tế và xã hội luôn có quan hệ biện chứng với
nhau. Do vậy, phàn hoá giàu - nghèo vừa có mặt kinh tế, vừa có mặt xã hội
trong nội dung của nó, trong sự phát sinh, phát triển của nó. Và ở mỗi thời
điểm, mỗi vùng, mỗi nước khác nhau, chi sô' đánh giá giàu, nghèo cũng có sự
khác nhau và đó là một vấn đề mà chúng ta cần phải tính đến khi phân tích
thực trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. 2. Thực trạng và nguyên nhân của sự phân hoá giàu - nghèo ở
nước ta hiện nay
1.2.1. Những biểu hiện và sự tác động của phân hoá giàu- nghèo ở nước
ta hiện nay.
1.2.1.1 Những biểu hiện của phân hoá giàư-nghèo ở nước ta hiện nay.
Sau gần 20 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã thu được những thành
tựu to lớn, thu nhập và mức sống của dàn cư tăng lên đáng kể. Theo kết quả
điều tra mức sống dân cư năm 2002 của Tổng cục Thống kê thì thu nhập bình

quân đầu người theo giá thực tế ở khu vực thành thị đạt 626 nghìn đồng/tháng,
tăng 21,1% và ở khu vực nông thôn đạt 275 nghìn đồng/tháng, tăng 22,2% so
với năm 1999. Thu nhập của nhóm 20% số hộ giàu (thu nhập cao nhất) đạt
877 nghìn đồng/ tháng, tãng 18,2%, nhóm 20% số hộ nghèo đạt 108 nghìn
đổng/tháng, tăng 11,7%. Mức chi tiêu cho đời sống bình quân một người/ một
tháng năm 2001-2002 là 268 nghìn đồng, bằng 75% thu nhập và tăng 21,4%
so với năm 1999; trong đó chi tiêu của khu vực thành thị là 460 nghìn
đồng/người/tháng, tăng 26,3% và ở khu vực nông thôn là 210 nghìn
đồng/người/tháng, tăng 18% so với năm 1999. Mức chi tiêu của nhóm 20% số
hộ nghèo tăng 11%, nhóm 20% số hộ giàu tăng 18% so với năm 1999. Ngoài
ra, nhóm hộ gia đình thuộc loại trung bình khá và giàu còn chi cho các nhu
cầu ngoài ăn uống tương đối cao, sự chênh lệch giữa các nhóm giàu và nghèo
về khoản chi này biểu hiện khá rõ. Nhóm 20% số hộ giàu có mức chi không phải
cho ăn uổng gấp 7,6 lần so với nhóm 20% số hộ nghèo; trong đó chi về nhà ở,
điện, nước gấp 10,6 lần, chi thiết bị đồ dùng gia đình gấp 7,8 lần, chi đi lại và
bưu điện gấp 16 lần, chi văn hoá, thể thao giải trí gấp 104 lần [ xem: 53, tr.42-
431- Như vậy, có thể nói, với những chênh lệch trên, tình trạng phân hoá giàu-
nghèo ở nước ta hiện nay vẫn ỉà vấn đề đòi hỏi chúng ta phải quan tàm. Bởi lẽ:
21
Thứ nhất, khoảng cách về thu nhập và mức sống giữa cúc khư vực dân
cư có xu hướng ngày càng gia tăng. Xu hướng này thể hiện rõ giữa thành thị
và nông thôn. Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu của các hộ trong hai khu
vực đều có chiều hướng gia tăng. Sự chênh lệch về mức sống đựơc thể hiện rõ
giữa thành thị và nông thôn.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khoảng cách về thu nhập bình
quàn đầu người/ tháng giữa dân cư khu vực thành thị và nông thôn có xu
hướng gia tăng: từ 2,55 lần (1994) lên 2,63 lần (1995); từ 2,7 lần (1996) lên
3,7 lần (1999) và xuống 2,3 lần (2002). Khoảng cách chênh lệch về chi tiêu
giữa 2 khu vực này dao động ở mức 2,5 lần đến 3 lần trong những năm gần
đây. Cụ thể, năm 1995 là 2,5 lần, 1996 là 2,57, 1999 là 3,1 và 2002 là 2,2 lần [

Xem: 53, tr.43- 44].
Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu cúa các hộ trong hai khu vực
không những cao, mà còn có xu hướng tăng dần theo thời gian do tốc độ tăng
thu nhập dân cư thành thị hàng năm thường cao hơn dân cư nông thôn. Tính
ổn định của dân cư nông thôn còn thấp, nhất là nông dân, vì nguồn thu của họ
phụ thuộc rất nhiều vào thòi tiết và giá cả nông sản. Trong những năm qua và
hiện nay thòi tiết diễn biến rất phức tạp, bão lũ, hạn hán, sâu bệnh xảy ra
thường xuyên đã có ảnh hưởng xấu đến kết qủa sản xuất nông, lâm nghiệp và
thuý sản. Giá nông sản không ổn định và có xu hướng giảm dần, trong khi giá
vật tư nông nghiệp và hàng hoá ở thị trường nông thôn đều cao hơn khu vực
thành thị, kể cả những mặt hàng, sản phẩm do Nhà nước quản lý như điện,
nước, thuỷ lợi Mặc dù những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành một số
chính sách nhằm thu hẹp khoảng cách này, nhưng vẫn chưa khắc phục được
tình trạng ngày càng giãn ra giữa các mặt hàng nông sản và cổng nghiệp, bất
lợi vẫn ở phía người nông dân.
Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2000, ở
nước ta chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 5% có mức thu nhập cao nhất với
nhóm 5% có mức thu nhập thấp nhất là vào khoảng 25 lần; còn giữa nhóm
20% có mức thu nhập cao nhất với nhóm 20% có mức thu nhập thấp nhất là
22

×